Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ vùng đầm lầy ngập nước láng sen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.92 KB, 19 trang )

Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Phần 1: VÙNG ĐẦM LẦY NGẬP NƯỚC LÁNG SEN
I. Giới thiệu chung về vùng đầm lầy ngập nước Láng Sen:
Láng Sen là một bồn trũng nội địa vùng Đồng Tháp Mười và Long An. Với hình thái
địa mạo đa dạng và là vùng sinh thái tiêu biểu cho kiểu đầm lầy ngập nước, Láng Sen
góp phần duy trì thảm thực vật ven sông, đồng cỏ tự nhiên, đầm lầy và gia tăng diện tích
tràm trồng đã làm phong phú quần thể động- thực vật.
Diện tích tự nhiên của Láng Sen là 5.030 ha, phần lớn nằm trên địa bàn xã Vĩnh Lợi
và một phần thuộc xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng tỉnh Long An. Trong đó có một giới
hạn tự nhiên khá đặc biệt là một "cù lao" diện tích khoảng 1.500 ha là một vùng đầm lầy
có nhiều sinh cảnh thích hợp cho động thực vật ưa nước và nơi dễ khôi phục các hệ sinh
thái đồng cỏ, bãi ăn của nhiều loài chim nước, được bao bọc bởi sông Vàm Cỏ Tây.
Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy có sự hiện diện của 156 loài thực vật hoang dã thuộc
60 họ; 149 loài động vật có xương sống thuộc 46 họ, trong đó có 13 loài nằm trong sách
đỏ Việt Nam; các loài thủy sản trên sông rạch, lung, trấp khá phong phú, và khoảng 11
loài động vật đáy. Với tính đa dạng sinh học như thế, việc bảo tồn sự đa dạng sinh học và
các hệ sinh thái vùng đất ngập nước tiêu biểu cho vùng Đồng Tháp Mười góp phần vào
việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, văn hóa cho một vùng đất ngập nước lưu vực sông
Mekong.
Đầu tháng 1 năm 2004, UBND Tỉnh Long An đã ra Quyết định số: 199/QĐ-UB ngày
19/1/2004 thành lập Khu Bảo Tồn Đất Ngập Nước Láng Sen, với diện tích là 5.030 ha.
Trong đó, bao gồm cả diện tích của Khu Bảo Tồn Sinh Thái Rừng Tràm Đồng Tháp
Mười, Lâm Trường Vĩnh Lợi và một phần diện tích của xã Vĩnh Lợi và Vĩnh Đại. Lấy
địa điểm Cái He làm trung tâm của vùng lỏi.
II.Một số đặc điểm tự nhiên:
Láng Sen là một vùng đất ngập nước tương đối lớn còn sót lại của vùng Đồng Tháp
Mười, ít nhiều mang tính chất tự nhiên và là hệ sinh thái duy nhất kết hợp các đặc điểm
của kiểu đầm lầy mặn và kiểu đầm lầy nước ngọt quanh năm.


1. Địa hình khu vực Láng
Sen được xem như một bồn
trũng có cao độ từ 0.42 – 1.8 m
(so với mực nước chuẩn tại
mũi Nai – Hà Tiên). Với địa
hình như thế, khu vực này được
xem như một vùng đầm lầy
ngập nước chịu ảnh hưởng trực
tiếp chế độ thủy văn của sông
Cửu Long, và chịu ngập lũ
hàng năm .
2. Địa chất khu vực phần
lớn thuộc trầm tích Holocen và
những gò Pleistocen (hoặc
Pleistocen muộn) nổi lên ở một
Trang 1


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

số nơi trong vùng. Ngoài ra, vài vạt trũng thấp là lòng sông cổ với lớp đất mặt tích tụ
nhiều chất hữu cơ.
3. Các nhóm đất hiện diện trong vùng là kết quả từ những tiến trình và yếu tố hình
thành đất, trong đó tính đa dạng của vật liệu trầm tích đóng vai trò quan trọng. Các nhóm
đất chính:


Đất xám (Aeric Paleaquults, Aquic Arenic Paleustults, Typic Plinthaquults)




Đất phèn hoạt động (Typic Sulfaquepts, Umbric Sulfaquepts, Hydraquentic
Sulfaquepts)



Đất phù sa có tầng sinh phèn trung bình (Aquic sulfic Tropaquepts)



Đất phù sa có tầng phèn trung bình (Sulfic Tropaquepts)



Đất phù sa phát triển (Typic Tropaquepts).

4. Chế độ thủy văn tại đây chịu ảnh hưởng trực tiếp của sông Cửu Long và thay đổi
do ảnh hưởng biến đổi về chế độ dòng chảy trong toàn vùng Tân Hưng – Vĩnh Hưng.
Mạng lưới sông rạch tự nhiên trong khu vực Láng Sen và vùng lân cận khá dày, tuy nhiên
lưu lượng lưu thông không lớn do lưu vực nhỏ. Láng Sen được tiếp nước chủ yếu do các
kênh tạo nguồn lớn từ sông Cửu Long, như: kênh Hồng Ngự – Long An, kênh 79, kênh
28 và sông Lò Gạch. Nguồn nước trực tiếp tới khu vực Láng Sen đi qua 2 tuyến dẫn nước
chính là kênh 79 và rạch Bông Súng. Mặc dù nằm trong nội địa, nhưng ảnh hưởng của
thuỷ triều biển Đông theo chế độ bán nhật triều, và lớn nhất vào mùa kiệt (mùa khô). Tuy
nhiên biên độ dao động mực nước lớn nhất cũng trong khoảng < 0.5 m. Biên độ này giảm
dần tới khi đỉnh lũ xuất hiện.
5. Ngập lũ: vùng ngập sâu trung bình ở vùng từ 2.5 đến 3,5 mét trong các năm lũ lớn.
Thời gian ngập từ 3 đến 4 tháng. Do mạng lưới kênh mương được phát triển và mở rộng

nên thời gian ngập hiện nay là ngắn hơn khoảng 1 tháng so với trước đây. Vùng ngập sâu
và lâu nhất vẫn là những nơi lung bàu trũng như Láng Sen, rạch Cá He, rạch Cái Nổ.
6. Chất lượng nguồn nước thay đổi theo mùa và có sự khác biệt trong từng khu vực.
Tuyến kênh 79 đi qua vùng đất phèn nặng nên nước bị chua phèn và độ đục thấp, độ pH
thường thấp dưới 4,5. Chất lượng nước chỉ được cải thiện vào mùa mùa lũ, đồng thời độ
đục cũng tăng lên ít nhiều.
7. Bồi lắng phù sa trong nội đồng chỉ xảy ra khi lượng phù sa theo dòng nước lũ đưa
về. Với lớp trầm tích phù sa khá dầy đã gây ra hiện tượng những cánh đồng năng bị chết
hàng loạt.
III. Đặc điểm hệ sinh thái:
Láng Sen có sự đa dạng cao nhất về địa mạo và có vành đai rừng tự nhiên ven sông,
một kiểu nơi sống hiếm có hiện nay so với các vùng đất ngập nước khác của vùng Đồng
Tháp Mười. Thuỷ vực nước chảy tự nhiên ở nơi đây là một kiểu sinh cảnh không có ở các
khu bảo vệ đất ướt nước ngọt khác của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
1. Cảnh quan tự nhiên:
Mặc dù diện tích khu vực tương đối nhỏ nhưng chịu chi phối bởi tính đa dạng của
trầm tích - thổ nhưỡng và hệ thống sông rạch nên Láng Sen mang đầy đủ đặc tính chung
của cảnh quan Đồng Tháp Mười: cảnh quan thảm thực vật thân gỗ chịu ngập ven sông,
bải lầy ven sông, các lung, láng,... Các dạng địa mạo này thể hiện tính đa dạng về sinh
vật, đa dạng về sinh cảnh.
Trang 2


