Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.52 KB, 11 trang )

PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ THƯƠNG
MẠI VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
ThS. Huỳnh Thị Hương Thảo
Bao thanh toán là nghiệp vụ không còn xa lạ gì đối với nhiều quốc gia trên thế giới và
nó đã mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng lẫn đơn vị cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, ở Việt
Nam hiện nay, bao thanh toán vẫn chưa được phát triển rộng rãi mà một trong những nguyên
nhân là do ngân hàng vẫn còn dè dặt với loại hình này. Mặc khác, bao thanh toán (factoring)
còn là một khái niệm còn lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì thế, dù được giới
chuyên môn đánh giá cao nhưng nghiệp vụ bao thanh toán vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt
Nam. Đây cũng là một thiệt thòi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bán hàng. Vì vậy, để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng trong xu thế hội nhập với nền tài chính quốc tế, các ngân hàng, các tổ chức tài chính
của Việt Nam cần mở rộng triển khai dịch vụ bao thanh toán.
1. Tìm hiểu về nghiệp vụ bao thanh toán
Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI - Factors Chain
International) thì định nghĩa bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính trọn gói bao
gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và
dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ bao thanh toán (factor) với
người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa
(seller). Theo như thỏa thuận, factor sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng
trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ
tín dụng (debtor).
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN được định
nghĩa là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại
các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng
thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng nói chung, có thể hiểu nghiệp vụ bao
thanh toán chính là hình thức tài trợ cho những khoản thanh toán chưa đến hạn từ các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ, đó chính là hoạt động mua bán nợ.
Trong một nghiệp vụ bao thanh toán, thông trường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: tổ


chức bao thanh toán (factor), khách hàng của tổ chức bao thanh toán (seller) và con nợ của tổ chức
bao thanh toán (buyer). Đối với các loại bao thanh toán xuất nhập khẩu thì sẽ có hai đơn vị bao
thanh toán, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của nhà nhập khẩu. Ngoài
ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán đối với factor, họ sẽ
bán không phải là một mà một số các khoản phải thu từ nhiều khách hàng khác nhau, cho nên trong
nghiệp vụ bao thanh toán có thể có rất nhiều con nợ của factor.
(Xem bảng 1)
Bảng 1: So sánh bao thanh toán với các loại hình
tài trợ thương mại khác


2. Thực trạng bao thanh toán ở các nước trên thế giới
Từ lâu, bao thanh toán đã là một khái niệm quen thuộc trong giới tài chính thế giới. Trên
thế giới hiện có hơn 1.768 đơn vị bao thanh toán đang hoạt động. Trong số đó, có 232 tổ chức bao
thanh toán từ 63 quốc gia là thành viên của FCI. Theo số liệu thống kê của FCI, doanh thu bao
thanh toán thế giới năm 2007 là 1.229.127 triệu Euro, tăng 14,53% so với năm 2006.
(Xem bảng 2)
Bảng 2: Doanh thu bao thanh toán trên thế giới


( Nguồn FCI:www.factors-chain.com)
Ta thấy doanh số bao thanh toán không ngừng gia tăng theo thời gian. Điều này chứng tỏ,
các bên tham gia giao dịch ngày càng nhận ra những lợi ích đáng kể mà dịch vụ này mang lại cho
họ trong đó, tỉ trọng doanh thu của bao thanh toán quốc tế còn khá khiêm tốn so với doanh thu bao
thanh toán nội địa. Tuy nhiên, tỉ lệ này tăng dần theo thời gian. Cụ thể là năm 2003 tỉ lệ này là
6,28%, năm 2004 là 7,94%, đến năm 2005 là 8,51%, năm 2006 là 9,14%, và năm 2007 đạt 11,24%.
Điều này nói lên sự phát triển khá mạnh của bao thanh toán quốc tế cũng như việc nhận ra tầm quan
trọng của bao thanh đối với xuất nhập khẩu của cả người mua và người bán. Trong tương lai, khối
lượng bao thanh toán quốc tế sẽ còn tiếp tục tăng mạnh.
Ở những nước phát triển, dịch vụ bao thanh toán rất được ưa chuộng, các thị trường bao

thanh toán lớn nhất thế giới thường tập trung ở đây.
(Xem bảng 3)
Bảng 3: Các thị trường bao thanh toán lớn nhất thế giới

(Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Theo phạm vi khu vực địa lý, trong tổng doanh số bao thanh toán thế giới năm 2007, đứng
đầu vẫn là châu Âu, với doanh số 929.756 triệu Euro, lớn hơn 5 lần khu vực đứng thứ 2.
(Xem bảng 4)
Bảng 4: Doanh số bao thanh toán của các khu vực


(Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
-

Khu vực châu Á
Từ năm 2003 về trước, doanh số bao thanh toán khu vực này chỉ đứng thứ 3, xếp sau châu
Âu và châu Mỹ. Nhưng với nhu cầu phát triển mạnh mẽ cộng với những tiềm lực có sẵn đã làm
cho châu lục này phát triển khá mạnh về dịch vụ này và doanh số đã tăng cao, vươn lên đứng
hàng thứ 2, chỉ sau châu Âu. Châu Á được các chuyên gia đánh giá cao vì đây là một thị trường
trẻ, hấp dẫn nhiều nhà đầu tư.
Dẫn đầu là Nhật Bản với doanh thu từ bao thanh toán là 77.721 triệu Euro, theo sau là Đài
Loan với 42.500 triệu Euro. Tỉ lệ tăng doanh thu (năm 2007 so với năm 2006) của khu vực châu
Á là 16,45%, tỉ lệ này tăng cao hơn so với năm trước (tỉ lệ tăng doanh thu năm 2006 so với
2005 là 10,44%).
Tại châu Á, quốc gia có tỉ lệ phát triển bao thanh toán cao nhất phải kể đến là Việt Nam với
mức tăng 168,75% so với năm 2006 (doanh thu năm 2006 là 16 triệu Euro, đến năm 2007 đã
lên đến 43 triệu Euro). Đứng thứ hai là Trung Quốc với mức tăng 130,6%.
- Khu vực châu Âu
Đây là khu vực có doanh thu bao thanh toán cao nhất, với tỉ lệ tăng 15,21% so với năm
2006. Trong đó, dẫn đầu là Vương quốc Anh với doanh thu 286.496 triệu Euro, tỉ lệ tăng so với

năm 2006 là 15,17%, tiếp theo là các nước Ý, Pháp, Đức và Tây Ban Nha.
- Khu vực châu Mỹ
Colombia là nước có tốc độ tăng cao nhất, với tỉ lệ tăng kỉ lục là 1.930% so với năm 2006
(năm 2006, doanh thu là 100 triệu Euro, năm 2007 là 2.030 triệu Euro) tiếp đến là nước
Honduras. Dù vậy, nhưng Mỹ vẫn là nước dẫn đầu với doanh thu bao thanh toán cao nhất, đạt
97.000 triệu Euro, đứng thứ hai là Brazil với 21.060 triệu Euro. Tốc độ tăng trưởng của châu
Mỹ vẫn còn chậm ở mức 6,58% so với năm 2006.
- Khu vực châu Úc
Thị trường bao thanh toán ở châu Úc vẫn đang tiếp tục phát triển, với tỉ lệ tăng trưởng so
với năm 2006 là 21,28%. Doanh số bao thanh toán của châu Úc có được chủ yếu là do doanh số
bao thanh toán của Úc (33.080 triệu Euro). Tuy doanh thu bao thanh toán của New Zealand
không đáng kể, chỉ ở mức 700 triệu Euro, nhưng tỉ lệ tăng tương đối cao, đạt 150% so với năm
2006.
- Khu vực châu Phi
Đây là châu lục có tỉ lệ tăng cao nhất so với các châu lục khác, tỉ lệ tăng ở mức 25,75% so
với năm 2006. Hiện nay, châu Phi chỉ có 4 nước thực hiện bao thanh toán và quốc gia có doanh
thu bao thanh toán cao nhất, chiếm tỉ trọng nhiều nhất vẫn là Nam Phi, đạt 9.780 triệu Euro.
Năm 2007, Ai Cập đã tạo được bước đột phá khi có tỉ lệ tăng so với năm 2006 là 566,67%
( doanh thu tăng từ 3 lên 20 triệu Euro).


