Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.51 KB, 129 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế
giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tài chính của nước ta, thị trường ngân hàng
cũng đã có nhiều khởi sắc, đánh dấu bước phát triển mới cả về chất lẫn về lượng của hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc thù của một lĩnh vực kinh doanh đầy nhạy
cảm, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả trực tiếp và gián tiếp, rủi ro ngân hàng lớn là
yếu tố không thể tránh khỏi và có khả năng trở thành nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự phát triển bền vững của các ngân hàng nói riêng, thị trường tài chính và nền
kinh tế nói chung.
Trong các hoạt động của ngân hàng, có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động cơ
bản và quan trọng vào bậc nhất, mang lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương
mại. Thông qua hoạt động cho vay của mình, các ngân hàng đã góp phần cung ứng vốn
cho các doanh nghiệp, giúp hệ tuần hoàn của nền kinh tế hoạt động một cách nhuần
nhuyễn và hiệu quả… Mặc dù vậy, cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng
thì lĩnh vực tín dụng cũng mang trong mình rủi ro rất lớn bởi các quy luật kinh tế đã
chứng minh rằng, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Rủi ro tín dụng không chỉ khiến
các ngân hàng phải gia tăng chi phí, chậm thu lãi, thậm chí là thất thoát vốn vay, làm xấu
đi tình hình tài chính, làm tổn hại đến uy tín và vị thế, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại
và phát triển của chính họ, mà nó còn tác động ảnh hưởng lớn đến cả hệ thống ngân hàng
và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, đây lại là rủi ro tất yếu trong hoạt động tín dụng, chúng
ta không thể loại bỏ hoàn toàn mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp để phòng ngừa hoặc
giảm thiểu thiệt hại tối đa khi rủi ro tín dụng xảy ra.

1


Thực tiễn hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua cũng
cho thấy rủi ro tín dụng của toàn hệ thống chưa thực sự được kiểm soát một cách hiệu quả
và đang có xu hướng ngày một gia tăng. Đặc biệt, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng càng trở


thành yêu cầu cấp bách khi nền kinh tế thế giới hiện vẫn đang ra sức chống đỡ nhằm giảm
thiểu sự tàn phá và thoát khỏi cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu mà nguyên nhân
sâu xa của nó bắt nguồn từ sự sụp đổ tài chính phố Wall với chính sách tín dụng dưới
chuẩn, hay còn gọi là tín dụng thế chấp bất động sản rủi ro cao. Chính vì vậy, rủi ro tín
dụng càng cần thiết phải có được quan tâm quản lý, kiểm soát một cách bài bản và có
hiệu quả, đảm bảo tín dụng hoạt động trong phạm vi rủi ro chấp nhận được, hỗ trợ việc
phân bổ vốn hiệu quả hơn trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu các thiệt hại phát sinh từ
rủi ro tín dụng và tăng thêm lợi nhuận kinh doanh, góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi
thế cạnh tranh của ngân hàng và đặc biệt là đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền
vững, ổn định tính hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”.
2. Mục tiêu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:
• Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản trị rủi ro tín dụng
của hệ thống ngân hàng thương mại, đồng thời đưa ra một số bài học cho các ngân
hàng Việt Nam qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu năm 2008-2009.
• Phân tích tình hình rủi ro tín dụng và hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đưa ra những hiệu quả đạt được và hạn chế
của công tác này đối với các ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
• Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản trị rủi ro tín dụng
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
• Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam
• Phạm vi nghiên cứu: Các ngân hàng thương mại Việt Nam (không bao gồm các
ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài) trong giai đoạn từ năm
2005 – 2009.
2



4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp thống kê, so
sánh, phân tích các dữ liệu thứ cấp… nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra
trong khóa luận.
5. Cấu trúc nội dung nghiên cứu:
Kết cấu khóa luận gồm 3 chương:
• Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương này, tác giả nêu khái quát về hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương
mại, bao gồm các khái niệm, vai trò, nguyên tắc của tín dụng, các vấn đề liên quan đến rủi
ro như khái niệm, phân loại, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng, những chỉ tiêu
phản ánh rủi ro tín dụng và nội dung, nhiệm vụ của quản trị rủi ro tín dụng. Đồng thời, tác
giả trình bày những mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng đang được áp dụng trên thế giới
hiện nay cùng với những nguyên tắc Basel trong việc đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng tại các ngân hàng.
• Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chương này, tác giả trình bày thực trạng hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Thông qua đó, nêu lên những thành tựu và
hạn chế cần khắc phục đối với các ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
• Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Qua những nghiên cứu về tầm quan trọng và thực trạng công tác quản trị rủi ro, tác
giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này tại hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam, bao gồm cả giải pháp về phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước và về phía các ngân hàng thương mại.

