Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục đạo đức CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN TRONG TÌNH HÌNH mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.31 KB, 46 trang )

MỤC LỤC

BM-TQP-01-01 Ver: 00

1


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
QPTD, ANND
CNXH
CNĐQ
DBHB, BLLĐ
LLVT
QĐND
CNH, HĐH
XHCN
DQTV
BCHTW
CAND
CTND
QPTD
QP, AN
CNCS
CHNL
CXNT
XHPK
XHTB
CNTB

BM-TQP-01-01 Ver: 00



Viết đầy đủ
Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa đế quốc
Diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ
Lực lượng vũ trang
Quân đội nhân dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Xã hội chủ nghĩa
Dân quân tự vệ
Ban chấp hành trung ương
Công an nhân dân
Chiến tranh nhân dân
Quốc phòng toàn dân
Quốc phòng, an ninh
Chủ nghĩa cộng sản
Chiếm hữu nô lệ
Công xã nguyên thủy
Xã hội phong kiến
Xã hội tư bản
Chủ nghĩa tư bản

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu là vị lãnh tụ Thiên Tài của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang

nhân dân. Công lao to lớn của người gắn liền với lịch sử quang vinh của Đảng
Cộng Sản Việt Nam và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống giặc ngoại
xâm bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước. Công lao và sự nghiệp vĩ đại của chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đi vào sử sách và sống mãi với muôn đời sau.
Hưởng ứng và góp phần đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “ Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trường Đại Học Hải Phòng, Trung
tâm Giáo Dục Quốc Phòng, An Ninh đã tổ chức sinh hoạt khoa học các cấp với
nhiều chủ đề về tư tưởng Hồ Chí Minh giá trị lịch sử và thực hiện. Với sự tham
gia của nhiều cán bộ giảng viên sinh viên, nhà khoa học trong và ngoài trường.
Nhân dịp này tôi xin đóng góp một phần nhỏ bé vào công tác tuyên truyền trong
giảng dạy giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên về học tập và giáo dục
quốc phòng an ninh tại trường và thanh niên trong quân đội nói riêng. Góp phần
đạt được mục đích yêu cầu của cuộc vận động phù hợp trong điều kiện mới. Đề
tài được chia thành 2 phần:
Phần thứ nhất: Giá trị Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Phần thứ hai: Giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo
tầm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trực tiếp bồi dưỡng phẩm chất và đạo đức
cách mạng cho sinh viên, học viên trong và ngoài quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Thân thế và sự nghiệp Hồ Chí Minh, di chúc của người.
- Đối tượng tuyên truyền: Sinh viên học tập môn Giáo Dục Quốc Phòng
An Ninh trường Đại Học Hải Phòng.
- Phạm vi nghiên cứu: Trung tâm Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh trường
Đại Học Hải Phòng.
BM-TQP-01-01 Ver: 00

3



- Thời gian: Năm học 2013-2014
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát cơ sở lý luận thực tiễn, thực trạng sự cần thiết của rèn luyện
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên học viên
trong và ngoài quân đội hiện nay. Trước hết là tại trung tâm Giáo Dục Quốc
Phòng An Ninh trường Đại Học Hải Phòng.
- Đề xuất một số nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức cách mạng cho sinh viên.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các chỉ thị nghị quyết của Đảng. Chỉ thị số 03 CT/TW ngày 14/05/2011
của Bộ Chính Trị về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Và thực trạng việc lồng ghép vận dụng công tác tuyên truyền trong
giảng dạy ở trung tâm Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh trường Đại Học Hải Phòng.
Đề tài nghiên cứu kết hợp các phương pháp và lấy ý kiến của các chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của đề tài:
Vận dụng có hiệu quả các phương pháp tuyền truyền và giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên. Nhất là sinh viên đang học tập tại trung tâm Giáo Dục
Quốc Phòng An Ninh trường Đại Học Hải Phòng.
7. Cấu trúc đề tài:
Mở đầu, phụ lục, danh mục, tài liệu tham khảo. Nội dung chính của đề tài
gồm 2 chương:
Chương I: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh với lịch sử và hiện tại.
Chương II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

4



CHƯƠNG I: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỚI LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI
1.1 GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH.

Lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam, người chiến sỹ
đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, trước khi đi xa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta, đất nước ta một di sản vô cùng
quý giá – Di chúc của Người.
Di chúc của Người trở thành một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh hoa đạo
đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những quan điểm cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh, là ánh sáng dẫn đường cho sự phát triển của cách mạng
Việt Nam cả trong hiện tại và tương lai.
Trong Di chúc của người, cái làm nên giá trị tinh thần lớn lao và giá trị cải
tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con người thấm
đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và đó cũng là một triết lý nhân sinh mà Người
đã dày công vun đắp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Vấn đề con người và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện sâu
sắc trong Di chúc. Đó là tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong
xã hội, từ các cháu thiếu nhi, các thanh niên, phụ nữ đến cụ già. Sinh thời, tình
yêu thương bao la và rộng lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn Người đến lý
tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và tập trung là
giải phóng con người. Giải phóng xã hội là nấc thang giải phóng con người cao
nhất, là nấc thang khắc phục toàn diện các hạn chế của con người, phát triển con
người về mọi mặt, là mang các giá trị chân chính của con người trả lại cho con
người. Tình yêu thương con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ dừng lại ở sự quan tâm đến đời sống nhân dân, mà trên hết là chăm lo

giáo dục, đào tạo họ, làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu chúng ta sửa đổi chế độ giáo
dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách
BM-TQP-01-01 Ver: 00

5


mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên thanh niên, đào tạo họ trở
thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Triết lý nhân sinh của Hồ Chí Minh là sự gắn kết nhuần nhuyễn giữa chủ
nghĩa nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa
nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của nhân loại. Nội
dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là lòng thương
yêu, quý trọng con người gắn với lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn. Với tình
yêu thương con người bao la ấy, cùng với sự thấm nhuần đạo lý truyền thống
của con người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”,
Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp cho nông dân để đồng bào có thêm niềm
phấn khởi đẩy mạnh sản xuất sau nhiều năm liên tục đã ra sức đóng góp của,
góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ nghĩa
nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không những có tình yêu
bao la đối với đồng bào cả nước, Người còn yêu thương tất cả những người bị
áp bức, bị bóc lột, bị đối xử bất công ở mọi nơi trên thế giới. Trong cuộc đấu
tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa nhân dân Việt Nam chính nghĩa và
bọn xâm lược Mỹ phi nghĩa, đồng bào ta đã có tinh thần yêu nước nồng nàn, hy
sinh cuộc sống và hạnh phúc cá nhân, cống hiến mọi sức lực cho Tổ quốc.

Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt đối với mọi
tầng lớp nhân dân đã vì Tổ quốc mà gặp những tai nạn rủi ro. Phải tạo điều kiện
để toàn bộ những thanh niên, phụ nữ, thương binh, bệnh binh có một cuộc sống
tốt đẹp sau khi chiến tranh chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh
hùng, liệt sỹ, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh liệt sỹ, mà ngay cả đối với
các nạn nhân chiến tranh, đối với những người lầm đường lạc lối, những người
thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn chế
BM-TQP-01-01 Ver: 00

6


những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải giúp họ trở thành những người
lao động lương thiện.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc là sự quan
tâm đến người cộng sản, đến Đảng. Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng
nhân văn của Người. Quan tâm đến Đảng, hướng việc hoàn thiện công việc lãnh
đạo của Đảng, Người đặc biệt quan tâm và đx nêu ý nghĩa nhân văn trong việc
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Xã hội mới lấy con người làm trung tâm ở nước ta, trong tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng
sản là chống áp bức, bóc lột, mang những giá trị chân chính của con người trả lại
cho con người. Bản chất xã hội lấy con ngươi làm trung tâm hòa quyện và thống
nhất với mục đích lý tưởng của Đảng. Với lý tưởng tiền tiến và đạo đức cao đẹp,
nhân cách người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm của xã hội mới.
Đó là những con người biết đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết và
trước hết.
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người làm trung
tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi Đảng viên là cán bộ thật sự thấm nhuần đạo đức

cách mạng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên có đạo đức
cách mạng là những người có văn hóa; phải xung phong, gương mẫu làm trước
thiên hạ; cái gì có lợi cho Đảng, cho dân khó mấy cũng làm, cái gì có hại đến
Đảng, đến dân dù nhỏ đến mấy cũng cần phải kiên quyết chống lại.
Là người đầy tớ trung thành của nhân dân trong một xã hội nhân đạo thì
những người lãnh đạp phải thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ lao động của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm
chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ.
Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”
Sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân
dân ta đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Thực hiện Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dâ ta tiến hành công cuộc vận động xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đã thực hiện cuộc vận động xây
BM-TQP-01-01 Ver: 00