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

2. Các kiểu nơi sống của động thực vật:
a) Thủy vực nước chảy:
Thủy vực nước chảy gồm hệ thống sông rạch tự nhiên và các kênh đào. Thành phần

thực vật ở các kênh đào thưa thớt và ít loài, ở các sông rạch tự nhiên thành phần thực vật
phong phú hơn, gồm các loài: súng (Nymphaea spp.), rau tràng (Nymphoides nouchali),
nhĩ cán vàng (Utricularia aurea), ráng gạt nai (Ceratopteris thalictroides), mồm mở
(Ischaemum spp.),...
Đây là nơi sống của nhóm cá ưa nước chảy. Nhóm này gồm các loài cá chủ yếu sống
tại các dòng chảy chính, kênh hoặc sông lớn và thường di cư ngược dòng về thượng lưu
hoặc di cư đến vùng ngập lụt theo mùa để sinh sản hoặc sinh trưởng. Chúng thường được
gọi chung là nhóm cá trắng gồm các loài phần lớn thuộc họ Cá chép (Cyprinidae) như cá
linh (Henycorhynchus siamensis), cá ngựa (Hampala spp.), cá mè vinh (Barbodes
gonionotus), cá he (Barbodes spp.), … và các loài trong họ Cá tra (Pangasiidae), họ Cá
nheo (Siluridae), họ Cá thát lát (Notopteridae) … Đây là nhóm cá di cư ra vào trong khu
vực theo sự lên xuống của nước lũ hàng năm ở Đồng bằng sông Cửu Long.
b) Đai rừng tự nhiên:
Đai rừng tự nhiên hỗn loài ven sông, rạch, ngập nước thay đổi từ 3 tháng đến gần
quanh năm (tùy theo độ cao của từng địa điểm). Do quá trình khai phá, ở Láng Sen ước
tính chỉ còn lại 15 - 20% so với diện tích trước năm 1975. Độ rộng bình quân của đai
rừng này hiện nay chỉ còn khoảng 10 - 15 m, cá biệt có những nơi rộng đến 100 m. Thành
phần thực vật có cấu trúc phức tạp, phong phú về loài và dạng sống, trong đó các loài
thường gặp bao gồm:
• Nhóm cây thân gỗ: Gáo (Sarcocephalus coadunata), Trâm (Syzygium cinereum),
Bún (Crateva nurvala), Trâm bầu ba lá (Combretum trifoliatum), Côm háo ẩm
(Elaeocarpus hygrophilus), Chiếc khế (Barringtonia acutangula);
• Nhóm dây leo: Bòng bòng leo (Lygodium scandens), Vác (Cayratia trifolia), Mây
nước (Flagellaria indica);
• Nhóm cỏ, cây bụi: Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Chóc gai (Lasia spinosa),
Đình lịch (Hygrophila salicifolia), Choại co (Cyclosorus sp).
c) Đồng cỏ ngập nước theo mùa:
Đồng cỏ ngập nước theo mùa, thời
gian ngập nước khoảng 5 - 6 tháng/năm và
dễ bị cháy vào mùa khô. Đồng cỏ ngập

nước theo mùa thường phân bố ngay sau
đai rừng ven sông. Trước đây, ở khu lỏi
của Láng Sen, kiểu nơi sống này có diện
tích lớn nhất nhưng hiện nay chỉ còn sót
lại những đám nhỏ có diện tích thường
dưới 0,5 ha phân bố rải rác trong các lô
rừng tràm, ruộng lúa, những lô có diện tích
lớn hơn (2-3 ha) là những đồng cỏ mới
được phục hồi lại sau khi không trồng lúa
nữa.

Trang 3


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Tại khu vực bảo tồn sinh thái, những cánh đồng cỏ với diện tích lên đến hơn 200 ha
vẫn còn duy trì, với sự hiện diện của nhiều loài chim nước; trong đó có những loài chim
lớn như Diệc Xám (Ardea cinerea), Già Đẫy (Leptoptilos dubius), và Sếu (Grus
antigone),…. Tổ thành thực vật ở các đồng cỏ hiện nay thường bao gồm nhiều loài thân
thảo sống chung với nhau như Mồm (Ischaemum sp), Năng ngọt (Eleocharis dulcis), Lúa
hoang (Oryza rufipogon), cỏ Ống (Panicum repens), U du (Cyperus sp), Rau mác
(Monochoria sp).
d) Lung, trấp:
Đây là những vùng đất thấp trũng có thời gian ngập nước quanh năm hoặc gần như
quanh năm nên ít cháy vào mùa khô. Thực vật của các lung, trấp bao gồm các loài thủy
sinh như Sen (Nelumbo nucifera), Súng (Nymphaea sp), Nhỉ cán vàng (Utricularia aurea)
hoặc chịu ngập nước như Lúa hoang (Oryza rifipogon), Lác hến (Scirpus grossus), Mồm

(Ischaemum sp), Cỏ đắng tán (Fuirena umbellata). Ngoài ra, do có đê giữ nước nên có sự
hiện diện của những loài thực vật ngay sau đê, những bãi cỏ phát triển trên nền của
những mùn bã hữu cơ được tích luỹ dần theo thời gian. Độ rộng phân bố trung bình của
chúng khoảng 20 m sau đê, những loài thực vật được ghi nhận: Cỏ năng (Eleocharis
dulcis) (3m), Rau dừa (Lasia spinosa) (1m), Lục bình (Eichhornia crassipes) (7m), U du
(Cyperus sp) (1,5m), Cỏ bắc (Leersia hexandra) (0,5m), ngoài ra còn có: Ráng đại
(Acrostichum anneura), Chò co, Lúa hoang (Oryza rufipogon), Lúa ma (Oryza minuta).
Vào các tháng mùa khô, các lung, trấp là nơi trú ẩn của các loài bò sát như rắn, Rùa,
Cua đinh và các loài cá thuộc nhóm cá nước tĩnh như Lươn, các loài thuộc họ cá Lóc, họ
cá Trê, họ cá Rô đồng.
Sự kết hợp giữa đồng cỏ ngập nước theo mùa và các lung, trấp tại đây đã tụ hợp khá
nhiều loài chim nước tiêu biểu của vùng Đồng Tháp Mười như Già đẩy (Leptoptilos
dubius), Diệc lửa (Ardea purpurea), Diệc xám (Ardea cinerea), Cò ma (Bubulcus ibis),
Cò trắng Trung Quốc (Cò Lông trĩ chân xanh) (Egretta eulophotes), Trích (Porphyrio
porphyrio), Còng cọc (Phalacrocorax carbo), Giang sen (Mycterria leucocephala), Chim
suốt, Chim học trò, Vịt trời (Anas clypeata và Anas poecilorhyncha), Le le (Dendrocygna
javanica), Dòng dọc (Ploceus spp), Điêng điểng, Bói cá lớn (Megaceryle lugubris), Bói
cá nhỏ (Ceryle rudis).
e) Rừng tràm:
Đây là kiểu nơi sống nhân tạo được
phát triển mạnh sau từ năm 1983 đến
nay. Rừng tràm thường được trồng trên
các đất trồng lúa kém hiệu quả kinh tế.
Về mặt đa dạng sinh học, được phân loại
như sau:

