Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Bài giảng logic học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.38 KB, 85 trang )

BÀI GIẢNG LOGIC HỌC
Người soạn: PGS.TS. Trần Ngọc Linh
Tập trung chú ý ngay từ đầu, liên tục và tự giác

Mở đầu:
1.

Logic học và đối tượng nghiên cứu của nó.

Thuật ngữ “logique” bắt nguồn từ chữ LOGOS trong tiếng Hy Lạp, có
nghĩa ban đầu là quy luật phổ biến, cơ sở của thế giới, trật tự và sự hài hòa của thế
giới. Hiện nay thuật ngữ logic thường được dùng theo những nghĩa như sau:
+ Thứ nhất, khoa học về các quy luật của tư duy và các hình thức của tư duy.
Đó là hệ thống các quy luật mà tư duy của chúng ta phải tuân theo nhằm phản ánh
đúng đắn thế giới hiện thực khách quan, cũng như biểu thị các quy tắc lập luận và
các hình thức (công thức) thực hiện lập luận của chúng taVí dụ: logic học hình
thức; logic học biện chứng. Logic hình thức: sự công thức hóa (formulation) việc
lập luận, sự lập luận, trình bày có hệ thống.
+ Thứ hai, cách lập luận, lý lẽ, suy luận. Suy nghĩ và nói năng có lý, có lẽ.
(Trong cuộc đời mình, chúng ta nên cố gắng rèn luyện để có được hai thói quen
tốt: thói quen có hành vi đạo đức và thói quen suy nghĩ và nói năng có lý). Lý lẽ
khi lập luận có khi đúng, có khi sai. Cho nên có thể người ta nói lý lẽ (logic) của kẻ
mạnh, lý lẽ (logic) của phụ nữ (Hoạn Thư trả lời Kiều trong vụ Kiều cùng Từ Hải
xử án ), lý sự (logic) “cùn” (Vợ mình là con người ta, Con mình do vợ đẻ ra, Suy
đi tính lại chẳng bà con chi…); lý sự của thày đồ đi ăn cỗ với học trò (học trò đi
sau cũng không được, đi trước cũng không được, đi ngang cũng không được… Giả
lại bánh thì muốn đi thế nào cũng được).
Cần rèn luyện để khi lập luận phải đúng, phải hợp lý.
+ Thứ ba, tính hợp lý, chặt chẽ của một hiện tượng, một quá trình, một vấn
đề nào đó…


1


Môn học của chúng ta sử dụng thuật ngữ logic với nghĩa thứ nhất trong các
nghĩa kể trên.
Logic học hình thức là khoa học nghiên cứu các hình thức của tư duy, của
lập luận, nhằm nhận thức và phản ánh (thông qua ngôn ngữ) đúng đắn thế giới
hiện thực khách quan.
2.

Ý nghĩa của logic học đối với cuộc sống:

+ Logic là cách thức sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp trong cuộc sống hàng
ngày có hiệu quả hơn. Cụ thể là, trong học tập, nghiên cứu logic học giúp chúng ta
thu nhận các vấn đề một cách, nhanh chóng, chính xác, đúng với bản chất của nó.
Trong cuộc sống hàng ngày, logic học giúp chúng ta trình bày các vấn đề một cách
chặt chẽ, rõ rành, khúc triết, có căn cứ, cô đọng, nhất quán…
+ Kiến thức về logic giúp chúng ta nâng cao trình độ tư duy, chuyển quá
trình tư duy, lập luận tự phát thành tư duy, lập luận tự giác, chủ động, tạo một nếp
sống, thói quen suy nghĩ, lập luận thông minh, đúng đắn, chính xác hơn.
+ Hiểu biết về logic học giúp cho chúng ta có thể tự phát hiện ra những sai
lầm (về logic, về cách lập luận) của bản thân và của người khác; giúp cho chúng ta
tránh mắc phải những sai lầm logic (hoặc vô tình, hoặc hữu ý).
+ Kiến thức logic học giúp cho các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có thể
nhận định được chính xác các tình huống, đưa ra các quyết định xử lý đúng đắn, có
hiệu quả….

2



CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM
I/ Đặc trưng chung của khái niệm.
1. Định nghĩa: Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản
ánh những dấu hiệu khác biệt cơ bản của đối tượng nhận thức, phản ánh (của sự
vật riêng biệt hoặc một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định nào đó).
2. Bản chất của khái niệm: Mọi quá trình tư duy đều mang đặc trưng tư duy
bằng khái niệm. Có thể nói, khái niệm là viên gạch để xây dựng nên tòa lâu đài tư
duy. Không có khái niệm, con người không thể tư duy, lập luận được.
Tất cả những gì được con người “để mắt” đến, suy nghĩ đến đều được gọi là
đối tượng của tư duy. Mỗi đối tượng của tư duy đều có các dấu hiệu của nó. Dấu
hiệu của đối tượng là những đặc điểm, đặc trưng, tính chất hay thuộc tính và các
quan hệ của đối tượng mà nhờ đó chúng ta có thể phân biệt được các đối tượng
khác nhau với nhau, có thể nhận biết được đối tượng.
Các dấu hiệu được chia thành dấu hiệu cơ bản và không cơ bản. Dấu hiệu cơ
bản là những dấu hiệu quy định bản chất bên trong, quyết định sự tồn tại, biến đổi
của sự vật, hiện tượng. Dấu hiệu không cơ bản là những dấu hiệu không biểu thị
bản chất và không quy định sự tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, khái niệm là hình thức của tư duy, trong đó phản ánh các dấu
hiệu cơ bản khác biệt của một hoặc một lớp sự vật nào đó. Bản chất của các sự
vật hoặc các lớp sự vật được phản ánh trong khái niệm và các sự vật hoặc các lớp
sự vật được phân biệt với nhau qua các dấu hiệu cơ bản khác biệt thể hiện trong
khái niệm.
Trong thực tế, có những khái niệm phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
(khái niệm chân thực), đồng thời cũng có những khái niệm phản ánh không đúng
đắn hiện thực khách quan (khái niệm giả dối, không chân thực).