3. Tình hình thực hiện dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990, nhưng chưa
có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh toán đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng (sau
này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp lý này bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các
tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao
thanh toán mới chính thức được triển khai tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao

thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch vụ này vào 01/2005. Tiếp
đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ này, như Far East National Bank
(02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005)…
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ bao thanh
toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB), Ngoại thương (VCB), Sài
Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB),
Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển
nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải (MSB)… Trong số này, có 4 ngân hàng tham gia vào FCI: Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kỹ Thương, Ngân hàng
TMCP Á Châu và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Do còn dè dặt trong bước đầu triển khai
nên hiện nay các ngân hàng chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi.
Theo số liệu thống kê của FCI, doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2007 là 43 triệu
Euro. Tuy rằng con số này còn rất nhỏ so với nhiều nước trong khu vực, nhưng nó cũng thể hiện
bước chuyển biến tích cực của thị trường bao thanh toán ở Việt Nam. Từ năm 2004 trở về trước,
doanh số bao thanh toán của Việt Nam chỉ là con số 0, nhưng đến năm 2005, con số này đã tăng lên
đạt 2 triệu Euro, năm 2006 đạt 16 triệu Euro, đến năm 2007 được 43 triệu Euro.
(Xem biểu đồ 1)
Biểu đồ 1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt Nam (Đơn vị: Triệu Euro)

Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Ta thấy doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2007 tăng 168,75% so với năm 2006.
Tuy nhiên, doanh thu bao thanh toán xuất khẩu vẫn còn khá khiêm tốn so với bao thanh toán
nội địa.
(Xem biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Doanh thu bao thanh toán nội địa và quốc tế
(Đơn vị: Triệu Euro)


(Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Năm 2006, doanh thu bao thanh toán nội địa (15 triệu Euro) gấp 15 lần doanh thu bao thanh

toán quốc tế (1 triệu Euro). Đến năm 2007, mặc dù tổng doanh số bao thanh toán tại Việt Nam
tăng 168,75% nhưng doanh thu bao thanh toán quốc tế vẫn tăng không đáng kể. Doanh thu bao
thanh toán nội địa tăng 173,33%, trong khi doanh thu bao thanh toán quốc tế chỉ tăng 100%. Và
trong năm 2007, doanh thu bao thanh toán nội địa (41 triệu Euro) gấp 20,5 lần doanh thu bao
thanh toán quốc tế (2 triệu Euro).
(Xem tiếp kỳ sau)
Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán trong hoạt động tài trợ thương mại và nâng cao năng lực
cạnh tranh tại các NHTM ở Việt Nam (Số 20/2008)
ThS. Huỳnh Thị Hương Thảo
(Tiếp theo kỳ trước)
4. Một số tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng tình hình bao
thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết những ưu điểm vốn có của
nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi
trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
Khung pháp lý
Quy chế 1096 đã quy định những vấn đề cơ bản trong hoạt động bao thanh toán. Tuy nhiên, Quy
chế này vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại, công ty tài
chính vẫn chưa mạnh dạn triển khai rộng rãi hoạt động này.
- Theo Quy chế này, bao thanh toán được định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng
hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa”.
+ Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ nội dung quy
chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này không thống nhất với
quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh
toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là
điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường.



+ Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập nhằng, khó hiểu vì quan
hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt nhau.
+ Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu xuất phát từ
hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát sinh từ việc cung ứng dịch
vụ.
- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trước chỉ đơn thuần
là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người bán. Chính sự không
chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với
đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh
toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.
- Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết: “c. Đơn vị bao thanh toán và bên
bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán.
d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh
toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền
đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao
thanh toán.
đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã nhận được
thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán.
e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ
khác liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán”.
Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh
toán. Khi người bán và đơn vị bao thanh toán đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao
thanh toán cho bên mua hàng, mà bên mua hàng không đồng ý, không gửi văn bản xác nhận về việc
đã nhận thông báo thì sẽ gây khó khăn cho cả người bán và đơn vị bao thanh toán. Bởi vì, pháp luật
sẽ không thừa nhận dịch vụ bao thanh toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách
hàng phải trả nợ.
Cũng theo đề mục trên, khi người bán và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, kí kết hợp đồng bao
thanh toán, sẽ phải đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng.
Như vậy, chưa đủ cơ sở để xác định thông báo có hiệu lực thi hành cho tất cả các bên.