3



CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm và phân loại
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Danh từ “tín dụng” xuất phát từ một từ gốc latinh “Creditumco” – nghĩa là một sự
tín nhiệm, tin tưởng lẫn nhau. Còn trong đời sống, người ta hiểu tín dụng là quan hệ vay
mượn lẫn nhau tên cơ sở hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Còn tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, một bên là
chủ thể khác trong nền kinh tế như tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân....Tuy nhiên, khác với
các hình thức tín dụng khác, đây không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi
tạm thời thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn, mà thông qua một tổ chức trung gian là
ngân hàng. Tuy nhiên, nó vẫn mang bản chất chung của quan hệ tín dụng là quan hệ vay
mượn hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Do có nhiều ưu điểm so với cái hình thức khác như: khối lượng vốn lớn do huy
động tiền nhàn rỗi từ nhiều thành phần trong nền kinh tế, với thời hạn vay phong phú bao
gồm cả ngắn hạn – trung hạn – dài hạn, chủ yếu dưới hình thức tiền mặt nên TDNH có
thể đem lại mức độ thỏa mãn cao nhất cho mọi đối tượng đi vay.
Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng hiện đại, TDNH ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế các quốc gia nói riêng
và nền kinh tế toàn cầu nói chung.
1.1.1.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại TDNH.
1.1.1.2.1 Theo thời gian sử dụng vốn vay:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng
vào nghiệp vụ thanh toán, bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh
nghiệp hoặc cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân.
4



 Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm, thường là đáp ứng nhu cầu vay
mua sắm tài sản cố định, đổi mới cải tiến kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình
nhỏ, có thời gian thu hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng
cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.1.1.2.2 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: được cấp cho các tổ chức, doanh nghiệp để
họ tiến hành sản xuất, kinh doanh.
 Tín dụng tiêu dùng: được cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng
như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình…Tín dụng tiêu dùng đang có xu hướng
tăng lên mạnh mẽ.
1.1.1.2.3 Căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản tiền vay:
 Tín dụng có đảm bảo: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay đều có tài sản tương
đương để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng, có các hình thức như cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh…
 Tín dụng không có đảm bảo hay còn gọi là tín chấp. Đây là loại hình tín dụng mà các
khoản vay không cần tài sản tương đương đảm bảo mà chủ yếu dựa vào uy tín của khách
hàng. Nó thường được áp dụng với các khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với
ngân hàng, có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với ngân hàng như trả nợ
đúng hạn cả gốc và lãi, có dự án kinh doanh khả thi, có khả năng trả nợ…
Việc phân loại TDNH chỉ có ý nghĩa tương đối, chủ yếu nhằm giúp cho việc
nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để đánh
giá hiệu quả kinh tế của chúng.
1.1.2 Vai trò hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế

5



Thông qua các phương thức huy động khác nhau, các ngân hàng tập trung các
khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình
lớn có hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời các doanh nghiệp cũng được tiếp cận với nguồn
vốn lớn để mở rộng sản xuất, rút ngắn được quá trình tích lũy vốn. Như vậy, TDNH đã
đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh.
1.1.2.2 Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất, mở rộng đầu tư - phát triển
Thông qua TDNH, các doanh nghiệp nhận được nguồn vốn bổ sung rất lớn từ đó
tăng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. TDNH giúp các doanh nghiệp
đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối quan hệ hữu cơ giữa
sản xuất lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội.
1.1.2.3 Tổ chức điều hòa, lưu thông tiền tệ, chuyển dịch kinh tế, phát triển cân đối các
ngành trong nền kinh tế quốc dân
Thông qua tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm xã
hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, giúp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, giúp cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và vốn tăng lên, tạo sự
phát triển đồng đều giữa các ngành.
TDNH giúp điều hòa nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất quy định,
giúp cho chính sách tiền tệ của chính phủ được thực hiện, điều hòa lưu thông, góp phần
ổn định và thúc đẩy phát triển thị trường tiền tệ.
Hơn nữa, thông qua TDNH, chính phủ thực hiện được những chính sách ưu tiên hỗ
trợ phát triển các vùng miền, hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào các ưu đãi tín
dụng…nhờ vậy đã kích thích được các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành trọng
điểm ưu tiên của chính phủ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự phát triển cân
đối trên cả nước.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Rủi ro tín dụng.
6