3



Tư duy khái niệm đặc trưng cho hoạt động tư duy lý luận. Mọi hệ thống
khoa học được thể hiện qua sự phong phú và hoàn thiện của hệ thống khái niệm,
phạm trù của nó. Trình độ của tư duy thể hiện thông qua hệ thống các khái niệm.
II/ Hình thức ngôn ngữ biểu hiện khái niệm.
1.Cơ sở hình thành của khái niệm.
Khái niệm được hình thành trên cơ sở những từ, hoặc cụm từ. Từ và cụm từ
là cơ sở vật chất đặc biệt của khái niệm, không có từ và cụm từ thì không thể hình
thành và sử dụng khái niệm được.
Từ gắn liền với khái niệm nhưng không đồng nhất với khái niệm. Từ thuộc
lĩnh vực ngôn ngữ, là sự thống nhất giữa âm của từ và nghĩa của từ. Khái niệm
thuộc lĩnh vực tư duy trừu tượng, là sự thống nhất giữa dấu hiệu bản chất của đối
tượng (nội hàm) với số lượng các đối tượng (ngoại diên) có chung những dấu hiệu
bản chất đó.
Trong các ngôn ngữ khác nhau, khái niệm biểu thị cùng một đối tượng có
hình thức từ ngữ khác nhau. Thí dụ: để biểu thị cùng một đối tượng là “cái bàn”
tiếng Việt có từ là CÁI BÀN còn tiếng Anh có từ là TABLE.
Trong cùng một ngôn ngữ, một khái niệm chỉ một đối tượng cũng có thể
được biểu thị bằng nhiều từ khác nhau (những từ khác âm, đồng nghĩa). Thí dụ, để
chỉ đối tượng “Tổ quốc” có nhiều từ khác nhau: đất nước, non sông, quê cha đất tổ,
đất mẹ v.v.. Để chỉ đối tượng “Cái chết” có nhiều từ khác nhau: khuất núi, khuất
bóng, qua đời, đã đi xa, đã thành người thiên cổ, về chầu ông bà ông vải, ngoẻo rồi,
ngủ với giun v.v..
Lại có trường hợp cùng một từ nhưng lại biểu thị những đối tượng khác
nhau (từ đồng âm khác nghĩa). Thí dụ: cùng một từ “ĐƯỜNG” có thể có ít nhất hai
nghĩa khác nhau: đường đi, ngọt như đường. Cùng một từ “MẬT” cũng có thể có
ít nhất hai nghĩa: mật ngọt chết ruồi, nằm gai nếm mật (đắng) (câu chuyện Việt
Vương Câu Tiễn).
4



Do đó khi sử dụng các khái niệm trong tư duy, lập luận, tranh cãi v.v.. cần
nắm chắc khái niệm tránh tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt” gây hiểu lầm, hoặc bị
lừa đảo, mất thời gian… Thí dụ: câu chuyện anh chàng mượn chủ quán một cái vạc
(giống cái chảo, nhưng to hơn), khi ông chủ quán đòi, anh ta mang đến 2 con cò.
Chủ quán bảo “Anh mượn tôi vạc tại sao lại mang cò đến trả?”. Anh chàng liền
nói “Tôi mượn ông một vạc mà tôi trả đến hai cò thì ông được hời quá còn gì nữa”.
Chủ quán ngạc nhiên “Nhưng mà vạc của tôi là vạc đồng cơ mà”. Anh chàng liền
đáp: “Thì cò tôi cũng là cò đồng chứ sao” ?!?!.
Nhất là trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật có hệ thống thuật ngữ riêng biệt
để sử dụng. Khi thảo luận những người trong cùng lĩnh vực chuyên môn trao đổi
với nhau mới có thể hiểu nhau.
2.Kết cấu của khái niệm.
Mỗi khái niệm bao giờ cũng có nội hàm và ngoại diên của nó. Nội hàm và
ngoại diên của khái niệm tạo thành kết cấu logic hình thức của khái niệm.
a) Nội hàm khái niệm (nội dung hàm chứa trong khái niệm): là tập hợp các
dấu hiệu cơ bản khác biệt của đối tượng hay của lớp đối tượng đươc phản ánh
trong khái niệm. Thí dụ: khái niệm con người có nội hàm (dấu hiệu cơ bản khác
biệt): là động vật có năng lực chế tạo và sử dụng công cụ lao động, có khả năng tư
duy trừu tượng. Những dấu hiệu khác như đi bằng hai chân…. không phải là dấu
hiệu cơ bản khác biệt nên không coi là nội hàm của khái niệm con người.
b) Ngoại diên khái niệm (phạm vi bao chứa của khái niệm): là số lượng đối
tượng hoặc số lượng các lớp (tập hợp) đối tượng được phản ánh trong khái niệm.
Thí dụ: khái niệm người Việt Nam có ngoại diên là tập hợp toàn bộ những người
có quốc tịch Việt Nam trên toàn thế giới.
Có những khái niệm có ngoại diên rất rộng hoặc vô tận, được gọi là những
khái niệm vô hạn. Thí dụ: khái niệm vũ trụ, nhân loại, vật chất …

5



Có những khái niệm có ngoại diên hẹp (hữu hạn). Thí dụ: người Việt Nam,
tác giả Tiến quân ca (Quốc ca) …
Thậm chí có những khái niệm ngoại diên “rỗng”, nghĩa là không có đối
tượng (có thực) nào được bao chứa trong khái niệm đó. Thí dụ: nàng tiên, rồng…
Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm: Nói một cách tóm
tắt, mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm là mối quan hệ tỷ lệ
nghịch. Nội hàm càng ít dấu hiệu cơ bản khác biệt thì ngoại diên càng rộng (càng
nhiều đối tượng được phản ánh trong khái niệm). Nội hàm càng nhiều dấu hiệu cơ
bản khác biệt thì ngoại diên càng hẹp (Càng ít đối tượng được phản ánh trong khái
niệm). Thí dụ: Khái niệm hình tứ giác: có nội hàm là một hình có 4 góc, 4 cạnh.
Ngoại diên bao gồm tất cả những hình có 4 cạnh, 4 góc. Thêm vào một dấu hiệu cơ
bản để định nghĩa hình chữ nhật: là một hình tứ giác có hai cặp cạnh song song
nhau,một cặp cạnh dài, một cặp cạnh ngắn có 4 góc vuông. Ngoại diên sẽ bị hẹp
lại: các loại hình tứ giác như hình bình hành, hình vuông … sẽ bị loại khỏi khái
niệm hình chữ nhật này.
3.Quan hệ giữa các khái niệm.
Các sự vật trong thế giới hiện thực khách quan có mối quan hệ, tác động qua
lại lẫn nhau. Các khái niệm là sự phản ánh các sự vật đó trong tư duy của con
người, do đó giữa các khái niệm cũng có mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Những
quan hệ giữa các khái niệm gồm có: quan hệ đồng nhất, quan hệ bao hàm, quan hệ
giao nhau, quan hệ đối lập, quan hệ mâu thuẫn.
Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các loại quan hệ đó.
a) Các khái niệm có quan hệ đồng nhất: Là các khái niệm có nội hàm
tương ứng với nhau và có ngoại diên trùng khít với nhau. Nội hàm của mỗi khái
niệm đồng nhất với nhau có thể không trùng nhau, mỗi nội hàm phản ánh một khía
cạnh nào đó của đối tượng. Thí dụ: khái niệm “tác giả Bản án chế độ thực dân
Pháp” (khái niệm A), khái niệm “người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
6



hòa” (khái niệm B), và khái niệm “tác giả bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam
đọc ngày 2/9/1945” (khái niệm C) là 3 khái niệm có quan hệ đồng nhất.
Quan hệ đồng nhất giữa các khái niệm được biểu thị bằng hình tròn Ơ – le.