Rừng tràm từ 1 - 3 tuổi:
rừng chưa khép tán, ở mặt đất có sự hiện
diện của nhiều loài cây thân thảo. Ngoài
ra rừng non còn tạo nên lớp tán rậm rạp,

tiếp xúc với mặt đất, tạo điều kiện tốt cho các loài động vật sinh sống như Cốc Đế
(Phalacrocorax carbo), Chàng Nghịch (Rallus aquaticus), Bìm Bịp (Centropus sinensis và
C. bengalensis), Chim Sâu (Alcippe poioicephala), Trao Trảo (Pycnonotus spp), Chim
Khách (Crypsirina temia), Quốc (Amaurornis phoenicurus), Vạc (Nycticorax nycticorax),
Cò Bợ (Ardeola bacchus), Cò Ma (Bubulcus ibis),…
Trang 4


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ


Rừng tràm từ 4 tuổi trở lên: rừng đã khép tán, mật độ thường trên 6.000
cây/ha. Dưới tán rừng gần như không có các loài thực vật thân thảo sinh sống. Ngoài ra,
do dưới tán rừng trống trải nên rừng ở độ tuổi này thường không thích hợp cho các loài
động vật sinh sống. Các loài chim thường gặp như Cốc Đế (Phalacrocorax carbo),
Phướng (Phaenicophaeus tristis), Cò bựa (Nycticorax nycticorax), Tu hú (Eudynamys
scolopacea), Chim sâu (Alcippe poioicephala), Trao trảo (Pycnonotus spp), Chim khách
(Crypsirina temia).
f) Ruộng lúa:
Đây là kiểu nơi sống nhân tạo có diện tích lớn nhất trong vùng điều tra, thường được
hình thành từ những nơi trước đây là những đồng cỏ ngập nước theo mùa, ít bị phèn.
Thực vật hoang dại thường gặp ở ruộng lúa vào các tháng lũ (các tháng không canh
tác) bao gồm Ngò nước (Limnophila heterophylla), Nhĩ cán vàng (Utricularia aurea),
Súng (Nymphaea sp) ...
Các loài chim thường gặp ở ruộng lúa bao gồm Mỏ Nhác (Limosa limosa), Se Sẻ
(Passer montanus), Dòng Dọc (Ploceus spp), Chim Sâu (Alcippe indicus), Cà Cuốc
(Pseudibis gigantea), Cò Ma ((Bubulcus ibis),…
Các kiểu nơi sống từ (b) đến (f) là môi trường sống chính của nhóm cá ưa nước tĩnh.

Đây là các loài cá có khả năng sống trong điều kiện môi trường khắc nghiệt như nước
cạn, oxy hòa tan thấp, chua phèn, ít di cư và thường được gọi là chung là nhóm cá đen.
Nhóm này gồm các loài cá thuộc họ cá Lóc (Channidae), các loài thuộc họ cá Trê
(Clariidae), họ cá Rô đồng (Anabantidae), họ cá Sặc (Belontiidae) ... Đây là nhóm cá
chính đặc trưng của khu vực, chúng có nguồn gốc tại chỗ và có khả năng tồn tại quanh
năm trong khu vực.
g) Đê nhân tạo:
Các đê nhân tạo có kích thước đáng chú ý trong vùng điều tra gồm đê rạch Cá Sách
và đê kênh Cá Nổ. Kiểu nơi sống này không bị ngập nước. Thực vật hoang dại thường
gặp bao gồm: Cỏ ống (Panicum repens), Bìm vàng (Merremia hederaceae), Cỏ lông tây
(Brachiaria mutica)…
IV. Tính đa dạng sinh học:
Tính đa dạng sinh học trong khu vực Láng Sen được ghi nhận với sự hiện diện của
nhiều loài động thực vật đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười.
1. Thảm thực vật:
Thực vật trong khu vực Láng Sen khá phong phú với 156 loài thực vật hoang dã
trong đó có 152 loài đã xác định được tên khoa học thuộc 60 họ được tìm thấy, trong đó
khuyết thực vật (Pteridophyta) có 7 loài, song tử diệp (Dicotyledonae) có 88 loài và đơn
tử diệp (Monocotyledonae) có 57 loài.
Các họ có số loài nhiều nhất là Poaceae (24 loài), Cyperaceae (19 loài), Rubiaceae (6
loài) và Papilionoideae (6 loài). Trong đó có 4 loài chưa xác định được tên.
Căn cứ vào dạng sinh trưởng, 152 loài thực vật hoang dã ở Láng Sen được chia ra
như sau:


Cây thân gỗ: 26 loài



Cây bụi: 15 loài

Trang 5


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ



Cây thân thảo: 101 loài



Dây leo hoặc dây bò: 8 loài



Ký sinh: 2 loài

2. Phiêu sinh vật:
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần phiêu sinh trong vùng không nhiều với
Cyanophyta: 2 loài, Chlorophyta: 14 loài, Bacillariophyta: 8 loài, …
3. Thủy sản:
Các loài điều tra được gồm có: cá trạch, thát lát, cá rô, cá linh, cá mè, lóc, lia thia
đồng, cá chốt, cá lìm kìm, cá trê, lươn, ếch, rắn (3 loài), rùa, tôm.
Ngoài ra, một số loài thực vật thủy sinh khác đã phát hiện như: Marsilea quadrifolia,
Ceratopteris siliquosa, Salvinia cucullata, Lemna tenera, Eriocaulon sp., Limnophylla
heterophylla, Najas sp., Blyxa sp., Valisneria gigantia, Rotala wallichii, Myriophyllum
tetandrum, Hydrilla verticilata.
4. Động vật:

Có 128 loài động vật có xương sống (không kể lớp Cá) được ghi nhận có mặt ở Láng
Sen; trong đó:


lớp Lưỡng thê: 4 loài



lớp Bò sát: 17 loài



lớp Chim: 101 loài



lớp Thú: 6 loài

V. Sinh kế của người dân và ảnh hưởng đến hệ sinh thái:
Đa phần dân cư ở vùng này đời sống kinh tế khó khăn, họ sống chủ yếu bằng nghề
nông và thường đánh bắt cá làm bữa ăn cho gia đình. Người dân sống trong vùng đệm
chỉ biết làm sao kiếm được đồng tiền cho cuộc sống hàng ngày của gia đình họ. Bất đắc
dĩ, người dân mới vào trộm trong khu cấm, họ thật sự không muốn như vậy nhưng vì
cuộc sống quá nghèo buộc họ phải làm liều.
Người dân ở nơi đất ngập nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long sống trên vùng
nước nổi, chủ yếu bằng nghề làm ruộng. Trong khi làm ruộng, làm lúa, người dân tranh
thủ làm thêm nghề cá, bắt con chuột, bắt con lươn hay đào con ếch để sống.
Trước đây nguồn lợi thủy sản rất nhiều, cón bây giờ nguồn cá đang cạn kiệt dần. Đến
tép cũng chẳng còn dồi dào như trước. Bây giờ con người vừa là thủ phạm vừa là nạn
nhân của chính mình. Con người đã hủy diệt những sinh vật sống trong nước bằng xung