1.2.1.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Theo quy định trong Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Vậy có thể nói “rủi ro tín dụng” (RRTD) là những rủi ro do khách hàng vay không
thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng tín dụng đã được kí kết giữa hai bên,
biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi
hết thời hạn vay các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn
trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.1.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh thì RRTD được chia thành rủi ro giao dịch và
rủi ro danh mục.
1.2.1.2.1 Rủi ro giao dịch
Là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch
và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm 3 bộ phận chính:
 Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi
ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
 Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp
đồng tín dụng, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho
vay trên giá trị của tài sản đảm bảo…
 Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro có liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động
cho vay, bao gồm cả việc xếp hạng khoản vay và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
1.2.1.2.2 Rủi ro danh mục
Là hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong hoạt
động quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm:
 Rủi ro nội tại: xuát phát từ các đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn đặc thù bên
trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
7



 Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành,
lĩnh vực kinh tế, hay một vùng địa lý nhất định, hoặc một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.1.3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng
RRTD mang tính tất yếu. Nó luôn luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng.
Chấp nhận rủi ro là đương nhiên trong hoạt động ngân hàng. Các NHTM cần phải đánh
giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi nhuận nhằm tìm ra cơ hội đạt
được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro mà mình phải chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt
động và phát triển tốt nếu như mức rủi ro là hợp lý, kiểm soát được và nằm trong phạm vi
khả năng nguồn tài chính và năng lực tín dụng của mình.
RRTD mang tính gián tiếp. Nó xảy ra sau khi NHTM giải ngân vốn vay và trong
quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Do tình trạng thông tin bất cân xứng nên
NHTM thường ở vào thế bị động. NHTM thường biết thông tin sau hoặc thông tin không
chính xác về những khó khăn thất bại của khách hàng và do đó thường có những ứng phó
không kịp thời.
RRTD mang tính đa dạng và phức tạp. Đặc điểm này thể hiện ở sự đa dạng và phức
tạp trong nguyên nhân gây ra RRTD cũng như diễn biến việc, hậu quả khi nó xảy ra.
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro tín dụng tại các ngân hàng
1.2.2.1 Nhóm nguyên nhân đến từ bản thân ngân hàng
 Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường đi liền với RRTD tăng lên, do
việc lựa chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát, quản lý của cán bộ tín dụng
đối với việc sử dụng khoản vay giảm đi, đồng thời làm cho quy trình tín dụng không
được tuân thủ một cách chặt chẽ.
 Trình độ phân tích, thẩm định, đánh giá khách hàng và các dự án vay vốn của các cán
bộ còn hạn chế, đặc biệt là cán bộ trực tiếp nhận hồ sơ khách hàng khiến cho RRTD tăng
khi chấp thuận giải ngân những dự án không khả thi hay thậm chí bị khách hàng lừa gạt.