A

B

C

b) Các khái niệm có quan hệ bao hàm lẫn nhau: trong trường hợp ngoại
diên của khái niệm này nằm trọn vẹn trong ngoại diên của khái niệm kia, ngoại
diên của các khái niệm trước chỉ có một phần là ngoại diên của khái niệm sau. Thí
dụ: khái niệm “người lao động chân tay” (khái niệm A) với các khái niệm “người
công nhân” (khái niệm B) và khái niệm “người nông dân” (khái niệm C) có mối
quan hệ bao hàm lẫn nhau, khái niệm A bao hàm các khái niệm B và C.
Quan hệ bao hàm giữa các khái niệm được biểu thị bằng các hình tròn như
sau:
A

B

C

7


c) Các khái niệm có quan hệ giao nhau: Là các khái niệm có nội hàm
không loại trừ nhau và ngoại diên của chúng có một phần trùng nhau. Thí dụ: khái
niệm “học sinh” (khái niệm A) và các khái niệm “vận động viên” (khái niệm B),

“ca sĩ nghiệp dư” (khái niệm C) có mối quan hệ giao nhau.
Quan hệ giao nhau giữa các khái niệm được biểu thị bằng các hình tròn sau:
B

A

C

d) Các khái niệm tách rời nhau: Là các khái niệm có nội hàm loại trừ nhau
và ngoại diên không có phần tử nào trùng nhau. Thí dụ: khái niệm “cái bàn” (khái
niệm A), khái niệm “cây thông” (khái niệm B), khái niệm “con cá” (khái niệm C)
là những khái niệm tách rời nhau.
Cần lưu ý, trong logic, các khái niệm tách rời thường được xét trong một
khái niệm loại. Vì trong thực tế, hầu hết các khái niệm (trừ các khái niệm có ngoại
diên cực rộng – các phạm trù) đều có ít nhất một khái niệm có ngoại diên rộng hơn
bao chứa chúng.
Các khái niệm tách rời nhau được biểu thị bằng các hình tròn sau:
A

B

C

8


e) Các khái niệm mâu thuẫn nhau: Hai khái niệm có quan hệ mâu thuẫn
nhau là giữa hai khái niệm trong đó nếu một phần tử (nội hàm của khái niệm này)
đã thuộc về ngoại diên của khái niệm này thì không thuộc về ngoại diên của khái
niệm kia, ngược lại, nếu không thuộc về ngoại diên của khái niệm kia thì chắc chắn

thuộc về ngoại diên của khái niệm này. Hoặc có thể định nghĩa hai khái niệm có
quan hệ mâu thuẫn theo cách khác: Hai khái niệm gọi là mâu thuẫn nhau khi nội
hàm của chúng phủ định lẫn nhau và không khẳng định dấu hiệu nào khác, còn
tổng ngoại diên của chúng bằng ngoại diên của khái niệm giống chung Thí dụ:
khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” (khái niệm A) và khái niệm “chiến tranh phi
nghĩa” (khái niệm B) khái niệm “chiến tranh” là khái niệm giống chung (khái niệm
M)
Quan hệ mâu thuẫn giữa hai khái niệm được biểu thị bằng hình vẽ sau:
A
B

f) Các khái niệm đối lập nhau: Hai khái niệm đối lập nhau nếu nội hàm của
khái niệm này không những loại trừ nội hàm của khái niệm kia mà chúng còn là
hai cực đối lập với nhau (dấu hiệu ngược nhau) và tổng ngoại diên của hai khái
niệm đối lập nhau này nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm giống chung. Thí dụ:
Khái niệm “màu trắng” (khái niệm A) và khái niệm màu đen (khái niệm B) khái
niệm giống chung: “màu sắc” (khái niệm M)
Quan hệ đối lập nhau giữa hai khái niệm được biểu thị bằng hình vẽ sau:

9


A

M

B

4. Các thao tác lô gích đối với khái niệm.
a) Thao tác thu hẹp và mở rộng khái niệm.

+ Thu hẹp khái niệm.
Thu hẹp khái niệm là thao tác lô gích chuyển từ khái niệm có ngoại diên
rộng hơn sang khái niệm có ngoại diên hẹp hơn.
Cách thức thực hiện thu hẹp khái niệm như sau:
Phát triển thêm một số dấu hiệu từ nội hàm của khái niệm ban đầu (nghĩa là
những dấu hiệu mới cũng chỉ thuộc về một bộ phận của đối tượng nằm trong ngoại
diên của khái niệm ban đầu). Nói cách khác, để thu hẹp khái niệm, chỉ cần thêm
các dấu hiệu vào nội hàm của khái niệm ấy, chúng ta sẽ có khái niệm loài, hẹp hơn
khái niệm giống ban đầu.
Mỗi khi phát triển thêm một số dấu hiệu mới ta lại được khái niệm mới có
ngoại diên hẹp hơn ngoại diên khái niệm trước đó. Giới hạn cuối cùng của việc thu
hẹp khái niệm là khái niệm đơn nhất.
Thí dụ, từ khái niệm (phạm trù pháp luật) được Mác định nghĩa: “Pháp luật
là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật”. Nếu phát triển dấu hiệu
“giai cấp thống trị” nói chung bằng cách thêm vào dấu hiệu “giai cấp công nhân”
chúng ta có khái niệm “pháp luật xã hội chủ nghĩa” hẹp hơn khái niệm “pháp
luật”. Tiếp tục thu hẹp khái niệm pháp luật xã hội chủ nghĩa bằng cách thêm vào
dấu hiệu “giai cấp công nhân” một dấu hiệu nữa “giai cấp công nhân Việt Nam”
10


chúng ta sẽ có một khái niệm hẹp hơn, đó là khái niệm “pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Đến đây là giới hạn cuối cùng của việc thu hẹp khái niệm pháp luật.
Ta có khái niệm đơn nhất “pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, không có khái
niệm nào hẹp hơn nữa (Ngoại diên chỉ còn một đối tượng duy nhất)
Sơ đồ biểu diễn quá trình thu hẹp khái niệm:

