Chuyờn tt nghip
Trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế
&
chuyên đề thực tập
Đề tài:
phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu
tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn tây hà nội
Giáo viên hớng dẫn
: ts. bùi huy nhợng
Sinh viên thực hiện
: nguyễn thị ngọc mai
Lớp
: KDQT A
Khoá
: 46
Hệ
:
chính quy
Hà Nội - 2008
SV: Nguyn Th Ngc Mai Lp: Kinh doanh Quc t 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đánh dấu mốc quan trọng quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Một trong những kết quả tích cực của
quá trình ấy là kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng cả về số lượng và chất
lượng. Tuy nhiên, khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn
tồn tại như một điều hiển nhiên. Nổi cộm lên là những khó khăn về vốn, về
khả năng cạnh tranh cũng như thiếu thông tin về thị trường và đối tác. Hưởng
ứng chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ là trách nhiệm và
nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức xã hội. Là một ngân hàng luôn sát
cánh cùng khối khách hàng doanh nghiệp, trong đó có khối doanh nghiệp xuất
khẩu, nhưng những sản phẩm của NHNo&PTNT Tây Hà Nội đến nay vẫn
còn khá đơn điệu và chưa có sự hỗ trợ cho doanh nghiệp nhiều. Hơn nữa,
những năm gần đây, thị trường ngân hàng – tài chính phát triển chưa từng
thấy dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên rõ rệt hơn. Vì vậy, đa
dạng hóa sản phẩm, triển khai dịch vụ mới, tiện ích cho nhà xuất khẩu là vô
cùng cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của chính
ngân hàng. Một trong những dịch vụ mới khả thi với nhiều lợi ích cho cả nhà
xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng thương mại là dịch vụ bao
thanh toán xuất khẩu. Bao thanh toán không phải là một thuật ngữ hoàn toàn
mới lạ. Những hình thức cơ bản của nó đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm,
và theo thời gian, theo đà phát triển của thương mại nói riêng và của loài
người nói chung, bao thanh toán đã dần đạt đến trình độ ưu việt như hiện nay.
Rất nhiều nước trên thế giới sử dụng bao thanh toán như một giải pháp tối ưu
thúc đẩy quá trình buôn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ diễn ra thuận lợi và
hiệu quả hơn. Những lợi ích mà bao thanh toán đem lại cho thương mại trong
phạm vi quốc gia và trên toàn thế giới ngày càng được khẳng định và công
nhận rộng rãi.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về nghiệp vụ bao thanh toán
Chương 2: Khả năng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại
NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu tại
NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Qua đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Tây Hà Nội”,
em hy vọng chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng quát hơn về nghiệpvụ bao
thanh toán, đưa bao thanh toán gần gũi hơn với mọi người và sớm đưa
dịch vụ này vào áp dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ DỊCH VỤ
BAO THANH TOÁN
1.1.Dịch vụ bao thanh toán và lợi ích của dịch vụ đối với các bên liên
quan
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán
Nghiệp vụ bao thanh toán có lịch sử phát triển lâu dài, xuất phát từ hoạt
động đại lý hưởng hoa hồng khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã,
phát triển ở Anh vào thế kỷ 15 dưới hình thức ứng trả trước một phần cho
người ủy nhiệm (nhà cung ứng sản phẩm), và phát triển mạnh từ thế kỷ 19
thông qua các nhà đại lý thanh toán ngành dệt may của Mỹ, ngành công
nghiệp điện, hóa chất, sợi tổng hợp… Với lịch sử lâu đời nên định nghĩa
nghiệp vụ bao thanh toán cũng hết sức đa dạng.
Theo công ước về bao thanh toán quốc tế của UNIDROIT 1988, nghiệp vụ
bao thanh toán được định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán
các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên
cung ứng. Theo đó, tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức
năng sau: Tài trợ bên cung ứng (gồm cho vay và ứng trước tiền), quản lý sổ
sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi
ro không thanh toán của bên mua hàng.
Theo khoản (a) Điều 2 Luật tiêu chuẩn chuyển nhượng khoản phải thu
UNCITRAL (UNCITRAL Model Law on Assignment of Receivables),
“chuyển nhượng khoản phải thu” là thỏa thuận, trong đó một bên (người
chuyển nhượng) chuyển cho bên kia (người được chuyển nhượng) quyền thu
hồi khoản tiền thanh toán từ bên thứ ba (người vay). Các quyền lợi liên quan
đến khoản phải thu được xem là sự đảm bảo cho khoản nợ và các nghĩa vụ
khác cũng được nhìn nhận là sự chuyển giao.