7


dựng, chỉnh đốn Đảng; đã có nhiều việc làm mang lại lợi ích thiết thực và cuộc
sống ngày một ấm no hơn cho mọi tầng lớp nhân dân; và cũng đã có nhiều việc
làm thực sự có ý nghĩa nhằm đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với
nước. Ánh sáng tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc vẫn đang tiếp tục soi
sáng những bước đường của nhân dân ta đi đến thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
1.2 TÌNH YÊU THƯƠNG CỦA CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cái làm nên giá trị tinh thần lớn
lao và mang ý nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải
phóng con người.
Vấn đề trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc

là tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Trong Di chúc,
Người đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt đối với mọi tầng lớp nhân dân
đã vì Tổ quốc mà hy sinh. Theo Người, đó là coogn việc nhất thiết phải làm, dẫu
khó khăn, phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm. Người chỉ rõ: Đối với những
người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có
nơi ăn, chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có
được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cách sinh…
Đối với nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho
đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm liên tục đã
sưc gop của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Người không chỉ quan tâm đến đời sống nhân dân, mà trên hết là chăm lo
giáo dục, đào tạo họ. làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu chúng ta sửa đổi chế độ giáo
dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên thanh niên, đào tạo họ trở
thành những người kế thừa vừa “hồng” vừa “chuyên”.
BM-TQP-01-01 Ver: 00

8


Triết lý nhân sinh của Người là sự gắn kết giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả
với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng
nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam kết hợp với truyền
thống nhân ái của nhân loại. Nội dung cốt lõi cảu chủ nghĩa nhân đạo và tư
tưởng nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con người gắn với lòng yêu
nước, yêu dân nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng
nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phòng con người. Chủ

nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ nghĩa nhân văn cách
mạng, sáng ngời lý tưởng cộng sản.
Tư tưởng này còn thể hiện ở sự quan tâm, chăm lo xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh. Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người.
Tháng 5 năm 1968, khi soạn thảo Di chúc, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần
phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng
đến việc hoàn thiện công việc lãnh dạo cảu Đảng, Người đặc biệt nêu lên ý
nghĩa nhân văn trong việc Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
trung thành của nhân dân.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là lấy con người làm trung tâm. Điều này thể
hiện rõ trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Bởi vì, lý tưởng của ĐẢng Cộng
sản là chống áp bức, bóc lột, mang những giá trị chân chính của con người làm
trung tâm hòa quyện và thống nhất với mục đích, lý tưởng của Đảng. Với lý
tưởng tiền tiến và đạo đức cao đẹp, nhân cách người cộng sản phải trở thành
biểu tượng trung tâm của xã hội mới. Đó là những con người biết đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên hết và trước hết.
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người làm trung
tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi đảng viên là cán bộ thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng”. Theo Chỉ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên có đạo đức
cách mạng là những người có văn hóa; phải xung phong gương mẫu làm trước
thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ; cái gì lợi cho Đảng, cho dân thì
khó đến mấy cũng là; cái gì hại đến Đảng , đến dân thì kiên quyết chống lại.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