PL

PLXHCN


PLXHCNVN

Một vài thí dụ khác về thao tác thu hẹp khái niệm:
Khái niệm
Dấu hiệu
Khái niệm
cần thu hẹp
được thêm vào nội hàm
đã được thu hẹp
Người
Tốt nghiệp đại học Y
Bác sĩ
Bác sĩ
Người giải phẫu tim thành công đầu Bác sĩ Tôn Thất Tùng
tiên trên thế giới
Nhà thơ
Là công dân nước Việt Nam
Nhà thơ Việt Nam
Nhà thơ VN Nhà thơ CM, Chủ tịch nước đầu tiên Hồ Chí Minh
của Việt Nam

11


+ Mở rộng khái niệm.
Mở rộng khái niệm là thao tác lô gích chuyển khái niệm có ngoại diên hẹp
với nội hàm phong phú (rộng) sang khái niệm có nội hàm hẹp hơn (nghèo hơn) và
ngoại diên rộng hơn. Để thực hiện thao tác mở rộng khái niệm, chỉ cần cần bỏ bớt
dấu hiệu của loài, ta sẽ có khái niệm giống của khái niệm đó

Sơ đồ biểu diễn quá trình mở rộng khái niệm: Từ khái niệm Pháp luật Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (PLXHCN VN)
(PLXHCN)

Pháp luật xã hội chủ nghĩa

Pháp luật (PL).

Quá trình mở rộng khái niệm kết thúc khi chúng ta thu được phạm trù. Phạm
trù là khái niệm có ngoại diên rộng nhất và nội hàm hẹp nhất (nghèo nhất)

PL
PLXHCN

PLXHCNVN

Mũi tên chỉ hướng mở rộng khái niệm.

12


b) Thao tác định nghĩa khái niệm
+ Định nghĩa khái niệm là thao tác lô gích nhằm chỉ ra trong nội hàm của
khái niệm cần định nghĩa những dấu hiệu cơ bản nào đó, sao cho dựa vào chúng đủ
để bao quát hết toàn bộ đối tượng trong ngoại diên của khái niệm này.
+ Như vậy, mỗi thao tác định nghĩa khái niệm đều phải tiến hành theo hai
bước:
- Xác định nội hàm của khái niệm cần định nghĩa.
- Chọn trong nội hàm đó một số dấu hiệu sao cho dựa vào những dấu hiệu ấy
đủ để xác định được ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa.

Ví dụ 1: Định nghĩa khái niệm “hình thang”. Bước 1: Xác định nội hàm của
khái niệm “hình thang”, bao gồm những dấu hiệu cơ bản sau: - “hình phẳng”, “có bốn cạnh”, - “có bốn góc (tứ giác)”, “tổng số đo các góc trong bằng 360 0”, “có
hai cạnh song song”. Bước hai: Chọn dấu hiệu tiêu biểu. Khi định nghĩa khái niệm
“hình thang”, không cần thiết phải nêu ra tất cả các dấu hiệu đã kể trên mà chỉ cần
chọn ra một số dấu hiệu tiêu biểu sao cho từ đó có thể nhận ra được lớp đối tượng
mà khái niệm này phản ánh. Dấu hiệu “có hai cạnh song song” là dấu hiệu cơ bản
phân biệt “hình thang với tất cả các hình tứ giác khác”. Từ đó ta có định nghĩa khái
niệm hình thang: “Hình thang là hình tứ giác có hai cạnh song song”.
Ví dụ 2: Định nghĩa khái niệm quy phạm pháp luật: Quy phạm pháp luật là
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện, để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhăm đạt được
những mục đích nhất định.
- Khái niệm được định nghĩa: Quy phạm pháp luật. Nội hàm của khái niệm
này gồm những dấu hiệu bản chất, đặc trưng của đối tượng mà khái niệm phản
ánh: * quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện; * để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt
được những mục đích nhất định.
13


Qua định nghĩa ở trên, ta có thể xác định được ngoại diên khái niệm quy
phạm pháp luật: nó tách “quy tắc xử sự” của quy phạm pháp luật ra khỏi các quy
tắc xử sự xã hội khác như quy tắc đạo đức, quy tắc phong tục tập quán v.v..
+ Kết cấu lô gích của định nghĩa khái niệm. Mỗi một định nghĩa khái niệm
có ba thành phần như sau:
* Khái niệm cần được định nghĩa (ký hiệu Dfd, là từ viết tắt của từ La tinh:
Definiendum): Là khái niệm chưa rõ, cần phải xác định rõ nội hàm của nó, làm cho
nó tường minh.
* Khái niệm dùng để định nghĩa (ký hiệu Dfn, là từ viết tắt của từ La tinh
Definience ): Là khái niệm đã tường minh, đã biết dược nội hàm của nó, được mọi

người thừa nhận, dùng nó làm sáng tỏ khái niệm cần định nghĩa.
* Từ nối khái niệm được (cần) định nghĩa với khái niệm dùng để định nghĩa,
Trong tiếng Việt từ nối này thường được biểu đạt bằng từ “là”, “được gọi là” (khi
từ dùng để định nghĩa đứng trước từ cần định nghĩa).
Ví dụ 1: Trong định nghĩa khái niệm “sinh viên”: “sinh viên là người học ở
bậc đại học” có các thành phần sau:
- khái niệm được (cần) định nghĩa: sinh viên.
- khái niệm dùng để định nghĩa: người học ở bậc đại học.
- từ nối khái niệm cần định nghĩa với khái niệm dùng để định nghĩa: là.
Ví dụ 2: Trong định nghĩa khái niệm “bị cáo”: “bị cáo là người đã bị tòa án
quyết định đưa ra xét xử” có các thành phần sau:
- khái niệm được (cần) định nghĩa: bị cáo.
- khái niệm dùng để định nghĩa: người đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử.
- từ nối khái niệm cần định nghĩa với khái niệm dùng để định nghĩa: là.
+ Trong thực tế, có nhiều trường hợp từ nối khái niệm không chỉ dùng từ
“là”, mà còn có thể dùng các từ khác, như: “được gọi là” (trong trường hợp khái
niệm dùng để định nghĩa đứng trước khái niệm được định nghĩa), “khi và chỉ khi”.
14