8



 Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đếu làm gia tăng
RRTD. Việc đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố hiện cũng đang là vấn đề nổi cộm trong
quy chế cho vay của các NHTM hiện nay.
 Một số ngân hàng áp dụng viêc giải quyết cho vay kiểu “trực tuyến cá nhân” từ cán
bộ tín dụng lên trưởng phòng tín dụng lên giám đốc. Thực tế, áp dụng kiểu cho vay này
thì quyền lực tập trung vào giám đốc, còn trách nhiệm của các cá nhân bên dưới thường
không rõ ràng, dẫn đến tinh thần thiếu trách nhiệm, RRTD cao.
 Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM khiến
cho việc thẩm định hồ sơ khách hàng trở nên sơ sài, qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều
NHTM quá chú trọng đến lợi nhuận mà sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao, chấp thuận cho
vay những khoản không lành mạnh, thiếu khả thi.
 Rủi ro do cán bộ nhân viên ngân hàng thoái hóa, thiếu đạo đức. Các cán bộ này
không phải có trình độ năng lực yếu kém mà là vì tư lợi cá nhân, cấu kết với khách
hàng dẫn đến những tiêu cực, khiến cho rủi ro với các khoản vay này là rất cao.
 Ngoài ra còn rất nhiều nhân tố khác như chất lượng thông tin và xử lý thông tin, cơ
cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ…
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân đến từ phía khách hàng của ngân hàng
1.2.2.2.1 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
Lợi dụng nhiều điểm sơ hở của ngân hàng trong quá trình thẩm định hồ sơ vay
vốn, nhiều doanh nghiệp đã lập những bộ hồ sơ giả, phương án kinh doanh giả để được
vay vốn, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng khác nhau với cùng một bộ hồ sơ.
Nhiều doanh nghiệp lập dự án kinh doanh để vay vốn như khi được giải ngân lại sử
dụng với mục đích khác, đầu tư những dự án thiếu an toàn hơn, thậm chí là dùng để trả nợ
các khoản vay đến hạn hay có lãi suất cao hơn. Điều này làm cho nguồn trả nợ của doanh
nghiệp là bấp bênh, thậm chí là mất khả năng thanh toán.
Hơn thế, có nhiều doanh nghiệp đến hạn thanh toán lại cố tình trốn tránh nghĩa vụ,
gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong quá trình thu nợ, khiến cho ngân hàng không
chỉ tốn kém nhiều chi phí mà còn có khả năng mất hưởng lãi và thất thoát vốn.
1.2.2.2.2 Khả năng quản lý kinh doanh kém

9


Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần
là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung
cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn
mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự
phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
1.2.2.2.3 Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
Các ngân hàng phải hết sức chú ý đến nhưng doanh nghiệp có quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao. Ngoài ra cũng phải cân nhắc xem xét các
sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng, vì nhiều khi chúng chỉ
mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài
chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính
thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần
tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để ngăn ngừa và hạn chế hậu quả của RRTD.
1.2.2.3 Những nguyên nhân khách quan
1.2.2.3.1 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
Rủi ro này xuất phát từ sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị
trường thế giới, cùng với những rủi ro tất yếu từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến
khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành.
1.2.2.3.2 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Việc triển khai luật và các văn bản đã có vào hoạt động ngân hàng chậm chạp và
còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập

10


Ảnh hưởng rõ nét nhất đến hoạt động tín dụng là một số văn bản về việc cưỡng chế

thu hồi nợ đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có
quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Nhưng trên thực tế, các NHTM không làm được điều
này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không
có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý
hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng vốn rất
phức tạp và rườm rà về thủ tục… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước
Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã
phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm, ngoài ra khả năng
kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Mô hình tổ chức của thanh
tra ngân hàng còn tồn tại nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM
không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu
quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.
1.2.3 Hậu quả của rủi ro tín dụng ngân hàng
Khi RRTD xảy ra sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể. Đầu tiên là bản thân
các ngân hàng và khách hàng đi vay, sau đó là tác động đến cả nền kinh tế.
1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn của các
NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn
vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi nhuận không đủ thì ngân hàng còn
phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng
đến quy mô hoạt động của các NHTM.

11


Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính của
ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến làm giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng, nghiêm
trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản và đe

dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với khách hàng
Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho ngân hàng thì
họ gần như không có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là cả những
nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi uy tín.
Cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn chế hơn khi
RRTD buộc các NHTM hoặc thắt cho vay hay thậm chí phải thu hẹp quy mô hoạt động.
Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản tiền gửi
và lãi nếu như các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và
cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó, RRTD
có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Ở mức độ thấp, RRTD khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả năng tăng
trưởng của nền kinh tế.
Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá
sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây nên
khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và sự
phát triển của đất nước.
1.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
1.2.4.1 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản - Capital Adequacy
Ratio – CAR)
12


Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu =
Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ của ngân hàng và các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ. Còn tổng tài sản có là tổng các loại tài sản có của ngân hàng đã được điều chỉnh theo
mức độ rủi ro của từng loại sản phẩm, bao gồm cả các cam kết ngoại bảng.