9


Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với con người. Với lòng yêu nước, thương dân
vô hạn, Bác luôn hướng về dân, chăm lo cho dân từ tương, cà, mắm muối, học

hành, chữa bệnh đến cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc, văn minh, tiến bộ.
Bác viết: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu
đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức, bóc lột, lại kinh qua
nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái,
cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với
Đảng”. Do vậy, BÁc căn dặn Đảng ta nói chung, từng cán bộ, đảng viên nói
riên, ở mỗi cương vị cụ thể của mình đều phải chăm lo cải thiện đời sống cho
nhân dân.
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển kinh tế
- xã hội quan trọng, đời sống phần lớn nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, trong
xã hội ta còn không ít đồng bào, nhất là các dân tộc vùng cao, vùng sâu vùng xa,
nơi căn cứ cách mạng trước đây, hiện vẫn còn nhiều khó khăn. Tình trạng chênh
lệch về đời sống, thu nhập, mức hưởng thụ văn hóa, trình độ dân trí, khả năng
chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh; việc giải quyết công ăn việc làm; khắc
phục những tệ nạn tiêu cực xã hội…đang còn là vấn đề nhức nhối.
Bác căn dặn chùng ta: “Đầu tiên là coogn việc đối với con người. Đối với
người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân
quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải
tìm cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng bào phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sỹ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng
vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo
dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động
và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã
cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp,
quyết không để họ đói rét.

BM-TQP-01-01 Ver: 00


10


Những chiến sỹ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên
xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm, Đảng
và Chính phủ cần chọn ra những cháu ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm
các ngành, các nghề để dào tạo thành những cán bộ và công nhân kỹ thuật giỏi,
tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng thắng lợi CNXH ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nươc, phụ nữ đảm đang đã góp phần
xứng đán trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế
hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố gắng
vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Nàh nước vừa phải giáo
dưỡng, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động
lương thiện, có ích cho xã hội.
Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc
Mỹ, đồng bào ta luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ, ra sức góp
của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Bác căn dặn Đảng
và Nhà nước miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp
để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản
xuất.
Đối với thanh niên, Bác dăn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng CNXH vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm
rất quan trọng và rất cần thiết”.
Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ
vang. Đây là cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong công cuộc chiến đấu

khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào
lực lượng vĩ đại của toàn dân.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

11


Năm nay, cùng với kỷ niệm 64 năm ngày thành lập Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, toàn Đảng và toàn dân ta kỷ niệm lần thứ 40 ngày Bác đi xa,
cũng là kỷ niệm lần thứ 40 thực hiện Di chúc thiêng liêng do người để lại. Cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng do Đảng ta phát động và tiến hành đã trở
thành nền nếp thường xuyên.
1.3 VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
sâu sắc đến hoạt động đạo đức cách mạng và chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo người, đạo đức là nền
tảng của người cách mạng, cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của suối, “người
có cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”.
Ngay trong những bài giảng đầu tiền về CN Mac-Lenin, trong “Đường
cách mệnh”, Người đã đặt vấn đề tư cách, đạo đức người cách mạng lên làm bài
học đầu tiên, tiêu chuẩn đầu tiên. Trong tư cách người cách mạng, Người nhấn
mạnh: cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, giàu lòng
hy sinh,ít lòng tham muốn vật chất. Và Người cũng đã sớm cảnh báo, nếu không
thường xuyên tu dưỡng đạo đức cahcs mạng thì rất có thể: “Một dân tộc, một
đảng, và mỗi con người ngày hốm nay là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Trước lúc đi xa, trong Di

chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng…”. “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ
(đoàn viên và thanh niên), đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng XH,
XHCN vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí
coogn vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

12


1. Trung với nước, hiếu với dân là nội dung cơ bản, đầu tiên của đạo đức
cách mạng. Theo Hồ CHí Minh, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
người cách mạng không gì hạnh phúc hơn là được phục vụ nhân dân; cái gì có
lợi cho dân thì phải hết sức làm, hại cho dân thì phải hết sức tránh. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Nói tóm lại, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng…Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quyên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Trong Di chúc, Người đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng
một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng
hái chiến đấu tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là “người lãnh đạo” vừa là
“người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Nười mong muốn : “…phấn đấu
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đó là biểu hiện
thực tế sinh động tư tưởng với nước, hiếu với dân của Người.
2. Yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cách

mạng.
Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, cho đến trước lúc đi xa, Người luôn
quan tâm đến con người, trước hết là những người cùng khổ. Với Hồ Chí Minh,
đạo đức cách mạng là phải đem lại cho con người sự phát triển toàn diện. Người
nói “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn đến tột bậc, là làm sao cho dân ta
được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”. Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, “Hiểu
chủ nghĩa Mac-Lenin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao
nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là là hiểu chủ nghãi MacLenin được”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ quan tâm đến
vận mệnh chung của toàn dân tộc, mà Người còn chăm lo đến từng cá nhân con