điện, cào điện. Để bắt được một con cá, thì lại có hàng chục, hàng trăm sinh vật khác bị
hủy diệt theo.
Hơn thế nữa, có quá nhiều người làm nghề đánh bắt. Mười người thì trung bình 7, 8
người làm nghề đánh cá. Mùa đánh bắt bây giờ kéo dài quanh năm, từ mùa nước lên đến
mùa nước giựt (mùa khô). Việc này đã làm suy giảm nguồn tài nguyên thủy sản một cách
trầm trọng, dẫn đến giảm đa dạng về loài và số lượng loài ở thủy sinh.
Các loài sen–súng (Nymphaea sp.) cùng các loài thực vật thủy sinh khác chiếm ưu
thế và đặt trưng ở các vùng đầm lầy đã bị thu hẹp diện tích do quá trình thoát thủy cải tạo
đất cho mục tiêu sản xuất nông nghiệp.
Trang 6


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Hiện nay Khu bảo tồn thiên nhiên Láng Sen đang đứng trước nguy cơ bị con người
tại các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang tàn phá. Do điều kiện kinh tế, cũng như sự
quản lý, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của cán bộ, công nhân viên khu bảo tồn và chính
quyền huyện Tân Hưng (tỉnh Long An) thiếu sự chặt chẽ, nên khu bảo tồn bị người dân
đánh bắt cá, chặt phá cây rừng và săn bắt chim thú tùy tiện.
Có thể cho rằng các hệ sinh thái tự nhiên cùng với tính đa dạng sinh học đất ngập
nước vùng Đồng Tháp Mười đã bị suy giảm nghiêm trọng, cảnh quan tự nhiên đã thay
đổi sau một thời gian khai phá cho mục tiêu phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển kinh
tế nông nghiệp chung cho vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long. Trước nguy cơ suy giảm
tính đa dạng sinh học và hủy diệt các nguồn gen quý hiếm, một số nỗ lực về công tác bảo
tồn và phục hồi tính đa dạng sinh học vùng đất ngập nước đã được đặt ra. Thông qua
những nỗ lực này, các khu bảo tồn thiên nhiên đã được hình thành, và Khu bảo tồn đất
ngập nước Láng Sen là một trong hai khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước rất điển hình
được thành lập nhằm thực hiện những mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh

thái vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười.

Trang 7


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Phần 2: RỪNG TRÀM NHIỆT ĐỚI ĐÁY THAN BÙN U MINH THƯỢNG
I. Giới thiệu về vườn quốc gia U Minh Thượng:
U Minh Thượng thuộc tỉnh
Kiên Giang và nằm trong 2 xã:
An Minh Bắc ( huyện An Minh)
và Minh Thuận ( huyện Vĩnh
Thuận). Đây là vườn quốc gia
duy nhất ở Việt Nam bảo vệ hệ
sinh thái vùng đất ngập nước đáy
than bùn. Diện tích tổng là
21.107 ha.
Khu bảo tồn thiên nhiên U
Minh Thượng gồm có một khu
vực lõi được bao vây bởi một
khu vực bộ đệm. Những kiểu đất
sử dụng trong khu vực vùng đệm
phần lớn là nông nghiệp, bao gồm gạo, những rau, nghề nông ăn quả.
VQG U Minh Thượng được thành lập theo quyết định của Chính phủ Việt Nam năm
1993. Một năm sau đó, Khu Bảo tồn Thiên nhiên U Minh Thượng và Hội đồng Quản lý
Khu Di tích Lịch sử đã được thành lập để giám sát về tổ chức khu vực và quản lý nguồn
kinh phí của Chính phủ thông qua Chương trình 327 quốc gia. (N. Sage và M. Greve,

2000).
Theo Quyết định số 11/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ , tổng diện tích khu
vực là 8.053 ha. Trong đó :
o Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 7.838 ha
o Phân khu phục hồi sinh thái là 200 ha
o Phân khu hành chính, dịch vụ là 15 ha.
Ngoài ra, vùng đệm có diện tích 13.069 ha. Cũng theo Quyết định này, VQG U Minh
Thượng thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Kiên Giang.
Hiện tại, Ban quản lý có 58 cán bộ và 8 trạm bảo vệ rừng. Bản kế hoạch đầu tư mới
đã được xây dựng năm 2003.
II. Một số đặc điểm tự nhiên:
VQG U Minh Thượng nằm ở trong vùng ngập nước ngọt, bao gồm rừng trên đất than
bùn, trảng cỏ ngập nước theo mùa và vùng đầm lầy trống. Đất chiếm một phần lớn diện
tích U Minh Thượng, kiểu đất này khi lộ ra trong không khí bị oxy hoá và tạo thành a-xit
sunfuric. Mặc dù là vùng đất phèn nhưng nước ở vùng lõi hầu hết là nước trung tính (pH
6-7) do có tỉ lệ che phủ rừng cao. Tuy nhiên, ở vùng đệm, rừng đã bị phát quang trên diện
rộng nên nước mang tính a-xit rất cao (pH 3-4).
Tầng đất mặt bao bởi lớp than bùn dầy từ 1-3 m. Những nơi mới bị đốt cháy, lớp
than bùn bị mất và tầng đất mặt mỏng hơn, và thường hình thành dạng đầm lầy. ở những
Trang 8


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

vùng đã bị phát quang lấy đất canh tác nông nghiệp, lớp than bùn đang bị oxy hoá và độ
dày giảm đi (Safford et al. 1998).
Vùng lõi của VQG U Minh Thượng được bao quanh bởi hệ thống kênh rạch và đê
với nhiều cửa cống để điều chỉnh mực nước. Nước được tháo ra trong mùa mưa và được