Về cơ bản, một ngân hàng có thể duy trì một tỷ lệ an toàn vốn bằng 2 cách: tăng
quy mô vốn tự có khi rủi ro dự đoán gia tăng hoặc đầu tư vào những tài sản có mức độ rủi
ro thấp hơn.
1.2.4.2 Nợ có vấn đề (phản ánh rủi ro tiềm năng)
Nợ có vấn đề xuất hiện khi khoản nợ chưa đến hạn nhưng có nhiều nguyên nhân
ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Dấu hiệu nhận biết nợ có vấn đề:
 Hoạt động kinh doanh có chiều hướng xấu: ngành kinh doanh đang gặp khó
khăn hay chính sách của nhà nước tác động đến các doanh nghiệp trong ngành.
 Sự thay đổi trong cơ cấu quản lý kinh doanh: thu hẹp quy mô sản xuất, chủng
loại sản phẩm hoặc số lượng nhân công…
 Người vay cố tình trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính hoặc việc sắp xếp cán bộ
tín dụng đến thăm cơ sở sản xuất kinh doanh.
 Vốn vay không được sử dụng đúng mục đích.
 Dùng vốn vay ngân hàng để trả nợ ngân hàng khác.
1.2.4.3 Nợ quá hạn và Hệ số nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn
thanh toán ghi trên hợp đồng tín dụng nhưng khách hàng vẫn chưa hoàn trả cho ngân hàng.

Hệ số nợ quá hạn =

13


Chỉ tiêu này phản ánh, trong 100 đồng ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đồng đã
đến hạn thanh toán mà chưa thu hồi lại được. Tỷ lệ này càng cao thì mức độ RRTD của
ngân hàng càng cao.
1.2.4.4 Nợ xấu và tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ
Nợ xấu (theo quy định về phân loại nợ của các TCTD trong Quyết định số
493/2005/QĐ–NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày

25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) là các khoản nợ thuộc 1 trong 3 nhóm sau:


Nợ dưới tiêu chuẩn là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có
khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ

-

gốc và lãi, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ


-

cấu lại;
Nợ nghi ngờ là các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng tổn thất cao, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời



hạn đã cơ cấu lại;
Nợ có khả năng mất vốn là các khoản nợ được TCTD đánh giá là không còn khả

-

năng thu hồi và mất vốn, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý;

Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn
đã cơ cấu lại.

Tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ =
Chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
1.2.4.5 Tình hình tài chính và phương án vay vốn của người đi vay
Tình hình tài chính có lành mạnh, phương án vay vốn có khả thi thì mới có thể
đảm bảo cho khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng
14


1.3

QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM

1.3.1 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng
Công tác QTRRTD ngày càng khẳng định vai trò quan trọng khi mà mức độ RRTD
cũng như mức độ nguy hiểm của nó đối với các NHTM ngày càng gia tăng.
RRTD luôn gây tổn thất cho các NHTM. Ở mức độ thấp, RRTD làm giảm lợi
nhuận, thậm chí còn làm giảm nguồn vốn tự có của các ngân hàng. Còn nếu RRTD không
được kiểm soát tốt làm cho tỷ lệ các khoản cho vay mất vốn tăng lên quá cao, các NHTM
sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Theo nghiên cứu của Corsetti (1998), một trong
những nguyên nhân quan trọng nhất gây nên cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 là
tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM tăng cao. Ngay trước khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn tại
các NHTM Thái Lan là 13%, Indonesia là 13%, Phillipines là 14%, Malaysia là 10%.
Chưa hết, RRTD lại một lần nữa gây nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn
cầu năm 2007 – 2009, với điểm xuất phát là sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ. Theo
công bố của cục dự trữ liên bang Mỹ, trong năm 2008 có tổng cộng 26 ngân hàng phá sản,
thế nhưng năm 2009, con số này đã lên tới 140 với hàng loạt vụ phá sản của các định chế
tài chính có lịch sử lâu đời và tiềm lực tài chính bậc nhất thế giới. Còn theo phân tích về

triển vọng nền kinh tế Mỹ, các chuyên gia dự báo trong năm 2010, số lượng ngân hàng
Mỹ phá sản thậm chí có thể tăng cao hơn nữa. [35]