- Cũng theo Quy chế 1096, chỉ các tổ chức tín dụng mới được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
Quy định trên không hợp lý vì nó gây khó khăn cho các doanh nghiệp có uy tín, có năng lực về tài
chính và thẩm định khách hàng muốn cung cấp dịch vụ này.
- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp
thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng dấu chuyển quyền sở
hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở
pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại
để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả
xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi
phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng
pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là
do luật pháp của ta chưa nghiêm.
- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối cùng và hiệu quả
nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa vụ khi đến hạn.
Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ


quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn
kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền
bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.
Khái niệm bao thanh toán còn khá mớ
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ ngày 01/10/2004,
nên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán còn hạn chế. Các doanh nghiệp lớn có
một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán do được các ngân hàng tiếp thị hoặc thông qua các
diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế còn đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
vẫn còn rất mơ hồ khi nghe nhắc đến nghiệp vụ bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm sử
dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người mua. Vì vậy, dịch
vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 - 5% doanh thu. Chi phí cao bởi vì

ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh
và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao
thanh toán.
Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp
của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để
nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được
các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất
yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các
ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng
minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích
các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài
sản đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi bản
chất của dịch vụ này.
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp lớn.
Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu thốn
nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách
hàng như phải chứng minh uy tín của bên mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay
phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh
nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao thanh toán và
nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với
hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở
nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì
dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh
toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này
tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng của bên bán
(bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều này thật sự vô lý, và
đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.

Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế


Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát triển của
bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ chịu sự điều tiết của GRIF
(General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của
các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người
mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt
Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán
mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh
toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để nắm bắt, am
hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc không am hiểu luật pháp
quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế
Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai quốc gia khác
nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự tham gia hỗ trợ của
một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị bao thanh toán nhập khẩu). Do đó, một
ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ
chức bao thanh toán khác trên thế giới. Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều
kiện để mở các chi nhánh tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao
thanh toán nước ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng
Việt Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển ở Việt Nam.
Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán chỉ được thực hiện ở hội
sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến
việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào
cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.
5. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam
Để sản phẩm bao thanh toán nhanh chóng phát triển tại thị trường Việt Nam thì chúng ta cần tiến

hành một số giải pháp chủ yếu như sau:
Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán
Tính cho đến thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ mới ra Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN vào năm 2004 để ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán. Quyết định
này ra đời với một thái độ rất thận trọng, dè dặt và đã chưa mang lại hiệu quả thật sự. Chính vì vậy,
NHNN cần sớm ban hành một văn bản, quy chế khác ngắn gọn, đầy đủ, khắc phục được những vấn
đề chưa hoàn thiện trong quy chế cũ và thống nhất với thông lệ, công ước về bao thanh toán quốc
tế. Văn bản mới này cần xem xét những vấn đề sau:
Thứ nhất, định nghĩa chính xác nghiệp vụ bao thanh toán theo thông lệ quốc tế. Cần có sự phân biệt
rạch ròi giữa các thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua bán nợ”. Nên tách bạch hoạt động bao thanh
toán với cho vay và hai nghiệp vụ này không nên được quản lý và kiểm soát như nhau.
Thứ hai, cần mở rộng đối tượng cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ dừng lại trong
phạm vi các tổ chức tín dụng, cần tiến tới việc thành lập các công ty bao thanh toán độc lập.
Thứ ba, cần mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ bó hẹp trong hoạt
động thương mại hàng hóa. Bởi vì hiện nay, lĩnh vực dịch vụ đang ngày càng được mở rộng và đây
là một lĩnh vực đầy tiềm năng phát triển. Vì thế, nên thực hiện bao thanh toán đối với các khoản
phải thu phát sinh từ hợp đồng dịch vụ.