BM-TQP-01-01 Ver: 00

13


người cụ thể. Bất kỳ ai khi tiếp xúc với Người đều nhận được ở Người tình cảm
nhân ái, yêu thương chân thành, gần gũi,bình dị.
Trong Di chúc, Người coi: “Đầu tiên là công việc đối với con người”, và
Người cưn dặn Đảng, Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng cụ thể: những
người đã hy sinh một phần xương máu, liệt sy, gia đình liệt sỹ, thanh niên, thiếu
niên, phụ nữ, những người là nạn nhân của chế độ cũ…Người đề nghị miễn thuế
cho nông dân…quan tâm mọi mặt để nâng cao đời sống nhân dân…
Cuối cùng, trong Di chúc, Người không quên, “để lại muôn vàn tình thân
yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và
nhi đồng…gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, bầu bạn và các thanh niên, nhi
đồng quốc tế”.
3. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cao đẹp của
người cách mạng được người đề cập ngay từ “Đường kachs mệnh” đến Di chúc

trước lúc đi xa.
Theo người đây là các đức tính cần có của người cách mạng. Tất yếu như
tự nhiên: Trời có bốn mùa xuân hạ thu đông, người có bốn đức tính: cần, kiệm,
liêm, chính. Thiếu một mùa không thành trời. Thiếu một đức không thành
người…Người còn yêu cầu người cách mạng phải chí coogn vô tư, đặt lợi ích
của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Đảng ta phải “…thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng
là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cuộc đời của
Người là một hình mẫu lý tưởng về sự cần, kiệm, liêm, chính.
Trong Di chúc, Người yêu cầu: “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu
phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”; thi hài thì
nên “đốt đi” để “đối với người sống tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất”. “Trên
mộ nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người
đến thăm có chỗ nghỉ ngơi”.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

14


4. Điểm đặc sắc trong xây dựng đội ngũ cách mạng theo Di chúc của Hồ
Chí Minh, là nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương vê đạo đức; xây đi đôi với
chống, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Không chỉ đề xuất, truyền bá tư tưởng đạo đức, Hồ Chí Minh thực sự là
một nhân cách văn hóa đạo đức tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ, Người
hiểu sâu sắc rằng, đói với dân tộc phương Đông: “Một tấm gương sống còn giá
trị hơn một trăm bài diễn thuyết”. Người đã căn dặn cán bộ, đảng viên: “Trước
mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ “công sản” ma fta được yêu
mến”.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng
dân nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta noi theo. Do đó, người
cách mạng phải học tập, tu dưỡng đạo đức suốt đời. “Đạo đức cáh mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cung như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Cả cuộc đời vĩ đại của Hồ Chí Minh là tấm gương mãi mãi sáng
ngời cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta học tập, noi theo.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ
mới, với những khó khăn, thử thách mới. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhâ và tệ nạn quan liêu
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm
trọng”. Thực trạng đó thực sự là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, nó
là “giặc nội xâm”. Điều đó càng đòi hỏi chúng ta cần quán triệt sâu sắc và thực
hiện tốt những di huấn của Người để lại. Trước mắt, tiếp tục tổ chức, học tập,
thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”.
1.4 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tình cảm thiết tha, niềm tin
sâu sắc về con người, là di sản vô giá đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta
và các thế hệ mai sau. Di chúc của Người là ánh sáng soi đường, chỉ lối cho sự