Còn theo từ điển kinh tế của Christopher Pass và Bryan Lones: Bao thanh
toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
(công ty mua nợ) mua lại các khoản nợ cảu một doanh nghiệp với số tiền ít
hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinhtừ chênh lệch giữa số tiền thu
được của số nợ đã mua và giá thực tế của món nợ đó. Lợi ích của doanh
nghiệp bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ thương
mại trả nợ và hơn nữa là tránh được những phiền toái và các chi phí trong
việc đuổi các con nợ chậm trả.
Từ điển thuật ngữ ngân hàng của Hans Klaus định nghĩa rằng “ Bao thanh
toán là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng. Một doanh
nghiệp chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính
chuyên nghiệp (thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này
đảm nhận việc theo dõi và thu các khoản phải thu để hưởng phí và có lúc ứng
trước các khoản nợ. Thông thường các công ty mua nợ phải chịu rủi ro khi
con nợ mất khả năng thanh toán.”
Một khái niệm về bao thanh toán được nhiều người sử dụng nhất là khái niệm
bao thanh toán của Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI). Theo Hiệp hội
này, bao thanh toán là một dịch vụ tài chính trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn
lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi công nợ và thu hồi nợ. Đó là
sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và người bán, trong đó đơn vị bao
thanh toán sẽ mua lại khoản phải thu của người bán, thường là không truy đòi,
đồng thời có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi trả của người mua. Nếu người
mua phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị bao
thanh toán sẽ thay người mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người
bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế.
Điều 1 Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn bản
tháng 06/2004 của FCI (General Rules for International Factoring Verion FCI
June 2004), hợp đồng bao thanh toán là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp
sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải thu)
cho một đơn vị bao thanh toán, có thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để
thực hiện ít nhất một trong các chức năng sau đây:
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế
(UNIDROIT Convention on International Factoring) còn bổ sung thêm một
chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán, bao gồm việc cho
vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
Thống đốc NHNN, bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức
tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận
trong hợp đồng mua bán.
Bao thanh toán là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người
bán, tài trợ dựa trên hóa đơn, tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về bao thanh toán nhưng về cơ bản, bao
thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm
bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
Nói cách khác, bao thanh toán được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người
mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn
vị bao thanh toán (chủ nợ mới). Đơn vị bao thanh toán đảm bảo việc thu nợ,
tránh các rủi ro không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua.
Đơn vị bao thanh toán có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của
người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro
không thu được tiền hàng đều do người tài trợ gánh chịu.
Ngoài ra, nghiệp vụ bao thanh toán còn bao gồm một số dịch vụ như quản lý
tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín
dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với khách hàng lâu dài.
1.1.2.Các loại hình bao thanh toán
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, người ta sử dụng các
căn cứ khác nhau để phân loại dịch vụ bao thanh toán. Nếu phân loại theo
phạm vi trách nhiệm (hay rủi ro) với ý nghĩa là bao thanh toán nhằm bảo
hiểm rủi ro thanh toán, có hai loại bao thanh toán: bao thanh toán có quyền
truy đòi và bao thanh toán không có quyền truy đòi. Nếu phân loại theo
phạm vi thực hiện bao thanh toán cũng có 2 loại bao thanh toán: bao thanh
toán nội địa và bao thanh toán xuất nhập khẩu. Nếu phân loại theo phương
thức bao thanh toán có 3 loại: bao thanh toán từng lần, bao thanh toán theo
hạn mức và đồng bao thanh toán. Còn phân theo mức độ công khai sử
dụng dịch vụ bao thanh toán giữa hai bên mua - bán thì có 2 loại: bao
thanh toán có thông báo và bao thanh toán không thông báo
1.1.2.1.Phân loại theo quyền của đơn vị bao thanh toán
- Bao thanh toán có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số
tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
Vì vậy, trong bao thanh toán truy đòi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra trong trường
hợp khoản phải thu không được thanh toán và người bán không thể bù đắp
khoản thiếu hụt.
- Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ
rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng
trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán
khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận tại hợp
đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả năng
thanh toán của bên mua hàng
1.1.2.2.Phân loại theo phạm vi thực hiện bao thanh toán
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
Thống đốc NHNN:
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
- Bao thanh toán trong nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua
bán, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng đều là người cư trú theo quy
định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Bao thanh toán xuất nhập khẩu (bao thanh toán quốc tế) là việc bao thanh
toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu.