giữ lại vào các thời điểm khác của năm. Điều này đã làm giảm sự oxy hoá và giữ cho lớp
than không bị mỏng đi và giảm nguy cơ cháy rừng.
Rừng tập trung ở U Minh Thượng nhiều hơn và loại rừng nguyên sinh chiếm phần
lớn ở đây, rất xứng đáng là một vườn quốc gia với giá trị độc nhất về kiểu rừng úng phèn
của Việt Nam và của thế giới.
Lớp rừng thực sự là nguyên sinh ở U Minh đã bị sụt xuống và sau đó bị vùi lấp, dần
dần lại xuất hiện lớp thực vật mới trên tầng trầm tích, cũng có thể gọi là lớp rừng nguyên
sinh trên tầng đất thành tạo kế tiếp. Những cánh rừng bị vùi lấp trước đó đã dần dần
thành lớp than bùn hiếm khí oxy, nằm dưới tầng trầm tích và lớp rừng “hậu sinh”, chính
là rừng úng phèn ngày nay.
1. Đặc điểm đất than bùn:
Đất than bùn có rừng tràm bên trên nên chất hữu cơ trên mặt đất đóng góp 58,7%,
phần dưới mặt đất là 41,3%. Tỷ lệ này không khác biệt giữa mùa nằng và mùa mưa,
nhưng tổng chất hữu cơ trong mùa nằng cao hơn trong mùa mưa.
Nếu giữ nước ngập trên 20cm quanh năm thì quá trình phân hủy tự nhiên bằng với
lượng chất hữu cơ của thảm thực vật đóng góp vào. Nếu tiêu nước trong mùa nắng sâu
1m thì mỗi năm đất than bùn phân hủy từ 3,5 – 6cm bề dày. Cây to có rễ sâu như tràm
làm cho quá trình phân hủy tự nhiên của đất than bùn nhiều hơn do tăng sự bốc hơi làm
cho đất khô hơn.
2. Đặc điểm nguồn nước và khả năng giữ nước:
Bao quanh vùng lõi và trên vùng đệm là một hệ thống kênh rạch chằng chịt. Việc giữ
nước trong rừng cũng khá quan trọng. Nếu không giữ được nước thì vào mùa khô, lớp
bổi và than bùn dưới rừng tràm với khối lượng hàng trăm tấn trên một hecta sẽ bị khô đi
một cách rất nhanh, trở thành vật liệu cháy nguy hiểm, dễ dàng bén lửa và gây cháy lớn.
Khả năng giữ nước của lớp ít phân hủy là 500- 1000% trọng lượng khô, của lớp phân
hủy là 200-600%, và của đất than bùn sau khi cháy là 50%.
Khả năng thẩm lậu cũng rất thay đổi với tầng mặt là 0,001- 0,032 cm/s, tầng sâu 12m là 0,001-0,0001 cm/s và đất đã cháy là 0,1-0,3 cm/s.
Bãi than bùn gồm có 90% là nước và thực hiện vai trò như hồ nước chứa góp phần
vào bảo vệ môi trường cho con người và hệ sinh thái xuôi dòng. Nó đóng vai trò quan
trọng trong việc cung cấp nước uống cho những khu vực dẫn nước được bao phủ bởi bãi

than bùn và những vùng khô ráo nơi mà bãi than bùn cung cấp có giới hạn nhưng chất
lượng vẫn không thay đổi.
III. Đặc điểm hệ sinh thái:
Rừng U Minh có giá trị sinh khối (BioMass) cao nhất so với tất cả các kiểu rừng .
Tại đây có gần 250 loài thực vật trong đó loài ưu thế như tràm, móp, mật cật, nhiều loài
dương xỉ, tảo, nhiều loài cá (những loài cá có giá trị khoa học và kinh tế như cá bông, sặc
rằn, sặc bướm, trê vàng, thác lác...), hơn hai mươi loài bò sát và lưỡng thê (một số loài
Trang 9


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

hiếm quí như chàng hiu, trăn gấm, kỳ đà, cá sấu, rùa vàng, cần đước, nhiều loài rắn...), có
182 loài chim, hơn 40 loài thú, nhiều loài côn trùng...
U Minh Thượng là một trong những vùng đất ngập nước với diện tích rừng quý hiếm
nhất Đông Nam Á, đồng thời là khu bảo tồn sinh quyển thế giới. Có hệ thực vật rất đa
dạng và phong phú, gồm 252 loài thực vật có mạch thuộc 84 họ; trong đó có 8 loài rất
hiếm như mốp, năng chồi, lá u minh, bèo tản nhọn, nắp bình, luân lan, mật cật, bí kỳ
nam... và cũng là nơi duy nhất còn lại hệ thực vật của rừng nguyên sinh: Đó là ưu hợp
rừng tràm hỗn giao của rừng tràm trên đất than bùn.
Các kiểu nơi sống gồm: rừng, đồng cỏ, vùng đầm lấy mở, dòng tự nhiên và những
kênh đào.
IV. Tính đa dạng sinh học:
Bãi than bùn cấu tạo nên môi trường sống của nhiều loại động thực vật độc đáo chỉ
có ở bãi than bùn, đóng góp đáng kể vào nguồn gen. Nó bao gồm nhiều sinh vật đặc
trưng chỉ thích nghi với những điều kiện đặc biệt ở bãi than bùn.
1. Hệ thực vật:
U Minh Thượng có khu hệ thực vật đa dạng, bao gồm nhiều loài hiếm và đặc hữu,

nhiều loài là loại hiếm ở Đông Nam Á nhưng lại có rất nhiều ở U minh Thượng.
Thảm thực vật tự nhiên được chia thành 10 kiểu thuộc 4 nhóm chính: rừng tràm,
đồng cỏ ngập nước theo mùa, lung bào ngập thường xuyên và thảm thực vật ven kênh
rạch.


Các kiểu nơi sống của hệ thực vật:

a) Rừng tràm Melaleuca trên đất than bùn:
Rừng tràm Melaleuca trên than bùn là kiểu thực vật điển hình của UMT. Một số loài
cây khác cũng xuất hiện trong vòm rừng này, như Sữa spathulata (Apocynaceae),Nhựa
ruồi cymosa (Aquifoliaceae),Euodia lepta (Rutaceae), Và cây gioi (Myrtaceae).
Kiểu rừng này được đặc trưng bởi sự phong phú của dương xỉ. Có hai loài dương xỉ
chung nhất là: dương xỉ Stenochlaena palustris leo, và dương xỉ Nephrolepis falcata quả
đất.
b) Rừng tràm Melaleuca trên đất khoáng:
Kiểu rừng thường này xuất hiện tại mép mái vòm than bùn. Đây có lẽ là một giai
đoạn thứ nhì của rừng Melaleuca trên than bùn được xảy ra sau khi bị lửa đốt cháy tất cả
than bùn.
Melaleuca cajuputi gần như là loài cây duy nhất của vòm rừng. Giống sậy
vallatoriaand, lau Eleocharis dulcis, cỏ cao là loài phổ biến trên nền rừng này. Dương xỉ
hầu như không có nhiều như trên dất than bùn.
c) Trộn lẫn rừng đầm lầy:
Rừng pha trộn của đầm lầy than bùn được định vị trên vùng đất có than bùn cao, có 1
vùng thắt lưng vượt trội bởi nhiều loài cây như: Nhựa ruồi cymosa, Cây gioi, cây Sữa
spathulata, Ficus microcarpa, Melaleuca cajuputi, Euodia lepta, Acronichya
pedunculata. Chiều sâu than bùn tại chỗ này là 1,6m.
Đây là một vùng đầm lầy than bùn cần phải được bảo vệ cẩn thận.
Trang 10



Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

d) Đồng cỏ:
Ở U Minh Thượng, những đồng cỏ có lẽ là một sự hình thành thứ nhì xuất hiện trên
những đất rừng sau khi bị cháy hoặc sự chặt trắng nhân tạo.
Hai kiểu đồng cỏ: đồng cỏ được thống trị bởi Giống sậy vallatoria , và đồng cỏ vượt
trội bởi Eleocharis dulcis.
Giống sậy vallatoria có thể đạt đến 4 mét cao. Những loài khác thường được tìm
thấy trong đồng cỏ Giống sậy là Cayratia trifolia, Scleria sumatrensis, Ngành tảo lông
roi indica, Leersia hexandra, Cỏ lông cò chinensis, Cyperus digitatus, Consismilis
Paederia và dulcis Eleocharis.
Eleocharis dulcisgrassland thường chiếm giữ những vùng của đất thấp, sâu xa và có
axit cao. Những ruộng lúa là một chỗ thuận lợi cho đồng cỏ Eleocharis dulcis. Đây là
một đồng cỏ thấp với sự có mặt của nhiều loại cay khác như: cây lau
(Cyperaceae),Cyperus elatus, Cyperus digitatus, Cyperus polystachyos, Fuirena
umbellata, Giống sậy vallatoria, Ludwigia adscendens, cây Nghể barbatum, Pistia
stratiotes,và Súng nouchali.
e) Đầm lầy mở:
Đầm lầy mở được phủ bởi những loại thảo dược, thường xuyên có nước thoáng. Ba
kiểu khác nhau của đầm lầy mở ở U Minh Thượng thì dựa vào tính trội của một số loài:
đầm lầy Súng nouchali, đầm lầy Pistia stratiotes/ Salvinia cucullata, và đầm lầy Cỏ nến
domingensis.
Những đầm lầy nouchali Súng thường chiếm giữ những vùng nước nhỏ như những
ao tự nhiên được định vị trong những rừng hay những đồng cỏ. Những loài chung như:
pistia stratiotes, Salvinia cucullata, Bèo Nhật Bản crassipes, Eleocharis dulcis, cây Bìm
bìm aquatica, Ludwigia adscendens, Bèo dâu pinnata, Bèo tấm aequinoctialis,
Hymenachne acutigluma, Sacciolepis interrupta, Leersia hexandra, và Commelina

diffusa. Ngoại trừ loài trội, những loài chung khác thường được tìm thấy tương tự trong
tất cả các kiểu của những đầm lầy và những dòng tự nhiên ở UMT. Không có nhiều sự
khác nhau trong thành phần loài trong số những kiểu cỏ này.
Đầm lầy Pistia stratiotes/ Salvinia cucullata : chiếm giữ những vùng nước thoáng
lớn trong khu vực lõi của U Minh Thượng, sự bao phủ Gần như 100% trong số bề mặt
nước.
Đầm lầy Cỏ nến domingensis: từ năm 1999-2000, hầu hết cỏ nến đã không còn vì
những mùa gặt cường độ cao của những người địa phương. Những đầm lầy cỏ nến còn
lại ở UMT có kích thước nhỏ.
f) Dòng tự nhiên:
Vài dòng nhỏ xuất hiện trong khu vực lõi của UMT. Những dòng này ứ đọng bởi vì
hệ thống đê bao vây khu vực lõi ngăn ngừa sự chuyển động nước. Những mép dòng
được bao trùm với những cây ở nước rõ nét Eleocharis dulcis, giống sậy vallatoria,
Hymenachne acutigluma, Sacciolepis interrupta…
g) Kênh đào:
Kênh đào là những vùng nước nhân tạo, những quần xã thực vật chiếm giữ nước
kênh đào rất đa dạng. Dọc theo kênh có: Vigna luteola, Cây Nghể barbatum, Commelina
diffusa, Cyperus rubroviridis, Cyperus elatus, Echinochloa stagnina, Ischaemum
Trang 11


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

rugosum, Cây Lúa rufipogone, Hymenachne acutigluma, Hygroryza aristata. chìm xuống
dười nước hoặc nổi lên trên có các loài như: Utricularia aurea, Hydrilla verticillata,
Ceratophyllum demersum, Pistia stratiotes, Salvinia cucullata, Bèo nhật bản crassipes,
Limnocharis flava, Bèo tấm aequinoctialis, Bèo dâu pinnata.



Bản đồ thực vật:

Bản đồ thực bì tự nhiên của khu vực lõi gồm có những đơn vị thực vật sau:
a. Rừng tràm trên than bùn: là vùng bao phủ bởi những rừng Melaleuca đã trưởng
thành trên than bùn sâu. Lớp nền được đặc trưng bởi sự phong phú của dương xỉ
Nephrolepis và Stenochlaena.
b. Melaleuca trên than bùn nông: là những vùng bao phủ rừng tràm trẻ hơn trên than
bùn nông, thường được định vị tại mép của mái vòm than bùn.
c. Rừng Melaleuca trên đất pha sét: bao phủ bởi rừng tràm trên những vùng không
có than bùn. Lớp nền được đặc trưng bởi sự phong phú của giống Sậy.
d. Melaleuca Trẻ: được trồng lại hay tràm tái sinh, cao thấp hơn 1.5m, pha trộn với
giống Sậy và Eleocharis.
e. Đồng cỏ giống Sậy
f. Đồng cỏ Eleocharis
g. Đầm lầy mở Pistia


Những loại cây có mặt ở rừng UMT:

a) Những cây hoang:
Những cây có mạch lớn được tìm thấy ở khu bảo tồn thiên nhiên UMT là 243 loài,
thuộc 84 họ. Có 5 họ lớn:
Poaceae: 42 loài
Cyperaceae: 28 loài
Asteraceae: 12 loài
Fabaceae: 11 loài
Rubiaceae: 7 loài

Trang 12



Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Hình 4.1: Những dạng cây hoang được tìm thấy ở UMT
b) Những cây hiếm có:
Trong tất cả các cây, có 50 loài được xem xét là hiếm có(R) và 9 loài rất hiếm (VR).
Những cây Hiếm có và rất Hiếm cùng nhau cấu thành 23. 6% trong số hệ thực vật (của)
dự trữ.
c) Những cây trồng:
Những cây trồng tạo ra một phần quan trọng của hệ thực vật của một vùng. qua khảo
sát có 220 loài thuộc 69 họ. Dạng sống của những cây trồng hoàn toàn khác với cây
hoang. Những họ sau:
Fabaceae:

16 loài

Myrtaceae:

9 loài

Apocynaceae:

9 loài

Cucurbitaceae: 8 loài
Poaceae:


8 loài

Asteraceae:

7 loài

Palmeae:

7 loài

Trang 13


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Hình 4.2: Những dạng sống của cây trồng
Các giá trị mà cây trồng cung cấp:
Thức ăn: bao gồm những cây sử dụng như thức ăn cho con người
Gỗ nhiên liệu: gồm những cây được sử dụng như nấu nạp nhiên liệu
Thuốc: gồm những cây sử dụng như thuốc
Trang trí: những cây cảnh
Gỗ: gồm những cây sử dụng như vật liệu xây dựng, hay đồ đạc làm bằng gỗ.