BM-TQP-01-01 Ver: 00

15


nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nội dugn Di chúc đề cập đến nhiều phương diện; trong đó, tình yêu
thương con người và sự quan tâm, chăm lo phát triển đời sống của con người là

nội dung nổi bật và xuyên suốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, toàn bộ những công việc lớn của xã hội,
của cách mạng đều gắn với con người, coi công việc đối với con người là mục
tiên quan trọng nhất. Theo Bác, “công việc đối với con người là công việc đầu
tiên”. Đó là sự tổng kết quan trọng, có ý nghĩa nhân văn cao cả mà Hồ Chí Minh
đã đúc kết trong qua trình hoạt động cách mạng của mình. Vấn đề con người
trong Di chúc của Hồ Chí Minh được thể hiện ở tình yêu thương đối với mọi
giai cấp,tầng lớp người trong xã hội, từ các cháu thiếu nhi, các thanh niên, phụ
nữ đến các cụ già…Tình yêu thương đó toát lên từ nhiều nội dung và ở nội dung
nào cũng đều có ý nghĩa sâu sắc.
Sự quan tâm của Người về đảng cầm quyền chính là sự quan tâm đến
quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân và Tổ quốc. Bác mong muốn
Đảng ta thật sự là hạt nhân của khối đại đoàn kết, thống nhất toàn dân, vì nhân
dân phục vụ. Trong di chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ, phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng…phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người cách mạng, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Là người lãnh đạo nhân dân, xây dựng xã hội mới, xã hội lấy con người làm
trung tâm, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải có đủ phẩm chất và năng lực,
có phương pháp, tác phong công tác tốt; luôn khoan dung độ lượng, có tình cảm
cách mạng và trí tuệ sáng suốt. Điều đó luôn luôn đúng trong điều kiện là đảng
cầm quyền. Đảng phải thực sự vững mạnh và toàn diện cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đường lối, chủ trương của Đảng phải
gắn với lợi ích chính đáng của mỗi nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
phải thật sự gương mẫu, nói đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Khi ý Đảng
hợp với lòng dân thì công việc to lớn mấy, khó khăn mấy cũng nhất định vượt

BM-TQP-01-01 Ver: 00

16



qua và giành thắng lợi, sự nghiệp cách mạng của Đảng, cảu dân tộc nhất định sẽ
thành công.
Đối với nhân dân lao động, trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta phải có
chính sách quan tâm đặc biệt đối với các tầng lớp nhân dân đã hy sinh vì Tổ
quốc hoặc những tai nạn rủi ro. Đảng phải tạo điều kiện thuạn lợi để thanh niên,
phụ nữ, thương binh, bệnh binh, những người có công với cách mạng có một
cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc
thắng lợi.
Năm 1965, Bác viết: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền
núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong kiến áp bức bóc lột, lại kinh
qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày
có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Đặc biệt với nông dân, Bác
dnahf nhiều sự ưu ái. Bởi lẽ, với một đất nước lấy sản xuất nông nghiệp làm
chính, người nông dân chiếm số đông trong dân cư, bao đời sống cơ cực lầm
than dước ách bóc lột nặng nề của bọn thực dân, phong kiến, khi ó Đảng họ
hăng hái đi theo Đảng, bất chấp mọi gian khó nguy hiểm, cống hiến sức người,
sức của cho cách mạng. Vì vậy, họ là lực lượng mà Đảng và Chính phủ phảo
quan tâm, tạo mọi điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
Trong Di chúc Bác viết: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp
đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta nhất là đồng bào nông dân đã luôn hết sức
trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp người, góp của, vui lòng chịu
đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị
miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào
hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình
(cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh nien xung phong…), Đảng, Chính phủ


BM-TQP-01-01 Ver: 00

17


và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời
phải mở lớp dạy nghề thích hợp để họ có thể dần dần “tự lực cách sinh”.
Đối với các liệt sỹ, phải xây dựng vườn hoa, bia kỷ niệm ghi sự hy sinh
anh dũng của họ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân.
Đói với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ), chính quyền phải
giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Chọn trong số những chiến sỹ trẻ tuoir trong lực lượng vũ trang nhân dân
và thanh niên xung phong để bòi dưỡng , đào tạo họ thành độ quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Đối với phụ nữ, phải có kế hoạch cất nhắc và giúp đỡ, đưa đến cho họ
quyền bình đẳng thực sự.
Ngay cả đối với các nạn nhân chiến tranh, với những người lầm đường lạc
lối, những người thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm
và hạn chế những nhược điểm của họ để họ trở thành những người lao động
lương thiện.
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là tình yêu thương bao la đối với con
người, lo cho tất thảy mọi người, phấn đấu để giải phóng con người, mà còn là
lòng tin sâu sắc ở con người, luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, động lực chủ
yếu cảu sự vận động, phát triển lịch sử, là chủ thể xây dựng XHCN tốt đẹp.
Cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại muôn vàn tình thân yêu cho
toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, thanh niên và nhi đồng. Di chúc của
Người, tình thương yêu bao la của Người đã trở thành sức mạnh to lớn đọng
viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu vươn lên trên con đường
cách mạng dù còn nhiều vất vả, song hết sức vinh quang.