Thứ tư, nên bỏ quy định bên mua hàng phải gửi văn bản xác nhận và cam kết thanh toán cho đơn vị
bao thanh toán. Qui định này làm hạn chế phạm vi hoạt động của đơn vị bao thanh toán cũng như
quyền lợi sử dụng dịch vụ bao thanh toán của người bán. Mặt khác, xét về nguyên tắc, việc chuyển
giao quyền đòi nợ từ bên bán cho đơn vị bao thanh toán không cần phải có sự đồng ý của bên mua
vì dù bên mua thanh toán tiền cho ai đi nữa, thì bên mua cũng không thể phủ nhận nghĩa vụ thanh
toán của mình trong hợp đồng thương mại.
Thứ năm, hiện nay, không có quy định nào xác lập mối quan hệ của việc chuyển giao quyền đòi nợ
của bên bán cho đơn vị bao thanh toán. Vì thế, cần phải đưa ra quy định xác định điều kiện để việc
chuyển giao quyền đòi nợ của các bên có hiệu lực.
Thứ sáu, nhằm hạn chế rủi ro cho tổ chức bao thanh toán, nên có quy định về quyền của chủ nợ đối
với khoản phải thu. Đối với bao thanh toán có truy đòi, cần có quy định về quyền của đơn vị bao

thanh toán đối với tài sản của người bán. Trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc
người bán vi phạm hợp đồng, đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho
người bán. Nếu người bán mất khả năng hoàn trả, đơn vị bao thanh toán sẽ có quyền đối với tài sản
của người bán tương ứng với số tiền chưa hoàn trả. Đối với bao thanh toán không truy đòi, đơn vị
bao thanh toán cũng có quyền đối với tài sản của người mua tương ứng với số tiền chưa hoàn trả
trong trường hợp người mua mất khả năng thanh toán.
Thứ bảy, nên có quy định về các điều kiện giới hạn đối với người mua, hạn mức bao thanh toán tối
đa của từng người mua so với vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Hiện nay, việc quy định về tổng
số dư bao thanh toán cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán
là không hợp lý bởi vì rủi ro của đơn vị bao thanh toán không phải chỉ nằm ở chỗ người bán mà còn
ở khả năng thanh toán của người mua.
Thứ tám, cần xem xét và quy định rõ việc áp dụng thuế chuyển nhượng đối với hoạt động này. Hiện
nay, vẫn chưa có bất kỳ văn bản pháp luật nào đề cập đến vấn đề này.
Xây dựng sản phẩm phù hợp với thị trường
Hiện nay, sản phẩm bao thanh toán còn khá đơn điệu và kém hấp dẫn với hình thức duy nhất là có
truy đòi. Vì thế, cần nghiên cứu phát triển thêm nhiều sản phẩm mới để đa dạng hóa dãy sản phẩm
bao thanh toán.
Bên cạnh việc mua lại các khoản phải thu dưới hình thức có truy đòi, ngân hàng có thể thực hiện
bao thanh toán miễn truy đòi kết hợp với việc cung cấp thêm chức năng bảo hiểm rủi ro đối với bên
mua có uy tín cao trên thị trường, là các công ty lớn có tình hình tài chính minh bạch. Ngân hàng tin
tưởng rằng công ty này sẽ không thể đánh đổi những uy tín cũng như thương hiệu đã được xây dựng
nhiều năm để không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Đối với hoạt động thương mại quốc
tế, việc ngân hàng thực hiện bao thanh toán miễn truy đòi kết hợp với bảo hiểm rủi ro cho người
mua là gói sản phẩm sẽ được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn. Bởi vì do thiếu thông tin, không nắm rõ
về đối tác, để đảm bảo được thanh toán, nhà xuất khẩu trong nước sẽ sẵn sàng chấp nhận trả cho
ngân hàng mức phí cao hơn. Điều này vừa làm phong phú thêm hoạt động bao thanh toán của ngân
hàng vừa có thể tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều này,
đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh quan hệ với các đơn vị bao
thanh toán nhập khẩu, cũng như nắm bắt được thông tin về thị trường xuất khẩu của khách hàng.
Ngân hàng cũng nên giảm yêu cầu về tài sản đảm bảo. Hiện nay, các tổ chức tín dụng của Việt Nam