Bảng 1.1. Phân biệt bao thanh toán trong nước và bao thanh toán quốc tế
Chỉ tiêu Bao thanh toán trong nước Bao thanh toán quốc tế
Chứng từ sử dụng Hóa đơn bán hàng Hóa đơn xuất hàng, thư
tín dụng, thương phiếu
Nguồn luật điều chỉnh Nguồn luật của nước sở tại Nguồn luật của hai nước
xuất và nhập khẩu
Kỳ hạn Ngắn hạn, thường không quá
180 ngày
Ngắn, trung và dài hạn
Phạm vi trách nhiệm Có quyền truy đòi Có quyền truy đòi hoặc
không có quyền truy đòi
Trách nhiệm của đơn
vị bao thanh toán
Chịu trách nhiệm quản lý tín
dụng và chấp nhận toàn bộ rủi
ro
Đơn vị bao thanh toán
xuất khẩu chịu toàn bộ rủi
ro còn tổ chức bao thanh
toán nhập khẩu chịu trách
nhiệm giám sát khoản tín
dụng và thu nợ
Đồng tiền bao thanh
toán
Chủ yếu là đồng bản tệ Tùy thuộc vào điều kiện
xuất hàng của nhà xuất
khẩu, đồng tiền dùng trả
trước cho nhà xuất khẩu
được quy định trong các
chứng từ có liên quan
1.1.2.3.Phân loại theo phương thức bao thanh toán
- Bao thanh toán từng lần: tổ chức bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện
các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải
thu của bên bán hàng.
- Bao thanh toán theo hạn mức: tổ chức bao thanh toán và bên bán hàng thỏa
thuận và đưa ra một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời
gian nhất định.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
- Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều tổ chức tài chính bao thanh toán cùng
thực hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua bán hàng, trong đó
một tổ chức chức bao thanh toán làm đầu mối thực hiện tổ chức đồng bao
thanh toán.
1.1.2.4. Phân loại theo mức độ công khai sử dụng dịch vụ bao thanh toán
- Bao thanh toán có thông báo là hình thức bao thanh toán, trong đó người
mua được thông báo là khoản thanh toán tiền hàng được chuyển nhượng cho
đơn vị bao thanh toán.
Trong bao thanh toán có thông báo, người bán có nghĩa vụ phải cung cấp cho
đơn vị bao thanh toán biên lai giao hàng, giấy chuyển nhượng khoản tiền
hàng và 2 liên hóa đơn, trong đó nêu rõ đơn vị bao thanh toán và chỉ ra rằng
khoản tiền hàng đã được bán cho đơn vị bao thanh toán.
- Bao thanh toán không thông báo là hình thức bao thanh toán, trong đó người
mua không biết việc khoản tiền hàng mình phải thanh toán đã được chuyển
cho đơn vị bao thanh toán.
1.2.3.Quy trình thực hiện bao thanh toán
Hiện nay, bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu được
các ngân hàng áp dụng phổ biến. Cụ thể, cơ chế hoạt động của hai hình thức
này được thực hiện như sau:
* Bao thanh toán trong nước:
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 1.1: Quy trình bao thanh toán trong nước
1.Bên bán hàng và ngân hàng ký kết hợp đồng bao thanh toán.
2.Bên bán hàng và ngân hàng cùng gửi thông báo về hợp đồng bao thanh toán
cho bên mua hàng, trong đó nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho
ngân hàng.
3.Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán
cho ngân hàng.
4.Bên bán hàng giao hàng cho bên mua.
5.Ngân hàng ứng trước cho bên bán hàng.
6.Bên mua hàng thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng khi đến hạn.
7.Ngân hàng thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
* Bao thanh toán xuất nhập khẩu:
Hình 1.2: Quy trình bao thanh toán xuất nhập khẩu
1.Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với ngân hàng
thanh toán xuất khẩu.
2.Nhà xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển nhượng khoản
phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
3.Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu.
4.Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ngân
hàng thanh toán xuất khẩu..
5.Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. ứng trước cho nhà xuất khẩu.
6.Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất
khẩu. khi đến hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của
ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
7. Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. thu phần ứng trước và chuyển phần còn
lại cho nhà xuất khẩu.
Trong đó, các chi phí liên quan đến việc ký kết hợp đồng bao thanh
toán được hạch toán vào chi phí tài chính.Phí bao thanh toán trả cho ngân
hàng bao thanh toán được hạch toán vào chi phí tài chính.Chứng từ liên quan
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
đến việc bán hàng được chuyển giao cho đơn vị bao thanh toán. Số tiền người
mua thanh toán cho ngân hàng bao thanh toán khi đến hạn. Ngân hàng bao
thanh toán thanh toán phần còn lại cho doanh nghiệp. Số tiền mà ngân hàng
bao thanh toán ứng trước cho doanh nghiệp mang tính chất của một khoản
vay.Rủi ro liên quan đến việc thu hồi nợ từ người mua do ngân hàng bao
thanh toán gánh chịu.
1.1.4. Lợi ích của bao thanh toán
1.1.4.1. Đối với người bán
Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng
nhanh hơn. Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
Bao thanh toán là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành
tiền mặt. Đối với bất kỳ một người bán nào, tiền mặt là quyền lực và sức
mạnh. Không có tiền mặt, người bán không thể tồn trữ nhiều hàng hơn, cũng
không có tiền để trả lương cho công nhân viên. Bao thanh toán không phân
biệt khách hàng là ai, đó có thể là một công ty in ấn, một cửa hàng bán công
cụ máy móc, một nhà máy dệt may, một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực thương mại dịch vụ hay bất cứ một chủ thể nào của nền kinh tế. Mỗi một
đơn vị bao thanh toán, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là
một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng
thuận lợi và phát triển hơn.
Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị bao thanh toán hoàn toàn có đủ
năng lực chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết
thông thái về từng lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của
mình.
Ở một số tổ chức bao thanh toán chuyên nghiệp, người bán thậm chí có
thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị bao thanh toán. Nói một cách
ngắn gọn, các tổ chức bao thanh toán giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua
thanh toán.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực
tăng mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ
nhiều hơn.
Là một đối tác tài chính, các tổ chức bao thanh toán sẽ đem lại cho người
bán nguồn lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ
thêm nhiều hàng tồn kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm
kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ chức bao thanh toán luôn khẳng định
mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu mọi nhu cầu của họ, và thiết
lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ.
Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng càng phát triển kinh doanh
lại càng thiếu tiền. Khi đó, bao thanh toán sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp
họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một
người bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng
chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng
phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là phần lớn người bán không thể
nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này. Dù việc buôn bán có
phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận thấy rằng mình
đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm.
Các tổ chức bao thanh toán sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển
các hóa đơn chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể
tiếp tục cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro
thanh khoản nữa. Hệ quả trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được
năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán
chịu hấp dẫn người mua hơn.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Các tổ chức bao thanh toán cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh
vực tín dụng, thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người
bán nâng cao được hiệu quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được
mất mát do không thu hồi được nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu
chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã được chuyển sang cho tổ chức bao
thanh toán nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc sản xuất
hay cung ứng hàng hóa.
Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ:
- Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng
lưu chuyển tiền tệ;
- Tăng doanh số;
- Tăng tồn trữ hàng tồn kho;
- Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ;
- Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại;
- Nâng hạng tín nhiệm;
- Tìm kiếm nhiều cơ hội mới.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất.
Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn
phải mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán
sử dụng bao thanh toán, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị bao thanh
toán. Người bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ
phận chuyên trách việc xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay
không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản nợ này nữa. Với kinh
nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của
mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp
và hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Châm
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
ngôn của các tổ chức bao thanh toán lúc này là “Hãy để chúng tôi làm những
việc mà chúng tôi làm tốt nhất, còn bạn, hãy làm những việc mà bạn làm tốt
nhất ! Chúng ta hãy cùng là đối tác tốt của nhau.”
1.1.4.2. Đối với người mua
Cho tới thời điểm hiện tại, L/C vẫn là biện pháp kiểm soát thương mại
quốc tế được chấp nhận phổ biến nhất trên toàn cầu, bảo đảm rằng nhà xuất
khẩu sẽ cung cấp hàng đúng như quy định trong hợp đồng hay đơn đặt hàng
và nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Nhưng nếu
hàng đến chậm hay ghé vào nơi không định trước, không theo lệ thường thì
L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà nhập khẩu. Nói tóm lại, sử dụng bao
thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích sau đây:
- Được mua chịu hàng dễ dàng;
- Không cần phải mở L/C;
- Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho
phép;
- Có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí mở
L/C, hay phí thương lượng...
1.1.4.3. Đối với đơn vị bao thanh toán
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán cũng có
được một thuận lợi là được hưởng lợi ích kinh tế theo quy mô:
- Các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều
khách hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến
các khách hàng đó;
- Đơn vị bao thanh toán lớn nhất và nhiều kinh nghiệm nhất sẽ đứng ra
làm đơn vị cung cấp thông tin về tín dụng quy mô nhất, bổ sung vào các dịch
vụ tương tự hiện có của các trung tâm dữ liệu tín dụng thương mại tư nhân
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
và quốc doanh. Đơn vị này cũng sẽ hưởng được lợi ích kinh tế theo quy mô
nhờ trao đổi thông tin với các trung tâm trên;
- Trong trường hợp bao thanh toán chỉ là một nghiệp vụ của ngân hàng
thì ngân hàng cũng đã đa dạng hóa được danh mục dịch vụ cung ứng, đem
lại tiện ích mới cho khách hàng và nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng.
1.1.5.Rủi ro của hoạt động bao thanh toán
Tuy có rất nhiều điểm thuận lợi song hoạt động bao thanh toán cũng ẩn
chứa nhiều rủi ro đối với các bên liên quan. Rủi ro trong bao thanh toán có
thể đến từ người xuất khẩu, từ người nhập khẩu, từ các đơn vị bao thanh toán
hay các yếu tố khác.
1.1.5.1.Rủi ro từ phía người xuất khẩu
Trong nghiệp vụ bao thanh toán, nhà xuất khẩu tham gia với tư cách là
người đi vay vốn và điều kiện đảm bảo cho khoản vay là các khoản phải thu
của họ đối với nhà nhập khẩu. Theo em, rủi ro từ phía người xuất khẩu có
thể do chính nhà xuất khẩu cố tình gây ra hoặc do năng lực yếu kém của họ.