Hình 4.3: Giá trị sử dụng của cây trồng

Trang 14



Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

2. Hệ động vật:
Rừng và đất ngập nước ở U Minh Thượng có nhiều loài động vật hiếm và đang bị đe
doạ tuyệt chủng (rái cá lông mũi, cáo cộc, mèo cá, cầy vòi đốm, đại bàng đen, hạc cổ
trắng, cò lau Ấn Độ, cò ốc, bồ nông chân xám....)
Tầm quan trọng bảo tồn của VQG U Minh Thượng nổi bật bởi sự đa dạng của các
loài chim. Trong đợt khảo sát các vùng đất ngập nước ở đồng bằng sông Cửu Long do
Chương trình BirdLife Quốc tế và Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (IEBR) thực
hiện, U Minh Thượng có số loài chim phong phú nhất trong các điểm điều tra (Buckton
et al. 1999). Hiện tại có 187 loài chim đã ghi nhận tại U Minh Thượng, bao gồm 9 loài bị
đe dọa toàn cầu hoặc gần bị đe dọa toàn cầu như:Điềng điễng Anhinga melanogaster, Bồ
nông chân xám Pelecanus philippensis, Giang sen Mycteria leucocephala, Già đẫy nhỏ
Leptoptilos javanicus, Quắm đầu đen Threskiornis melanocephalus, Quắm đen Plegadis
falcinellus, Đại bàng đen Aquila clanga, Diều cá Ichthyophaga ichthyaetus, Rồng rộc
vàng Ploceus hypoxanthus (Safford et al. 1998, Buckton et al. 1999, Nguyễn Phúc Bảo
Hòa 2000).
VQG U Minh Thượng cũng là nơi tập trung số lượng lớn quần thể toàn cầu của một
số loài chim nuớc phổ biến như Xít Porphyrio porphyrio, Cốc đen Phalacrocorax niger,
Diệc lửa Ardea purpurea và Quắm đen Plegadis falcinellus. Do có tầm quan trọng Quốc
tế về công tác bảo tồn chim, U Minh Thượng đã được công nhận là một trong số các
vùng chim quan trọng tại Việt Nam (Tordoff 2002).
V. Sinh kế của người dân và các ảnh hưởng đến hệ sinh thái:
Vùng đệm có 3.526 gia đình nghèo, không đất sản xuất,ở khắp nơi trong tỉnh được
bố trí nhận mỗi hộ 4ha để định cư đào vuông, đắp bờ bao lên liếp trồng tràm, khóm, mía,
rau màu, cây ăn trái và nuôi cá với nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, thấp
nhất 25 triệu đồng/hộ và cao nhất hơn 30 triệu đồng/hộ. Dự án kinh tế nông hộ vùng đệm
U Minh Thượng đã ra đời như vậy. Sau tám năm thực hiện (từ tháng 5-1999 đến 2007,

mặc dù tỉnh Kiên Giang luôn khẳng định dự án đã làm thay đổi bộ mặt hoang vu vốn có
từ bao đời của vùng rừng U Minh Thượng với nhiều hiệu quả kinh tế - xã hội, nhưng trên
thực tế dự án này đang là nỗi ngao ngán của nhiều ngành, nhiều người.
Có hơn 76% gia đình không còn nghèo nhưng ở UMT hàng ngày vẫn có hàng trăm
gia đình đi chặt sậy bán với giá 50.000 đồng / ghe để đong gạo. Nhiều lúc ngặt nghèo quá
phải xông đại vô rừng cấm của quốc gia kiếm bậy con rùa, con rắn đem bán kiếm tiền
đong gạo.
Phân tích tình hình thu nhập của cư dân vùng đệm cho thấy thu nhập bình quân đầu
người chỉ đạt 218.000 đồng/người/tháng, mà nếu theo tiêu chí hộ nghèo là thu nhập
200.000 đồng/người/tháng thì hàng ngàn gia đình được cho là “đủ ăn và khá” ấy đang
trong cảnh cách cái nghèo chỉ 18.000 đồng.
Sau 15 năm định cư nơi miệt rừng này, đời sống của người dân cũng không ngửng
đầu lên được, bởi nhiều lý do nhưng cái chính là không được đầu tư làm các công trình
thủy lợi. Mang tiếng đất rộng, người thưa nhưng hễ có vài trận mưa là nước ngập linh
binh hết, dân chưa ai đi đo độ phèn trong nước, nhưng chỉ biết rằng nước cứ có màu đỏ
như cốt trầu, trồng cây gì cũng không lên nổi. Trồng mía có năng suất cao nhưng giá quá
thấp, chưa bao giờ vượt 60.000đ/ tấn, còn trồng tràm thì giá lại hạ thê thảm chỉ được
700.000đ/ công tràm.
Trang 15


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Việc gỡ rối cho dự án kinh tế nông hộ ở vùng đệm đang là một bài toán khó khăn khi
mà hàng ngàn hộ dân triển khai đào vuông, đắp bờ bao đã vô tình đưa lớp phèn tiềm tàng
từ dưới sâu lên trên mặt đất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, chăn nuôi.
Việc quản lí người dân ở đây rất khó, hở ra một cái là họ lại chống xuồng vào trong
rừng, bắt cá đốt ong săn chim. Làm cho công tác bảo vệ rừng lúc nào cũng bị đặt trong

tình trạng báo động, chỉ cần một mồi lửa nhỏ vào mùa khô là thiêu trụi hàng trăm ha tràm
và Nhà nước lại tốn kém cả nghìn tỷ đồng cho công tác khắc phục hậu quả, nguy hại vậy
nhưng tình trạng dân lấn rừng già thế này cũng chưa có phương cách gì khả quan để hạn
chế họ được.
Và việc bỏ đất lấn rừng của những người dân này vẫn chưa có hồi kết và vườn quốc
gia U Minh Thượng sớm muộn cũng bị rơi vào cảnh vùng đệm bỏ hoang nếu không có
những chính sách đầu tư kịp thời…
Diện tích rừng tràm sẽ giảm xuống vì người dân đã chặt bỏ để chuyển sang mục đích
khác như nuôi tôm, trồng mía..; một phần là do cháy rừng đã làm cho diện tích rừng giảm
đáng kể. Do đó đòi hỏi chính quyền địa phương phải có kế hoạch quản lí phù hợp.
Ngoài ra, hiện nay mỗi ngày vườn quốc gia này đón trung bình từ 100 đến 150 khách
đến tham quan, giải trí với loại hình câu cá, du lịch sinh thái. Song Ban quản lý chưa có
biện pháp để du khách ý thức với việc vứt rác thải, hoặc bố trí những thùng đựng rác ở
nơi thuận tiện. Chính vì vậy vườn quốc gia U Minh Thượng đang tràn ngập rác thải, nhất
là vỏ chai đựng nước uống và túi nylon, đây là loại rác khó phân hủy. Mặc dù hằng tuần,
ban quản lý tổ chức 1 ngày lao động tập thể, chủ yếu thu gom rác, nhưng do diện tích
rộng, riêng rừng nguyên sinh đã lên đến 3.000 ha, nên số lượng rác được thu gom không
đáng kể, một số tuyến đường, kênh rạch nằm sâu trong rừng vẫn tràn ngập rác thải.