Ví dụ 1: Trong định nghĩa khái niệm “người có tội”: “Người bị coi là có tội
khi và chỉ khi người đó bị tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật”
có các thành phần sau:
- khái niệm được (cần) định nghĩa: người bị coi là có tội.
- khái niệm dùng để định nghĩa: người bị tòa án kết tội bằng bản án đã có
hiệu lực pháp luật.
- từ nối khái niệm cần định nghĩa với khái niệm dùng để định nghĩa: khi và
chỉ khi.
Ví dụ 2: Trong định nghĩa khái niệm “hình thoi”: “Hình bình hành có hai
cạnh kề bằng nhau được gọi là hình thoi” có các thành phần sau:

- khái niệm được (cần) định nghĩa: hình thoi.
- khái niệm dùng để định nghĩa: hình bình hành có hai cạnh kề bằng nhau.
- từ nối khái niệm cần định nghĩa với khái niệm dùng để định nghĩa: khi và
chỉ khi.
Ví dụ 3: Trong định nghĩa khái niệm “giá cả”: “Giá trị hàng hóa biểu hiện
bằng tiền được gọi là giá cả”.
Ví dụ 4: Trong định nghĩa khái niệm “thắng cảnh”: “Cảnh đẹp nổi tiếng
được gọi là thắng cảnh”.
Trong ví dụ 2, 3, 4 khái niệm dùng để định nghĩa đứng trước khái niệm cần
định nghĩa nên từ nối khái niệm ở đây là “được gọi là”.
+ Các quy tắc của thao tác định nghĩa khái niệm:
- Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối. Quy tắc này đòi hỏi ngoại diên của
khái niệm cần (được) định nghĩa phải đồng nhất (trùng) với ngoại diên của khái
niệm dùng để định nghĩa. Thí dụ: định nghĩa khái niệm “tam giác đều”: “tam giác
đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau” là một định nghĩa cân đối
Vi phạm quy tắc này sẽ dẫn đến định nghĩa không cân đối, phạm lỗi lô gích.
Có thể có ba trường hợp phạm lỗi lô gích, định nghĩa không cân đối sau:
15


* Định nghĩa rộng: là định nghĩa mà trong đó ngoại diên của khái niệm dùng
để định nghĩa rộng hơn ngoại diên của khái niệm được định nghĩa. Trong trường
hợp này, một số đối tượng không thuộc ngoại diên của khái niệm định nghĩa cũng
“lọt” vào định nghĩa.
Ví dụ1: Định nghĩa khái niệm “hình bình hành”: “Hình bình hành là
hình có các cặp cạnh đối song song với nhau”, đây là định nghĩa quá rộng, vì
ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa chứa nhiều đối tượng hơn ngoại diên
của khái niệm cần định nghĩa. Chẳng hạn, trong thực tế hình lục giác có các cạnh
đối song song với nhau nhưng không phải là hình bình hành.
Ví dụ 2: Định nghĩa khái niệm “Tội phạm”: “Tội phạm là hành vi nguy

hiểm cho xã hội”. Ngoại diên của khía niệm dùng để định nghĩa “hành vi nguy
hiểm cho xã hội” có ngoại diên rộng hơn khái niệm “tội phạm”. Như vậy định
nghĩa này không cân đối, phạm lỗi lô gích định nghĩa rộng.
* Định nghĩa hẹp: là định nghĩa mà trong đó ngoại diên của khái niệm dùng
để định nghĩa hẹp hơn ngoại diên của khái niệm được định nghĩa. Trong trường
hợp này, một số đối tượng thuộc ngoại diên của khái niệm được định nghĩa đã “bị
bỏ sót” không được đưa vào định nghĩa.
Ví dụ1: Định nghĩa khái niệm “động vật ăn thịt”: “Động vật ăn thịt là loài
hổ”. Đây là một định nghĩa hẹp. Vì ngoại diên của khái niệm “loài hổ” chứa ít đối
tượng hơn ngoại diên của khái niệm “động vật ăn thịt”. “Loài hổ” chỉ là một bộ
phận của động vật ăn thịt.
Ví dụ 2: Định nghĩa khái niệm “sinh viên luật Việt Nam”: “Sinh viên luật
Việt Nam là những người học ở trường Đại học Luật Hà Nội”. Ngoại diên của
khái niệm dùng để định nghĩa “những người học ở trường Đại học Luật Hà Nội”
có ngoại diên hẹp hơn ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa “sinh viên Luật
Việt Nam”. Định nghĩa này là định nghĩa quá hẹp.

16


* Định nghĩa vừa rộng, vừa hẹp: là định nghĩa mà trong đó ngoại diên của
khái niệm dùng để định nghĩa vừa rộng hơn, lại vừa hẹp hơn ngoại diên của khái
niêm cần (được) định nghĩa.
Ví dụ: định nghĩa khái niệm “Mẹ”: “Mẹ là phụ nữ đã kết hôn”. Ta biết rằng
ngoại diên của khái niệm Mẹ (khái niệm cần định nghĩa) bao gồm cả những phụ nữ
đã kết hôn cũng như chưa kết hôn. Còn ngoại diên của khái niệm phụ nữ đã kết
hôn (khái niệm dùng để định nghĩa) bao gồm cả phụ nữ đã có con cũng như chưa
có con. Do đó, định nghĩa trên là rộng vì ngoại diên của khái niệm dùng để định
nghĩa có cả những phụ nữ đã kết hôn nhưng chưa có con. Đồng thời, định nghĩa
này lại hẹp vì không đưa vào ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa những

phụ nữ đã làm mẹ nhưng chưa kết hôn.
- Quy tắc 2: Định nghĩa không được luẩn quẩn (vòng quanh). Định nghĩa
vòng quanh là định nghĩa mà trong đó khái niệm dùng để định nghĩa được giải
thiachs qua khái niệm được định nghĩa. Lỗi vòng quanh thể hiện ở chỗ, khái niệm
A được định nghĩa qua khái niệm B, khái niệm B lại được định nghĩa qua khái
niệm A.
Ví dụ 1: Định nghĩa khái niệm “góc vuông”: “Góc vuông là góc có số đo
bằng 900 (chin mươi độ)”. “Độ (0) là đơn vị của góc bằng một phần chin mươi của
góc vuông” .
Ví dụ 2: Định nghĩa khái niệm “người chăm chỉ”: “Người chăm chỉ là
người làm việc nhiều”. “Người làm việc nhiều là người ít nghỉ ngơi”. “Người ít
nghỉ ngơi là người chăm chỉ”.
Ví dụ 3: Định nghĩa khái niệm “môn Lô gí ch học”: “Lô gích học là khoa
học nghiên cứu về tư duy đúng đắn”. “Tư duy đúng đắn là tư duy theo các quy
luật và hình thức do Lô gích học nghiên cứu”.