15


Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, trong thời gian gần đây số lượng khủng
hoảng trung bình mỗi năm ngày càng tăng với hậu quả ngày càng nặng nề hơn. Điều này
chứng tỏ xu hướng kinh doanh ngân hàng đang ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
Nguyên nhân của thực tế này là do xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và đề cao cạnh
tranh ngày càng trở nên phổ biến. Xu hướng này đã chứng tỏ hiệu quả nhất định của nó
trong việc thúc đẩy nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp phát triển và hoàn thiện,
nhưng ở một khía cạnh khác, nó lại thể hiện mức độ rủi ro tăng lên, khi mà các ngân hàng
phải cạnh tranh gay gắt với nhau làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống,
họ buộc phải mở rộng quy mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm về lợi nhuận, đồng thời
điều này cũng làm giảm khả năng bù đắp rủi ro nội tại của chính họ. Mặt khác, hội nhập
kinh tế còn làm xuất hiện nhiều nguy cơ rủi ro mới. Các sản phẩm dựa trên sự phát triển
của khoa học công nghệ như thẻ tín dụng, tín dụng cá nhân, tín dụng tiêu dùng…luôn
chứa đựng những rủi ro mới.
Như vậy có thể nhận thấy RRTD ngày càng đe dọa sự tồn tại và phát triển của các
NHTM. Riêng đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình
chuyển đổi, môi trường kinh doanh không ổn định, thị trường tài chính kém phát triển,
mức độ minh bạch thông tin thấp… làm gia tăng mức độ rủi ro đối với hoạt động ngân
hàng thì nhu cầu phải QTRR một cách hiệu quả càng trở nên cấp thiết.
1.3.2

Nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín dụng

 Tổ chức nghiên cứu, dự báo rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào,
nguyên nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả ra sao…

 Hoạch định phương hướng tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học, nhằm chỉ ra
những mục tiêu cụ thể cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp
nhận được…
 Tham gia xây dựng các chương trình nghiệp vu, cơ cấu kiểm soát - phòng chống
rủi ro; phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên; lựa chọn các công cụ,
kỹ thuật phòng chống rủi ro; xử lý rủi ro và giải quyết hậu quả mà rủi ro gây ra
một cách nghiêm túc.
16


 Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng chống rủi ro
đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, sai sót khi giao dịch…Từ đó đưa ra các
biện pháp điều chỉnh, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống QTRRTD.
1.3.3 Quan điểm hiện đại về quản trị RRTD
Mức độ rủi ro ngày càng gia tăng đã buộc hoạt động QTRRTD phải chuyển đổi
tương ứng. Nếu như ở thập niên 70 – 80, các NHTM tập trung nhiều vào việc quản lý chi
phí và thu nhập nhằm tối đa hóa lợi nhuận, chỉ số sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) được
coi là mục tiêu kinh doanh hàng đầu, thì trong những năm 90 trở lại đây, do mức độ quan
trọng của QTRR, các NHTM chuyển trọng tâm chiến lược sang quản lý danh mục đầu tư
(cân đối và hạn chế rủi ro danh mục bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi
ro với từng thị trường, ngành hàng khác nhau, khách hàng, mặt hàng, loại sản phẩm tín
dụng và điều kiện hoạt động khác nhau). Yếu tố rủi ro đã được bổ sung vào mục tiêu ROE,
gọi là kết quả hoạt động điều chỉnh theo rủi ro (ví dụ RAROC – Hệ số sinh lời của vốn chủ
sở hữu điều chỉnh theo rủi ro). Mô hình QTRR hiện đại được biểu diễn trong hình 1.1.