chủ yếu là cho vay có tài sản đảm bảo và thực hiện bao thanh toán cũng yêu cầu tài sản đảm bảo.
Như vậy, bao thanh toán chẳng khác gì so với cho vay thông thường. Dù tài sản đảm bảo là giải
pháp để đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, nhưng tài sản đảm bảo không là giải
pháp tốt để thu hút khách hàng. Ngân hàng cần làm khác biệt hóa bao thanh toán với sản phẩm cho
vay thông thường, có như thế mới thu hút được khách hàng. Tùy theo chính sách, khả năng của mỗi
ngân hàng mà xác định rủi ro có thể chấp nhận được, từ đó đưa ra yêu cầu về tài sản đảm bảo ít nhất
cho khách hàng.


Mặt khác, ngân hàng nên nghiên cứu để đưa ra chính sách phí linh hoạt, phù hợp với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trong giai đoạn đầu khi giới thiệu sản phẩm, ngân hàng có thể chấp nhận mức
lợi nhuận thấp hơn để tìm kiếm khách hàng.
Hoàn thiện quy trình bao thanh toán
Việc xây dựng và đưa các sản phẩm vào thị trường không thể thiếu các quy trình hướng dẫn. Quy
trình, quy chế chính là cái khung, bộ xương của sản phẩm. Đối với bao thanh toán cũng vậy, khi
quy trình, quy chế chặt chẽ, hợp lý thì nghiệp vụ bao thanh toán mới có thể được triển khai nhanh
chóng, hiệu quả.
Trong việc xây dựng quy trình cần chú ý đến vấn đề bảo hiểm khoản phải thu. Khi tiến hành bao
thanh toán, khoản phải thu chính là nguồn đảm bảo và thu nợ. Chính vì thế, đối với những mặt hàng
có quy định mua bảo hiểm, nhất thiết phải yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm.
Bao thanh toán là sản phẩm có những đặc điểm khác so với sản phẩm cho vay thông thường. Vì thế,
ngân hàng cần xem xét để thiết lập hệ thống tính điểm dành riêng cho đối tượng khách hàng bao
thanh toán khi nghiệp vụ này được biết đến rộng rãi.
Ngoài ra, khi đến hạn thanh toán, người mua sẽ là người thanh toán cho ngân hàng chứ không phải
người bán. Do vậy, ngân hàng phải quan tâm nhiều hơn đến việc thẩm định khoản phải thu và người
mua vì khả năng xảy ra rủi ro chủ yếu từ người mua chứ không phải từ người bán.
Thành lập phòng/ bộ phận bao thanh toán
Ở các nước phát triển, các ngân hàng hay tổ chức tài chính thường thành lập hẳn một công ty con
chuyên thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay chưa cho
phép thành lập công ty con như thế. Vì thế, để hoạt động bao thanh toán phát triển tốt, giải pháp

thành lập phòng/ bộ phận bao thanh toán là khả thi nhất.
Tại hội sở các ngân hàng, nhất thiết nên thành lập phòng bao thanh toán độc lập với các nghiệp vụ
khác. Tại các chi nhánh lớn có nhiều khách hàng tiềm năng, ngân hàng sẽ thành lập bộ phận phụ
trách dịch vụ bao thanh toán. Bộ phận này không chịu chung sự kiểm soát với bộ phận cho vay và
có những tiêu chuẩn thẩm định riêng của mình.
Tại Việt Nam, nghiệp vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ nhưng với một thị trường tiềm năng và
nhiều hứa hẹn, chắc chắn sản phẩm bao thanh toán từng bước được cải thiện và trở thành một công
cụ tài chính không thể thiếu trong việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Factors Chain Internationnal (2007), Annual Review. 2. Factors Chain
Internationnal (2006), General rules for international factoring (GRIF). 3. Ngân hàng ngoại thương
Việt Nam (2007) “Tài liệu tập huấn bao thanh toán (Factoring)”. 4. Quy chế hoạt động bao thanh
toán của NHTMCP Á Châu.
Ngày 07/11/2008



×