17


Ví dụ 4: Định nghĩa khái niệm “Luật bất thành văn”: “Luật bất thành văn
là luật không thành văn bản”. “Luật không thành văn bản là luật bất thành
văn”
Qua những ví dụ trên chúng ta thấy, nội hàm của khái niệm dùng để định
nghĩa chưa được biết, chưa tường minh, thì nội hàm của khái niệm cần (được) định
nghĩa cũng chưa được sáng tỏ. Khái niệm cần (được) định nghĩa coi như chưa
được định nghĩa. Lấy cái này định nghĩa cho cái kia, rồi lấy cái kia định nghĩa cho
cái này. Định nghĩa loanh quanh luẩn quẩn như thế sẽ không đem lại một tri thức
mới nào cả.
Muốn tránh lỗi định nghĩa vòng quanh, luẩn quẩn thì khái niệm dùng để
định nghĩa phải là khái niệm tường minh (đã biết rõ), đã được định nghĩa từ trước.

- Quy tắc 3: Định nghĩa phải ngắn gọn, xúc tích, chính xác, rõ ràng. Theo
quy tắc này, khi định nghĩa không được dùng những từ ngữ mập mờ, đa nghĩa làm
người khác hiểu sai bản chất của đối tượng được phản ánh, không được dùng lối
nói so sánh, ẩn dụ.
Các dấu hiệu được sử dụng để định nghĩa phải là những dấu hiệu đặc trưng
của chính đối tượng mà khái niệm phản ánh.
Sử dụng những dấu hiệu không đặc trưng hoặc những dấu hiệu thuộc lớp đối
tượng khác sẽ làm cho khái niệm dùng để định nghĩa không chính xác dẫn đến khái
niệm cần định nghĩa cũng sẽ không chính xác. Đồng thời cũng không dùng những
dấu hiệu có thể suy ra từ những dấu hiệu đã dùng trong định nghĩa để tránh lỗi dài
dòng…
Ví dụ 1: Định nghĩa khái niệm “tam giác đều”: “tam giác đều là tam giác
có ba cạnh và ba góc bằng nhau”. Trong định nghĩa này chỉ cần sử dụng một
trong hai dấu hiệu: hoặc là ba cạnh bằng nhau, hoặc là ba góc bằng nhau là đủ. Vì
từ dấu hiệu ba cạnh bằng nhau có thể suy ra dấu hiệu ba góc bằng nhau và ngược

18


lại. Đưa cả hai dấu hiệu này vào định nghĩa sẽ làm cho định nghĩa dài dòng, thừa,
vi phạm quy tắc quy tắc 3.
Ví dụ 2: Định nghĩa khái niệm “Quê hương”: “Quê hương là chùm khế
ngọt”; Định nghĩa khái niệm “Tuổi trẻ”: “Tuổi trẻ là mùa xuân của cuộc đời”;
Định nghĩa khái niệm “Gái có chồng” (đã đăng ký kết hôn): “Gái có chồng như
rồng gặp mây”, “Gái có chồng như gông đeo cổ” v.v.. là những định nghĩa dùng
cách so sánh, ví von, vi phạm quy tắc 3.
Ví dụ 4: Định nghĩa về sự khác nhau về trí thông minh của đàn ông và đàn
bà: “Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” cũng là
định nghĩa dùng lối nói so sánh, ẩn dụ, đa nghĩa, có nhiều cách hiểu, vi phạm quy
tắc 3

Quy tắc 4: Không nên dùng cách phủ định để định nghĩa. Quy tắc này yêu
cầu không nên đưa vào định nghĩa những thuộc tính không có ở đối tượng trong
ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa.
Mục đích của định nghĩa khái niệm là làm rõ nội hàm của khái niệm cần
định nghĩa. Trong khi đó, định nghĩa khái niệm này bằng cách phủ định khái niệm
khác thì chúng ta mới nêu ra được những thuộc tính mà đối tượng nằm trong ngoại
diên của khái niệm cần định nghĩa không có, chứ chưa chỉ ra được các dấu hiệu,
các thuộc tính bản chất của nó.
Ví dụ: định nghĩa khái niệm “Bác sĩ”: “Bác sĩ không phải là người tốt
nghiệp Đại học Sư phạm”. Định nghĩa này mới nêu ra được thuộc tính mà khái
niệm bác sĩ không có, chứ chưa nêu ra được nội hàm của khái niệm bác sĩ (Bác sĩ
là người đã tốt nghiệp Đại học Y khoa hoặc Bác sĩ là học vị của người đã tốt
nghiệp Đại học Y khoa).
Tuy nhiên, quy tắc này chỉ yêu cầu không nên chứ không cấm cách định
nghĩa phủ định. Trong khoa học có thể dùng cách định nghĩa phủ định khi thỏa
mãn cả hai điều kiện sau:
19


Thứ nhất, khái niệm dùng để định nghĩa và khái niệm cần định nghĩa phải ở
trong quan hệ mâu thuẫn nhau.
Thứ hai, nội hàm của khái niệm dùng để định nghĩa đã tường minh, đã được
làm rõ bằng định nghĩa khẳng định.
Ví dụ 1: Có thể định nghĩa khái niệm “số lẻ” bằng cách định nghĩa phủ định:
“Số lẻ không phải là số chẵn”. Đó là vì, khái niệm cần định nghĩa “số lẻ” và khái
niệm dùng để định nghĩa “số chẵn” là hai khái niệm có quan hệ mâu thuẫn nhau.
Đồng thời, khái niệm dùng để định nghĩa “số chẵn” đã tường minh, đã được định
nghĩa một cách khẳng định “số chẵn là sô chia hết cho 2”.
Ví dụ 2: Có thể định nghĩa khái niệm “hai đường thẳng song song” bằng
cách định nghĩa phủ định: “Hai đường thẳng song song không phải là hai đường