Trang 16


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

Phần 3: SO SÁNH HAI HỆ SINH THÁI VÀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
I. Giống nhau:
Cả 2 đều là hệ sinh thái có giá trị đặc biệt đối với vấn đề đa dạng sinh học, tuy nhiên
có nguy cơ bị suy giảm do tác động ngày càng xấu của con người. Chúng đang bị đe dọa

nghiêm trọng.
Về giá trị của đất ngập nước:
Ngoài việc cung cấp sản phẩm cho cuộc sống hàng ngày của con người, đất ngập
nước còn có giá trị là nơi cung cấp nước, tích trữ nước ngầm, và kiểm soát lũ lụt.
Đối với môi trường, đất ngập nước giữ lại chất dinh dưỡng, lắng đọng chất độc, ổn
định bờ biển, chống xói mòn và chống sóng bão...
Về mặt cảnh quan, đất ngập nước cung cấp các dịch vụ giải trí, du lịch, và giao thông
đường thủy cùng nhiều giá trị văn hóa khác.
Tuy nhiên, giá trị của đất ngập nước không đơn thuần là đánh giá dựa trên giá trị
đóng góp phát triển kinh tế. Nó còn đem lại những cảnh đẹp thiên nhiên độc đáo và sự
điều hòa nhiệt độ cho những khu dân cư từ những khu rừng tràm.
II. Khác nhau:

Đặc điểm của sự khác
Vùng đầm lầy Láng
nhau
Sen

VQG U Minh Thượng

Kiểu ngập nước

Vừa là vùng ngập nước
Là vùng ngập nước
ngọt, vừa là vùng ngập ngọt, trên đất chua phèn
nước mặn

Tính đa dạng sinh học

Là nơi có tính đa dạng

cao nhất, một kiểu nơi sống
hiếm có ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, có
thủy vực nước chảy.

Tính đa dạng sinh học
rất cao, chủ yếu là đa dạng
về các loài thực vật, với
nhiều loài có giá trị có ích
cho đời sống.

Tính đa dạng bởi các
Về động vật chủ yếu là
loài thủy sản, động vật có các loài chim, là một trong
xương sống và các loài số các vùng chim quan
phiêu sinh vật.
trọng tại Việt Nam.

Nguyên nhân làm mất
đất ngập nước:
- Tác động của con
- Phần lớn những tác
- Chỉ một phần tác
người:
động trực tiếp và gián tiếp động của con người là
của con người là nguyên nguyên nhân dẫn đến mất
Trang 17


Bài thi cuối kì


Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ
nhân chính dẫn đến sự mất
đất ở vùng đầm lầy, như:
tháo cạn cho quản lí nông
nghiệp, lâm nghiệp, khống
chế muỗi; san lấp chôn chất
thải, làm đường, phát triển
khu công nghiệp; xây dựng
bờ bao, đập ngăn nước; thải
bỏ nông dược, chất dinh
dưỡng; khai thác nước
ngầm…

- Nguyên nhân tự nhiên:

đất, nhưng không phải là
nguyên nhân chính, như:
tháo cạn nước, khai thác
khoáng sản…

- Các nguyên nhân - Các nguyên nhân gây nên
chính là do: hạn hán, các tác sự mất đất là do: nước rút
động hữu sinh.
dần, hạn hán, bão tố, xói
mòn.
- Cháy rừng do lớp than
bùn cũng là nguyên nhân
làm cho diện tích đất ngập
nước giảm, song đó làm suy

giảm tính đa dạng sinh học
do số lượng các loài giảm.

III. Biện pháp quản lí:
Các biện pháp để quản lí vùng đất ngập nước:


Quy hoạch chung việc sử dụng và quản lí nguồn tài nguyên đất ngập nước.



Xây dựng những hướng dẫn về chính sách vùng đất ngập nước.



Cải tiến thông tin và nhận thức

Đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân trong vùng: Trước tình hình xâm nhập vào
khu bảo tồn để đánh bắt trộm, gây nhiều khó khăn cho công tác bảo vệ, ban quản lý đang
tổ chức thành lập các nhóm "sinh kế bền vững" để giúp người dân thoát đói nghèo mà
không làm tổn hại đến môi trường sinh thái.
1. Đối với rừng UMT:
Xây dựng và thực thi hệ thống thuỷ văn thích hợp để phòng và chống cháy rừng
đồng thời duy trì sự phát triển ổn định và bền vững của hệ sinh thái đất ngập nước. Phải
xây dựng được cơ chế phối hợp giữa Vườn quốc gia với chính quyền địa phương trong
việc bảo vệ và phòng chống cháy rừng.
Thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học hỗ trợ cho các hoạt động quản lý bảo
vệ và phát triển rừng. Tăng cường công tác phổ cập giao dục để nâng cao nhận thức của
cộng đồng dân cư để họ ý thức bảo vệ và phát triển rừng.
Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong những vùng đất có hệ sinh thái quan

trọng của ĐBSCL và của nước ta. Vì vậy việc đầu tư khôi phục phát triển Vườn quốc gia
U Minh Thượng là rất cần thiết, mục tiêu cần đạt được là khôi phục các đặc điểm về đa
dạng sinh học đặc trưng cho hệ sinh thái rừng U Minh Thượng, hạn chế tối đa các tác
động nhân tạo có thể gây thêm nhiều xáo trộn, ảnh hưởng đến sự bền vững của môi
Trang 18


Bài thi cuối kì

Quản lý tài nguyên vùng bờ và đới bờ

trường. Vườn quốc gia U Minh Thượng là nơi lưu trữ, bảo tồn các di sản của thiên nhiên,
nơi nghiên cứu khoa học nhằm quản lý và sử dụng tốt hơn hệ sinh thái, đồng thời cũng là
nơi du lịch sinh thái, giao dục môi trường, giáo dục về lịch sử văn hoá xã hội. Việc đầu tư
khôi phục Vườn quốc gia U Minh Thượng nhằm khôi phục và giữ gìn một di sản chung
của tỉnh và của cả nước.
Việc xây dựng vùng đệm của Vườn quốc gia U Minh Thượng thành vùng kinh tế xã
hội phát triển nhanh, bền vững nhằm nâng cao đời sống mọi mặt nhân dân trong vùng,
vừa là trách nhiệm vừa là đạo lý đối với nhân dân vùng căn cứ kháng chiến, đền đáp sự
hy sinh mất mát của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến giành lại độc lập dân tộc, thống
nhất nước nhà.
2. Đối với khu bảo tồn thiên nhiên Láng Sen:
Qua những số liệu khảo sát được cho thấy, Láng Sen là một vùng ĐNN với hệ thống
sông rạch tự nhiên và đa dạng về địa mạo so với các vùng ĐNN khác của Đồng Tháp
Mười. Đây là một trong những yếu tố tự nhiên góp phần cho sự đa dạng về nơi sống, về
loài và về cảnh quan tự nhiên. Nếu được bảo vệ tốt, Láng Sen sẽ góp phần đáng kể vào
việc bảo tồn sự ĐDSH của vùng nội địa hạ lưu sông Mê Kông. Do đó, sự tồn tại của Khu
Bảo tồn ĐNN Láng Sen sẽ góp phần vào việc bảo tồn ĐDSH và cảnh quan thiên nhiên
vùng Đồng Tháp Mười, bảo vệ nguồn gen các loài động thực vật quý hiếm, phục vụ hoạt
động nghiên cứu khoa học. Điều đặc biệt, du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa

vào thiên nhiên kết hợp với văn hóa bản địa, mang tính giáo dục nâng cao nhận thức cộng
đồng trong việc tham gia bảo vệ môi trường mà ĐNN sẽ là một sản phẩm du lịch vô cùng
độc đáo được Tổng cục Du lịch coi là trọng điểm trong năm 2006. Đây sẽ là tin vui với
tất cả những ai quan tâm đến giá trị của ĐNN, những người dân nơi đây cũng sẽ có điều
kiện được đóng góp công sức của mình bảo tồn hệ sinh thái đặc biệt này và từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống, vượt qua đói nghèo.

Trang 19



×