Hiện tượng rủi ro do chủ ý của người xuất khẩu xảy ra được cũng có
nhiều cách và nhiều nguyên nhân của nó. Trong một số trường hợp, nhà xuất
khẩu không trung thực trong hoạt động, thông đồng với đối tượng khác để
gây rủi ro cho ngân hàng (đơn vị bao thanh toán). Nhà xuất khẩu là người sử
dụng hóa đơn, chứng từ mua bán, họ có thể hợp lý hóa chứng từ, tạo ra hợp
đồng ma hay đội giá hợp đồng… Vì thế, khoản mà đơn vị bao thanh toán
ứng trước hay chiết khẩu cho họ sẽ nhiều hơn mức thực tế và thậm chí là ứng
trước cho một hóa đơn khống. Người xuất khẩu và người nhập khẩu có thể
móc nối với nhau tạo ra các chứng từ hợp lý và hợp lệ, tạo khống các khoản
phải thu trên giấy tờ mà thực tế là không có.
Một nguyên nhân khác nữa gây rủi ro cho đơn vị thực hiện bao thanh
toán là do năng lực yếu kém của nhà xuất khẩu. Năng lực này có thể là năng
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
lực quản lý điều hành, năng lực sản xuất,... của nhà xuất khẩu khiến cho sản
phẩm của bên xuất khẩu không đạt yêu cầu như trong hợp đồng mua bán quy
định, làm giảm giá trị các khoản phải thu theo hợp đồng mua bán đã ký và tất
nhiên là nhỏ hơn giá trị ứng trước của đơn vị bao thanh toán. Đây cũng là
điểm cơ bản ảnh hưởng đến lợi ích của tổ chức bao thanh toán. Do đó, các
khoản phải thu mà đơn vị thực hiện bao thanh toán đã mua lại là một khoản
nợ khó đòi.
1.1.5.2.Rủi ro từ nhà nhập khẩu
Trong bao thanh toán, trách nhiệm và rủi ro của việc thu nợ được chuyển
từ người xuất khẩu sang cho đơn vị thực hiện bao thanh toán. Mọi giao dịch
được thực hiện chủ yếu giữa hai bên là đơn vị bao thanh toán và nhà nhập
khẩu. Việc có thu nợ được hay không, mức độ rủi ro đến đâu có thể xuất
phát từ 2 yếu tố: năng lực tài chính của nhà nhập khẩu và đạo đức của nhà
nhập khẩu.
Năng lực tài chính của nhà nhập khẩu gắn liền với các đơn vị thực hiện
dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, vì lúc này rủi ro đã thuộc về đơn vị bao
thanh toán, bất kể là bao thanh toán có quyền truy đòi hay không có quyền
truy đòi. Thời gian bên nhập khẩu thanh toán cho đơn vị bao thanh toán đối
với bao thanh toán xuất nhập khẩu tương đối dài, các khoản nợ được gọi là
phải thu cũng chưa hẳn là dễ với bên xuất khẩu. Nếu cán cân tài chính của
bên nhập khẩu không tốt, nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu và tài sản tương
đối cao trong khi các khoản phải thu của chính bên nhập khẩu lại khó đòi
hoặc nhỏ hơn nhiều so với các khoản phải thu của đơn vị này. Giả sử khi đó
các khoản phải trả của nhà nhập khẩu vẫn phải thực hiện nhưng các khoản
phải thu trở nên khó đòi sẽ dẫn bên nhập khẩu mất cân đối thanh toán, gây
khó khăn cho tổ chức thực hiện bao thanh toán. Lúc đó đơn vị bao thanh toán
sẽ phải đối mặt với một loạt vấn đề và phát sinh chi phí, thậm chí cả việc
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
khiếu kiện…gây tốn kém thời gian và tiền của, có thể bỏ lỡ cả cơ hội hoạt
động kinh doanh.
Một rủi ro khác đến từ đạo đức của nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu là
một bên thứ ba và cách xa nước xuất khẩu về mặt địa lý khiến cho việc tiếp
cận với nhà nhập khẩu của đơn vị bao thanh toán không được thuận tiện và
gặp nhiều hạn chế. Tổn thất cho đơn vị bao thanh toán xảy ra khi bên nhập
khẩu cố tình lừa đảo, chiếm đoạt hàng mua, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Rủi
ro về đạo đức là một rủi ro khó lường và thường để lại hậu quả lớn đối với
bên xuất khẩu nói chung và đơn vị bao thanh toán nói riêng.