thẳng cắt nhau”. Đó là vì, khái niệm cần định nghĩa “hai đường thẳng song song”
và khái niệm dùng để định nghĩa “hai đường cắt nhau” là hai khái niệm có quan hệ
mâu thuẫn nhau. Đồng thời, khái niệm dùng để định nghĩa “hai đường thẳng cắt
nhau” đã tường minh, đã được định nghĩa một cách khẳng định “hai đường thẳng
cắt nhau là hai đường thẳng có một điểm chung”.
Ví dụ 3: Có thể định nghĩa khái niệm “động sản” bằng cách định nghĩa phủ
định: “Động sản không phải là bất động sản”. Đó là vì, khái niệm cần định nghĩa
“động sản” và khái niệm dùng để định nghĩa “bất động sản” là hai khái niệm có
quan hệ mâu thuẫn nhau. Đồng thời, khái niệm dùng để định nghĩa “bất động sản”
đã tường minh, đã được định nghĩa một cách khẳng định “bất động sản là những
tài sản không thể di chuyển, dời đi được”.
c) Thao tác phân chia khái niệm.
Khi sử dụng khái niệm ngoài việc cần nắm vững nội hàm của nó, chúng tâ
còn cần phải biết ngoại diên của khái niệm. Để hiểu rõ ngoại diên của khái niemj
chúng ta dùng cách phân chia khái niệm

20


CHƯƠNG II
PHÁN ĐOÁN
1.Định nghĩa phán đoán:
Như phần trên đã nói về khái niệm, chúng ta biết khái niệm là sự phản ánh
đối tượng nhận thức trong tư duy trừu tượng, nghĩa là phản ánh một sự vật, hiện
tượng, hoặc một lớp các sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng trong thế giới hiện thực
khách quan, các sự vật, hiện tượng không bao giờ tồn tại một cách riêng rẽ mà nó
tồn tại trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau, chính trong sự quan hệ với nhau, tác
động lẫn nhau các sự vật hiện tượng các sự vật hiện tượng mới bộc lộ các thuộc
tính của mình. Đồng thời, các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan có thể
có hoặc không có một số tính chất xác định nào đó. Tất cả những hiểu biết của con

người thông qua tư duy trừu tượng về mối quan hệ lẫn nhau và các tính chất xác
định nào đó của sự vật hiện tượng chính là các phán đoán của con người về các sự
vật hiện tượng đó.
Có thể có những định nghĩa về phán đoán như sau:
+ Phán đoán là hình thức của tư duy nhờ kết hợp các khái niệm mà có thể
khẳng định hoặc phủ định về sự tồn tại của một đối tượng nào đó, về mối liên hệ
giữa đối tượng với dấu hiệu của nó hay về quan hệ giữa các đối tượng.(Bộ Giáo
dục và Đào tạo - Vương Tất Đạt, Logic học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000)
+ Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng, khẳng định hoặc phủ định
một tình trạng xác định nào đó ở các sự vật hiện tượng.(Phạm Đình Nghiệm. Nhập
môn Logic học, Nxb. Đại học Quốc gia, tp Hồ Chí Minh, 2008)

21


+ Phán đoán là hình thức tư duy phản ánh những dấu hiệu nào đó của đối
tượng mà ta có thể xác định được giá trị đúng sai của nó. (Phan Trọng Hòa. Lô
gích học, Nxb. Thuận Hóa Huế, 2003)
Phán đoán có thể chân thực (đúng) hoặc giả dối (sai) tùy theo sự phản ánh
đúng hay không đúng hiện thực khách quan của nó.
Trong logic học lưỡng trị, việc xác định giá trị đúng sai là điều kiện cần
thiết để nhận biết phán đoán. Mỗi phán đoán đều có thể hoặc đúng, hoặc sai.
Không có phán đoán nào không đúng mà cũng chẳng sai, cũng như không có phán
đoán nào vừa đúng, vừa sai. Giá trị đúng (chân thực) và sai (giả dối) của phán đoán
được gọi là giá trị chân lý của phán đoán. Phán đoán có giá trị chân lý là đúng
(chân thực) nếu như điều khẳng định hay phủ định trong nó hoàn toàn phù hợp với
thực tại khách quan. Giá trị chân lý của phán đoán sẽ là sai (giả dối) trong trường
hợp ngược lại. Quan điểm về giá trị chân lý này của phán đoán là của A-rít-stốt nhà
triết học Hy Lạp thời cổ đại, người sáng lập ra môn logic học (ở phương Tây) nêu
ra. Ông viết: “Người nói thật là người nói về sự tách rời là tách rời, sự liên kết là

liên kết, còn người nói dối là người nói ngược lại với hiện trạng của sự vật” 1
(trong logic học tam trị, phán đoán có thể tiếp nhận một trong ba giá trị: chân
thực, giả dối hoặc chưa xác định là chân thực hay giả dối. Thí dụ phán đoán
“Trên sao Hỏa có sự sống” là phán đoán chưa xác định là đúng hoặc là sai). Mặt
khác, cùng một phán đoán, có thể ở thời điểm này là đúng, ở thời điểm khác lại sai,
và ngược lại (Chân lý là cụ thể !).
Thí dụ: Phán đoán “Bệnh phong (hủi) là một trong 4 bệnh nan y, không chữa
được” là một phán đoán đúng trước đây. Phong Lao Cổ Nại tứ chứng nan y thày
thuốc bỏ đi, trống kèn kéo tới ( Phong là bệnh phong (bệnh hủi), lao là bệnh lao, cổ
là bệnh xơ gan, cổ chướng, nại là bệnh ung thư. Tuy nhiên, hiện nay đã có thuốc
1 Aristote, Tuyển tập, 4 tập, Moskva, 1975, t.1, tr.250 (trích theo Phạm Đình Nghiệm Nxb. Đại học Quốc
gia tp.Hồ Chí Minh, tr.55)