17


Hình 1.1: Quan điểm hiện đại về quản trị rủi ro tín dụng


Rủi ro

Các hoạt động
kinh doanh
Tạo ra
giá trị
(+)
(-)

Lợi nhuận

Vốn
Quản lý rủi ro

Quản lý vốn

Quản lý chi phí/thu nhập

Theo mô tả trong hình 1.1, mục tiêu cuối cùng của các hoạt động ngân hàng là tạo ra
giá trị (làm tăng giá trị vốn cho cổ đông). Để làm được điều đó, NHTM phải tạo ra lợi
nhuận càng cao càng tốt. Tuy nhiên, song hành cùng với các mức lợi nhuận là các những
rủi ro có tác động làm giảm giá trị vốn. Trong thời kì trước, các ngân hàng chỉ chú trọng
vào mức lợi nhuận ròng. Chỉ tiêu này mang tính thụ động vì nó là hiệu của lợi nhuận trừ đi
các tổn thất rủi ro thực tế xảy ra trong năm. Ngày nay, do sự phát triển của thống kê và yêu
cầu mới của quản trị ngân hàng, mức lợi nhuận được điều chỉnh, không phải bằng mức tổn
thất thực tế xảy ra, mà là mức tổn thất dự kiến hay kỳ vọng. Phương pháp này mang tính
chủ động hơn, nó buộc các NHTM phải chuẩn bị vốn, trích lập dự phòng để bù đắp rủi ro
dự kiến và điều này để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động bền vững.
Như vậy, theo quan điểm hiện đại được áp dụng phổ biến, QTRRTD nhằm mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận được điều chỉnh theo rủi ro bằng cách duy trì mức độ RRTD

trong phạm vi chấp nhận được, hay nói cách khác, mức độ rủi ro được duy trì ở mức mà
các ngân hàng cho là hợp lý, được kiểm soát và tổn thất tín dụng nằm trong phạm vi
nguồn lực tài chính cho phép của họ. QTRRTD hiệu quả là điều kiện thiết yếu để QTRR
tổng thể của NHTM và được xem là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền
vững của các NHTM trong dài hạn.
1.3.4 Những kỹ thuật dự báo và đo lường rủi ro sử dụng trong quản trị rủi ro tín dụng
Hiện nay trên thế giới, có hai kỹ thuật phổ biến nhất là:
18


1.3.4.1 Chấm điểm tín dụng
Đây là phương pháp truyền thống, định tính để đánh giá rủi ro thông qua nghiên
cứu hồ sơ vay vốn của khách hàng.3C, 4C, 5C, 6C mà trước đây các ngân hàng thường sử
dụng. Các chữ C này bao gồm:
 Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của
khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện
hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối
với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn
khác như Trung tâm phòng ngừa RRTD (CIC)…
 Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của quốc
gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng; đối với
doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết
định bổ nhiệm người điều hành.
 Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của
người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính: Nhóm chỉ
tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ
tiêu khả năng sinh lời.
 Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là
nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.

 Các điều kiện (Conditions): NHTM quy định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín
dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thanh toán phải
qua NHTM, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương quy định
theo từng thời kỳ.
 Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong pháp luật
và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay. Yêu cầu tín dụng của người vay có
đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không. [24]
1.3.4.2 Mô hình cho điểm để lượng hóa rủi ro tín dụng.
19


1.3.4.2.1 Mô hình điểm số Z (Z Credit scoring Model) :
Đây là mô hình dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn do
E.I.Altman nghiên cứu. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với
người vay và phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của người vay và tầm quan trọng
của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Đối với công ty niêm yết:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Đối với công ty chưa niêm yết:
Z’ = 0,717 X1 + 0,847 X2 + 3,107 X3 + 0,42 X4 + 0,998 X5
Trong đó:

X1 = Vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản
X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ tổng tài sản
X4 = Giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Doanh thu / tổng tài sản

Giá trị của chỉ số Z tỷ lệ nghịch với xác suất vỡ nợ của người vay. Trị số Z càng

cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Và khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ
là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của
Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ
RRTD cao theo như bảng 1.1.
Bảng 1.1: Điểm số Z và nguy cơ doanh nghiệp
Giá trị Z

Giá trị Z’