1.1.5.3.Rủi ro từ tổ chức thực hiện bao thanh toán
Rủi ro này thường xảy ra do khả năng thẩm định của đơn vị bao thanh
toán còn chưa chuẩn xác. Trên khía cạnh là đơn vị thực hiện bao thanh toán
xuất khẩu đòi hỏi đơn vị bao thanh toán phải thực sự hiểu và giám sát tốt các
khoản phải thu của khách hàng. Từ đó đơn vị bao thanh toán mới có thể thực
hiện tốt vai trò bao thanh toán của mình đối với bên xuất khẩu và bên nhập
khẩu. Tuy nhiên, việc đánh giá khách hàng nhập khẩu cũng là cả một quá
trình. Nếu công tác thẩm định không được thực hiện tốt và khách quan thì rủi
ro xảy đến là điều tất nhiên. Chất lượng của công tác thẩm định có thể do
trình độ của cán bộ thẩm định còn yếu kém, do thông tin khách hàng cung
cấp có sai lệch và cũng có thể do ý thức, trách nhiệm của cán bộ thẩm định.
1.1.5.4.Rủi ro khác
Một số rủi ro khác như thiên tai, hỏa hoạn, rủi ro về chính sách, tỷ giá,
rủi ro về chính trị, về kinh tế vĩ mô tại nước nhập khẩu gây khó khăn cho nhà
nhập khẩu trong việc nhập hàng…
Bao thanh toán xuất nhập khẩu đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho các
bên nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để thực hiện bao thanh toán có hiệu
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
quả cao mà vẫn đạt được mục tiêu an toàn đòi hỏi phải có những điều kiện
nhất định từ phía đơn vị bao thanh toán cũng như các yếu tố bên ngoài khác.
1.2.Điều kiện để ngân hàng thương mại thực hiện bao thanh toán
xuất khẩu
Trên lý thuyết, bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản nhưng giống
như mọi dịch vụ và sản phẩm khác, điều kiện để triển khai nó vào thực tế
cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Dưới đây, em xin xem xét các điều kiện
bên trong và điều kiện bên ngoài cần thiết để một tổ chức tài chính thực hiện
cung cấp dịch vụ bao thanh toán.
1.2.1. Điều kiện bên trong
Thứ nhất, tình hình hoạt động kết quả kinh doanh của đơn vị bao thanh
toán đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định phát triển dịch vụ bao
thanh toán. Đơn vị bao thanh toán phải có tình hình tài chính lành mạnh và
vững chắc nhằm đảm bảo cho khả năng cung cấp dịch vụ bao thanh toán vì
kỳ hạn bao thanh toán cũng khá dài. Hơn nữa, để có được sự chấp thuận hoạt
động bao thanh toán của ngân hàng Nhà nước, đơn vị bao thanh toán cũng
cần có các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Kết
quả kinh doanh của đơn vị bao thanh toán cũng ảnh hưởng đến danh tiếng và
mức độ tin cậy của khách hàng đối với đơn vị. Từ đó ảnh hưởng đến doanh
số của chính đơn vị.
Thứ hai, có một nến tàng tài chính tốt chưa đủ nếu thiếu yếu tố con
người. Đó là đội ngũ cán bộ của đơn vị bao thanh toán – những người trực
tiếp thực hiện từng bước trong quy trình thực hiện bao thanh toán. Để có thể
quản lý tốt và kinh doanh có hiệu quả, đơn vị bao thanh toán cần những nhân
viên có trình độ chuyên môn, nắm chắc các bước thực hiện bao thanh toán
cũng như mục đích của từng công đoạn. Trong bao thanh toán, đơn vị bao
thanh toán sẽ quản lý sổ sách kế toán cho doanh nghiệp nên cần những cá
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
nhân vững vàng trong nghiệp vụ và có khả năng làm việc độc lập. Hơn nữa,
do tính chất của nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu liên quan đến các đối
tượng có quốc tịch khác nhau, ở những nước khác nhau nên trong hoạt động
cần phải tuân thủ những thông lệ, tập quán quốc tế và luật pháp quốc gia đó.
Điều này yêu cầu cán bộ của đơn vị bao thanh toán phải thành thạo ngôn ngữ
nghiệp vụ, có sự am hiểu sâu sắc không chỉ về nghiệp vụ bao thanh toán mà
còn những nghiệp vụ liên quan khác. Đội ngũ cán bộ này sẽ góp phần thực
hiện tốt nghiệp vụ và tránh được những rủi ro trong nghiệp vụ này.
Thứ ba là quan hệ của đơn vị bao thanh toán với các tổ chức ngân hàng
thương mại khác. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến việc liên kết tổ chức bao
thanh toán cũng như thanh toán các khoản phải thu, phải chi. Mối quan hệ
của đơn vị bao thanh toán đặc biệt quan trọng khi thực hiện bao thanh toán
xuất nhập khẩu. Trong bao thanh toán xuất khẩu, các nhà nhập khẩu ở những
quốc gia khác nhau gây khó khăn cho đơn vị bao thanh toán thực hiện thẩm
định một cách chính xác năng lực của nhà nhập khẩu. Vì thế sự hỗ trợ của hệ
thống ngân hàng đại lý với tư cách là tổ chức bao thanh toán tại nước nhập
khẩu là vô cùng cần thiết.