Thực hiện Di chúc của Người, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã giành
được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Ánh sáng của tư tưởng nhân văn
cao cả trong Di chúc của Người tiếp tục soi sáng những bước đường của nhân
dân ta đi đến thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

BM-TQP-01-01 Ver: 00

18


CHƯƠNG II: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GÓP PHẦN BỒI DƯỠNG THẾ
HỆ TRẺ CÁCH MẠNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và của
cả dân tộc ta – trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, đã để lại cho toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân Việt Nam bản Di chúc mang giá trị bất hủ, trong đó, Người chỉ
giáo: Đảng cần phải chăm lo giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ “thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Vẫn trong văn
kiện lịch sử này, Người sáng lập Đảng và Nhà nước ta còn nhấn mạnh: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau nlaf một việc làm rất quan trọng và rất cần
thiết”. Ở đây, một lần nữa chúng ta thấy Hồ Chí Minh rất coi trong công tác giáo
dục và đào tạo để bồi dưỡng lớp thanh niên cách mạng Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta đã có sự lưu tâm, thực hiện lời di huấn nói trên của
Hồ Chí Minh về công tác giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao đạo đức và tri
thức nói chung cho lớp trẻ và toàn dân Việt Nam. Công tác giáo dục và đào tạo
chúng ta đã làm và đang còn tiếp tục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, từng bước xây dựng, phát triển kinh tế tri thức, xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện nay, thiết nghĩ, cần được xem xet lại để khắc phục những tồn tại, đồng thời

phải đổi mới, ngõ hầu đạt được kết quả mỹ mãn hơn và chứng tỏ một sự tuân
thủ nghiêm túc, sáng tạo lời lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng Việt nam đã dạy.
Công tác giáo dục và đào tạo tại hệ thống các trường, lớp, vụ, viện, học
viện, trung tâm nghiên cứu, giảng dạy cho các đối tượng học sinh phổ thông, đại
học, trên đại học trong thời đại đã có xu thế hình thành, phát triển nền kinh tế tri
thức trên thế giới, còn ở trong nước ta thì Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có chủ
trương từng bước xây dựng, phát triển nền kinh tế hiện đại tiên tiến đó, đồng
thời với tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa để chủ nghĩa xã hội trở thành
hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
Một đất nước, một dân tộc muốn đạt tới trình độ tri thức cao thì phải đặc
biệt chú ý, quan tâm công tác giáo dục, đào tạo từ phổ thông đến đại học và trên
BM-TQP-01-01 Ver: 00

19


đại học. Ngay từ những ngày đầu, tháng đầu, năm đầu sau khi Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi toàn dân, nhất là
tầng lớp thanh, thiếu niên Việt Nam phải ra sức học tập nâng cao trình độ tri
thức để xây dựng đất nước trở lên hùng mạnh, vẻ vang. Người coi tình trạng mù
chữ, kém hiểu biết, dốt nát cũng là một thứ giặc nguy hiển cần phải thanh toán
bằng cách quyết tâm, cố gắng vượt khó khăn, thi đua học tập. Theo lãnh tụ sáng
lập Đảng và Nhà nước Việt Nam thì mỗi người chúng ta phải hết sức chú trọng
học thầy, học bạn, học hỏi quần chúng nhân dân, học trong sách vở, trường lớp
và học ngoài xã hội. Cũng như các tác giả của chue nghĩa xã hội khoa học, Hồ
Chí Minh thấy công việc học tập mang một giá trị lịch sử. Vì thế mà từ 9/1945,
nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Người đã
gửi thư chi giáo học sinh cả nước: “Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của