Dự báo

< 1.81

< 1.23

Phá sản

> 2.99

> 2.9

An toàn

1.81 < Z < 2.99

1.23 < Z < 2.9

Nghi ngờ cần xem xét kỹ

20



Nguồn [26]
1.3.4.2.2 Chấm điểm tín dụng tiêu dùng
Các ngân hàng thường sử dụng mô hình chấm điểm tiêu dùng như ở bảng 1.2:
Bảng 1.2: Các tiêu chí chấm điểm tín dụng tiêu dùng

21


STT
1

2

3

4

5

6

Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng

Điểm số

Nghề nghiệp của người vay
Chuyên gia hoặc phụ trách kinh doanh


10

Công nhân có kinh nghiệm (có tay nghề cao)

8

Nhân viên văn phòng

7

Sinh viên

5

Công nhân không có kinh nghiệm

4

Công nhân bán thất nghiệp

2

Trạng thái nhà ở
Nhà riêng

6

Nhà thuê hoặc căn hộ

4


Sống cùng bạn hoặc người thân

2

Xếp hạng tín dụng
Tốt

10

Trung bình

5

Không có hồ sơ

2

Tồi

0

Kinh nghiệm nghề nghiệp
1 năm trở lên

2

Từ 1 năm trở xuống

1


Thời gian sống tại địa chỉ hiện tại
Hơn 1 năm

2

Từ 1 năm trở xuống

1

Điện thoại cố định


2

Không

0

22


7

8

Số người sống cùng hoặc phụ thuộc
Không

3


Một

3

Hai

4

Ba

4

Nhiều hơn ba

2

Các tài khoản tại ngân hàng
Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc

4

Chỉ có tài khoản tiết kiệm

3

Chỉ có tài khoản phát hành séc

2


Không có tài khoản

0

23


Nguồn [24]
Theo cách cho điểm của mô hình trên, điểm số lớn nhất mà một khách hàng có thể
đạt được là 43 điểm, điểm số thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết 28 mức điểm
ranh giới giữa khách hàng có chất lượng tín dụng tốt và xấu, từ đó họ có thể đưa ra khung
cơ sở tín dụng như bảng 1.3 sau:

Bảng 1.3: Khung cơ sở tín dụng tiêu dùng
Tổng điểm số của khách hàng

Quyết định tín dụng

28

Từ chối cho vay

29 – 30

Cho vay đến 500 USD

30 – 33

Cho vay đến 1000 USD


34 – 36

Cho vay đến 2500 USD

37 – 38

Cho vay đến 3500 USD

39 – 40

Cho vay đến 5000 USD

41 – 43

Cho vay đến 8000 USD

24


1.3.4.2.2 Mô hình xếp hạng của Moody’s & Poor
Moody’s Investor Service (Moody’s) và Standard & Poor’s (S&P) là hai tổ chức
tín nhiệm có uy tín lâu đời tại Mỹ và cũng là những tổ chức tiên phong trong lĩnh vực xếp
hạng tín nhiệm trên thế giới, sau đó có Fitch Investor Service. Kết quả xếp hạng tín nhiệm
của các tổ chức này đều được đánh giá cao.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm của Moody’s tập trung chủ yếu vào bốn lĩnh vực chính
là đánh giá môi trường ngành, đánh giá tình hình tài chính, đánh giá hoạt động sản xuất
kinh doanh, đánh giá khả năng quản trị doanh nghiệp, chú trọng quản trị rủi ro và kiểm
soát nội bộ. Đối với Moody’s, xếp hạng chất lượng công cụ nợ dài hạn cao nhất từ Aaa
sau đó thấp dần đến C, đươc thể hiện trong bảng 1.4. So với Moody’s thì S&P có thêm kí
hiệu r, nếu kí hiệu xếp hạng doanh nghiệp có kèm them kí hiệu này thì cõ nghĩa cần chú ý

các rủi ro phi tín dụng có liên quan.
Trong bảng xếp hạng, chứng khoán trong 4 loại đầu được xem như loại chứng
khoán nên đầu tư, còn các loại chứng khoán bên dưới được xếp hạng thấp (junk). Nhưng
do có mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn
vốn cao) nhưng bù lại có lợi nhuận cao nên đôi lúc khách hàng chấp nhận đầu tư vào các
loại chứng khoán này.
Bảng 1.4: Xếp hạng và đánh giá theo mô hình của Moody’s và Standard & Poor’s

25


×