Thứ tư, đơn vị bao thanh toán phải có cơ sở hạ tầng tốt đảm bảo thực
hiện dịch vụ bao thanh toán. Như ta đã biết, tất cả các ngân hàng trên thế
giới đều nối mạng SWIFT để thực hiện các giao dịch liên ngân hàng với
nhau và bao thanh toán cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề công nghệ thông
tin ứng dụng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng hiện nay đã trở thành một
trong những yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của một tổ chức tài chính này
với tổ chức tài chính khác. Đơn vị bao thanh toán cần có hệ thống kĩ thuật và
công nghệ hiện đại đảm bảo hoạt động thông suốt với hệ thống ngân hàng
thế giới và đảm bảo được an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2. Điều kiện bên ngoài
Bên cạnh những điều kiện bên trong trên, để có thể thực hiện được hiệu
quả hoạt động bao thanh toán xuất khẩu còn cần thiết phải có những điều kiện
bên ngoài khác như hành lang pháp lý về bao thanh toán, trình độ nhận thức
của khách hàng sử dụng dịch vụ, chính sách ngoại giao của nhà nước.
Điều kiện bên ngoài lớn nhất để thực hiện dịch vụ bao thanh toán là nó phải
được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch và đầy đủ về bao thanh
toán của chính phủ. Để triển khai hiệu quả hoạt động bao thanh toán không
chỉ cần một quyết định ban hành quy chế hoạt động mà còn cần nhiều luật
khác liên quan như Luật thương phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp
thương mại, các quy định về bảo hiểm tín dụng và bù đắp rủi ro tín dụng, môi
trường thông tin kinh tế phải minh bạch hóa. Hoạt động bao thanh toán cũng
đòi hỏi các quy định áp dụng với nó phải hợp lý để không gây trói buộc cho
việc thực hiện hoạt động. Một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ sẽ tạo cơ
hội cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính mạnh dạn phát triển
dịch vụ này.
Điều kiện thứ hai không kém phần quan trọng đến từ phía doanh
nghiệp – các khách hàng sử dụng dịch vụ bao thanh toán. Họ cần phải có một
sự hiểu biết nhất định về thương mại quốc tế, về các hình thức tài trợ dành
cho họ. Tâm lý dè dặt trước sản phẩm mới của doanh nghiệp góp phần làm
thui chột đi sự năng động, sáng tạo và tìm kiếm sản phẩm dịch vụ mới của
ngân hàng. Các doanh nghiệp vẫn quen sử dụng các phương thức thanh toán
truyền thống như chuyển tiền T/T, đặc biệt là L/C cần phải nhận biết được
những lợi ích mà bao thanh toán có thể đem lại về lâu dài qua các dịch vụ
phong phú, đa dạng của nó. Mặt khác, doanh nghiệp cần công khai tình hình
hoạt động kinh doanh của mình tạo điều kiện cho đơn vị bao thanh toán có thể
dễ dàng tiếp xúc với họ và đạt hiệu quả hơn trong quá trình thẩm định.
Thứ ba, chính sách ngoại giao của nhà nước đóng một vai trò then chốt
trong việc mở rộng quan hệ đại lý của đơn vị bao thanh toán trên bình diện
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
quốc tế và trong việc củng cố, đảm bảo mối quan hệ đó được thuận lợi, không
bị gián đoạn bởi chiến tranh hay cấm vận. Vấn đề này ảnh hưởng đến hoạt
động bao thanh toán trong việc cung ứng dịch vụ hay thu nợ từ phía nhà nhập
khẩu.