22


chữa khỏi bệnh lao, bệnh phong, và thậm chí một số ung thư phát hiện sớm cũng
đã chữa khỏi, phán đoán nói trên trở thành phán đoán sai.
Trước 1990 phán đoán “Kim Tự tháp ở Ai Cập do người Ai Cập xây dựng”
bị coi là phán đoán sai, nhưng đến năm 1990, khi khai quật được nghĩa địa những
người Ai Cập ở cao nguyên Gada tham gia xây dựng Kim Tự tháp thì phán đoán
trên được khẳng định là đúng.
Sự chuyển hóa về giá trị của những phán đoán (từ đúng thành sai và ngược
lại) là một hiện tượng thực tế trong tư duy. Đó chính là vì sự vận động, biến đổi
của đối tượng nhận thức cũng như sự không ngừng hoàn thiện và phát triển của tư
duy con người trong quá trình nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực khách quan.
Tuy nhiên, khi xem xét và lý giải như trên chúng ta đã xem xét và lý giải theo quan
điểm của logic học biện chứng(vận động, biến đổi).
2.Phán đoán và câu.
Hình thức của phán đoán là câu, phán đoán thường được biểu thị, diễn đạt

bằng một câu. Nhưng câu và phán đoán không đồng nhất với nhau. Câu là cái vỏ
ngôn ngữ của phán đoán, không có câu thì không thể có phán đoán, nhưng không
phải câu nào cũng biểu thị phán đoán. Dưới đây là một số khác biệt (không đồng
nhất) giữa câu – phán đoán và câu – ngôn ngữ (thông thường):
+ Trong khi câu – ngôn ngữ có nhiều loại (khẳng định, phủ định, cầu khiến,
cảm thán, nghi vấn, khuyên bảo v.v..) thì câu – phán đoán thường chỉ bao gồm hai
loại câu (khẳng định, phủ định). Những câu không được coi là câu – phán đoán
như: “Liệu có nền văn minh ngoài trái đất không?” (nghi vấn); “Anh làm ơn ra
ngoài chờ tôi một lát” (cầu khiến); “Chúng ta nên dành thời gian nhiều hơn cho
việc học tập” (khuyên bảo).
+ Có nhiều “bẫy” trong ngôn ngữ dẫn đến sự hiểu lầm (xem mục nhỏ 6.4.3.
Ngôn ngữ, ký hiệu, hình vẽ của quyển hai bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” của
Phan Dũng).
23


+ Câu – ngôn ngữ phục vụ nhiều mục đích trong cuộc sống, có những
trường hợp để phục vụ những mục đích đó, người ta không quan tâm đến các thao
tác logic, thậm chí còn cố ý tạo ra sự phi logic (trong văn học, quảng cáo, chuyện
tiếu lâm, nghịch lý, ngụy biện).
+ Câu – ngôn ngữ do con người tạo ra để sử dụng hàng ngày, không chỉ
phản ánh các sự vật, hiện tượng mà còn phản ánh các hiện tượng tâm lý khác về
nhu cầu, xúc cảm, mong muốn, v.v.. (xem mục nhỏ 5.7.1. Mô hình nhu cầu – hành
động của quyển hai bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” của Phan Dũng). Trong khi đó,
câu – phán đoán chỉ có nhiệm vụ phản ánh một khía cạnh nào đó của sự vật, hiện
tượng trong thế giới hiện thực khách quan được con người xem xét, nhận thức.
Nói tóm lại, tất cả các phán đoán đều là câu, nhưng không phải câu nào cũng
là phán đoán. Căn cứ để xác định một câu là câu – phán đoán: a) trong câu thể hiện
sự khẳng định hay sự phủ định dấu hiệu nào đó của đối tượng nhận thức, phản ánh;
b) phải xác định được giá trị chân thực hoặc giả dối của câu..

3.Các loại phán đoán.
Phán đoán được chia thành phán đoán đơn và phán đoán phức.
a) Phán đoán đơn. Là phán đoán chỉ có một chủ từ (một khái niệm) và một
thuộc từ (một khái niệm khác).
Phán đoán đơn có thể được phân thành các loại phán đoán sau:
+ Phán đoán thuộc tính: là phán đoán về dấu hiệu (thuộc tính) của đối
tượng. Thí dụ, “Trái đất có dạng hình cầu”, “Nước sông trong vắt”, “Nông dân
Việt Nam rất cần cù lao động” v.v..
+ Phán đoán quan hệ: là phán đoán chỉ ra quan hệ giữa các đối tượng hoặc
giữa các thuộc tính của đối tượng. Thí dụ, “Trái đất lớn hơn Mặt trăng”, “Ở một
người bình thường, tay phải khỏe hơn tay trái” v.v.. Phán đoán quan hệ có thể biểu
thị quan hệ của nhiều đối tượng với nhau. Thí dụ, “Huế nằm giữa Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh” v.v..
24


+ Phán đoán hiện thực (phán đoán tồn tại): Là phán đoán khẳng định hoặc
phủ định sự tồn tại của đối tượng trong hiện thực. Thí dụ, phán đoán khẳng định:
“Trên thế giới đang tồn tại nhiều nhà máy điện nguyên tử”, “Nước Việt nam có 53
dân tộc cùng chung sống”; phán đoán phủ định: “Ở Việt Nam không có nạn phân
biệt chủng tộc”, v.v..
+ Phán đoán khả năng: Là phán đoán phản ánh những điều có thể xảy ra, có
thể không xảy ra, hoặc chưa biết một cách chắc chắn. Thí dụ, “Mùa Đông năm nay
có thể lạnh hơn mùa Đông năm ngoái”, “Kỳ thi đại học năm nay con anh Tiến có
thể đỗ”, “Giá vàng trong nước tuần tới có thể giảm mạnh”…
+ Phán đoán thực: Là phán đoán phản ánh tình trạng có thực của đối tượng
trong quá khứ hoặc trong hiện tại. Thí dụ, “Bill Gate là một trong những doanh
nhân giầu nhất thế giới”, “Bạn Tuấn là sinh viên xuất sắc năm học vừa qua”, …
+ Phán đoán tất yếu: Là phán đoán khẳng định hoặc phủ định một cách chắc
chắn một sự vật hoặc một hiện tượng nào đó dựa trên những tri thức về quy luật

khách quan. Thí dụ, “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Hết mưa trời lại hửng
nắng”, “Có làm thì mới có ăn” v.v..
Người ta có thể phân loại phán đoán đơn theo các thuộc tính chất, lượng,
chất và lượng của đối tượng nhận thức, phản ánh.
+ Phân loại phán đoán theo chất của đối tượng: có hai loại khác nhau:
-

Phán đoán khẳng định: đối tượng của nhận thức có thuộc tính đó: Thí
dụ, “Anh B là công dân Việt Nam”. “Hồ Chí Minh là người khai sinh ra

-

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”…
Phán đoán phủ định: đối tượng của nhận thức không có thuộc tính đó.
Thí dụ, “Anh C không phải là người có tính kiên trì”, “Gỗ không có tính
dẫn điện” …
+ Phân loại phán đoán theo lượng của đối tượng của nhận thức, phản ánh.

Thực chất của sự phân loại phán đoán theo lượng là phân loại phán đoán
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×