1.3.Hoạt động bao thanh toán xuất khẩu tại Việt Nam thời gian qua
Nghiệp vụ Factoring hay còn gọi là nghiệp vụ bao thanh toán hiện
nay tuy còn khá mới mẻ đối với nhiều tổ chức và doanh nghiệp, nhưng cũng
không còn xa lạ với hệ thống ngân hàng thương mại VN. Sau một số bài báo
giới thiệu về nghiệp vụ bao thanh toán như bài viết của ông Nguyễn Mạnh
Dũng – Vụ các ngân hàng đăng trên Thị trường tài chính tiền tệ số tháng
7.1999, rồi bài viết của TS. Nguyễn Văn Hà đăng trên tạp chí Phát triển kinh
tế tháng 8.2004 thì đến tháng 9.2004 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN đã
ký ban hành quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN về quy chế hoạt động bao
thanh toán của các tổ chức tín dụng. Quyết định này đã mở ra một hành lang
pháp lý được coi là thông thoáng và thuận lợi cho sự phát triển loại hình dịch
vụ mang lại nhiều tiện ích này. Hiện nay VN được đánh giá là thị trường tiềm
năng và là một mảnh đất màu mỡ để phát triển dịch vụ, bởi vì đó là nhu cầu
cấp thiết từ phía khách hàng – chính là đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang hoạt động, cũng như nhu cầu từ phía nhà cung cấp – các tập đoàn tài
chính ngân hàng như City Group, HSBC Holdings Plc, DBS Group Holdings
Limited và các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần của
VN. Chính vì thế mà ở thời điểm cuối năm 2004, đầu năm 2005 diễn ra rất
nhiều các cuộc hội thảo, báo cáo và quảng bá về dịch vụ này, như hội thảo về
Bao thanh toán do ngân hàng FENB của Mỹ tổ chức vào tháng 9.2004 nhằm
giới thiệu và vận động sự tham gia cung cấp dịch vụ của một số ngân hàng
thương mại cổ phần (Ngân hàng Phương Đông, Ngân hàng Á Châu, Ngân
hàng Kỹ thương…), Hội thảo bao thanh toán tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh ngày 7.3.2005 với sự tham dự của đại diện các ngân hàng thương mại
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
tại VN và đại diện của Hiệp hội bao thanh toán thế giới, ông Jeroen
Kohnstamm.
Đến cuối năm 2006 ở Việt Nam đã có 9 tổ chức tín dụng đăng ký và triển
khai việc cung cấp dịch vụ bao thanh toán, trong đó có 3 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tham gia bao gồm ngân hàng Deutsche Bank của Đức, ngân hàng
Far East National Bank (FENB) của Mỹ, Ngân hàng Nhật UFJ Bank Limited,
và có 6 ngân hàng trong nước gồm có Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB),
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN
(TCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng
TMCP Hàng hải (MSB), Công ty tài chính dầu khí (PVFC).
Hiện nay mới có khoảng 15% trong tổng số hơn 100 tổ chức tài chính
và ngân hàng thương mại ở Việt Nam thực hiện dịch vụ bao thanh toán. Một
số ngân hàng thương mại đi đầu trong phát triển dịch vụ này có Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam Vietcombank, ngân hàng Eximbank, ngân hàng cổ
phần nhà Hà Nội Habubank, ngân hàng Á Châu ACB, ngân hàng Kỹ thương
Việt Nam Techcombank, ngân hàng Đông Á,…và gần đây nhất là ngân hàng
Hàng hải Maritime cũng đã gia nhập vào đội ngũ các tổ chức tài chính cung
ứng dịch vụ bao thanh toán cho khách hàng.
Tuy nhiên trong số đó chỉ có một số tổ chức tín dụng trong nước tham
gia vào mạng lưới bao thanh toán quốc tế, đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân
hàng Sài Gòn Thương tín, Ngân hàng Kỹ thương VN, Ngân hàng Phương
Đông thực hiện sản phẩm này với tư cách là đại lý cho Ngân hàng Far East
National Bank – Sino Pac.
Gia nhập WTO hơn 1 năm, nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến sự phát
triển mạnh mẽ của ngành Tài chính Ngân hàng Việt Nam trong quá trình mở
cửa, hội nhập với khu vực và thế giới. Chính vì thế, đa dạng hóa và phát triển
sản phẩm mới là một trong những chiến lược để tồn tại và phát triển của bất
cứ ngân hàng nào.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2:
KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI
NHNo&PTNT TÂY HÀ NỘI
2.1.Khái quát tình hình hoạt động của NHNo&PTNT Tây Hà Nội
2.1.1.Sự hình thành và phát triển NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam được thành lập với tên gọi ban đầu là Ngân hàng Phát triển Nông
nghiệp. Ngân hàng Nông nghiệp là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động
chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán
kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp
luật . Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được hình
thành trên cơ sở tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân
hàng Nhà nước huyện, Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân hàng Phát triển Nông
nghiệp TW được hình thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp
Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp,
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay
đang theo đuổi định hướng phát triển trở thành ngân hàng thương mại hàng
đầu Việt Nam tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế,
đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp
tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của
các nước, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế đảm bảo hoạt động đạt hiệu
quả cao, ổn định và phát triển bền vững.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
NHNo & PTNT Tây Hà Nội được thành lập theo quyết định số
126/QĐ/HĐQT/TCCB (quyết định của chủ tịch hội đồng quản trị
NHNo&PTNT Việt Nam). Theo đó quyết định:
Tên gọi: Chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Tây Hà Nội.
Trụ sở giao dịch: 115, phố Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Hà
Nội.
Chi nhánh Tây Hà Nội được thành lập chính thức ngày 21/7/2003 và là
chi nhánh cấp I của NHNo&PTNT Việt Nam.
SV: Nguyễn Thị Ngọc Mai Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A