các em”. Việc học tập của học sinh Việt nam nói chung đều có sứ mệnh nặng nề
nhưng vẻ vang như lời Bác Hồ đã dạy. Thế thì đáng lẽ ra, trong công tác giáo
dục, đào tạo cả người học cũng như người dạy học đều phải có ý thức và cố
gắng để tiếp thu, chuyền đạt được nhiều kiến thức, tri thức nhất, để việc học và
dạy học đạt tới mục tiêu trang bị và bổ túc tri thức nói chung, tri thức khoa học
nói riêng cho người học. Nhưng thực tế có nhiều dấu hiệu đối lập với điều
chúng ta hằng mang muốn. Trong lớp trẻ, có rất nhiều người ngại, không ham
muốn học tập vì những lý do thi tuyển khó, điều kiện vật chất, kinh tế hạn chế,
gia đình neo đơn...Không ít bạn trẻ có dư điều kiện vật chất và tinh thần để học
tập tốt nhưng cũng chối bỏ việc học hành. Một số không nhỏ thanh thiếu niên
khác tỏ ra ham học, thậm chí rất thích thú việc học tập, song động cơ lại là điều
đáng phải xem xét. Số người này đi vào con đường học vấn, khoa học không
hẳn vì kiến thức, khoa học, mà chỉ cốt lấy được bằng cấp này, học vị kia để đeo
đuổi kỳ được một cái gì đấy.
Vậy là, trong thời gian đã qua, công tác giáo dục và đào tạo của chúng ta,
do nhiều nguyên nhân, còn tồn tại những hạn chế và yếu kém mà Đảng, Nhà
BM-TQP-01-01 Ver: 00

20


nước, xã hội không hằng mong muốn, tức là chưa góp phần tích cực thành
những con người mới có kiến thức, trình độ chuyên môn để xây dựng chủ nghĩa
xã hội như bác Hồ đã chỉ giáo trong bản Di chúc của Người. Do vậy, đã tạo ra
không ít cán bộ không chuyên, không làm được nhiệm vụ chính yếu. Nếu đạo
đức của mỗi cán bộ, viên chức hiện nay được đánh giá thông qua công việc,
hành động, chứ không phải theo lời nói của các cá nhân, thì ai đó không làm
được những nhiệm vụ đáng ra phải làm, sé không được bình xét là cán bộ, viên
chức có phẩm chất “hồng”. Những người có kết quả lao động và đạo đức như
thế đã chứng tỏ mình vô tình hoặc là có ý thức không tu dưỡng phấn đấu trở

thành con người mới vừa “hồng” vừa “chuyên” như Hồ Chí Minh đã viết trong
văn kiện nói trên. Công tác giáo dục và đào tạo hiện nay cần phải đổi mới để
góp phần xây dựng được con người nói chung, những thanh niên cách mạng nói
riêng vừa “hồng” vừa “chuyên”, tránh cho ra những sản phẩm phản phát triển và
tiến bộ như đã đề cập.
Như vậy, lối học tập không vì kiến thức, không nhằm nâng cao, bổ túc
kiến thức khoa học thực sự là không có lý do tồn tại trong tất cả các thời đại.
Trong thời đại kinh tế tri thức, còn có tên gọi khác là kinh tế học tập, ấy là vì
nền kinh tế này, việc học tập nghiêm túc được coi trong đặc biệt. Vì thế, để đi tắt
đón đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước xây dựng và
phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt nam, chúng ta phải có biện pháp thật tích
cực, cụ thể, phù hợp nhằm động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho mọi người nhất
là cho trẻ ham mê học tập, đồng thời chặn đứng lối học tập chỉ có được kiến
thức không đáng là bao nhưng lại bằng thủ đoạn, mánh lới chiếm cho được tấm
bằng thật để ngoài lợi ích của cá nhân được chức vụ này, quyền lợi kia, không
còn có một đóng góp đáng kể nào khác cho xã hội.
Để xúc tiến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuẩn bị hình thành và từng
bước phát triển nền kinh tế tri thức, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay, trong công tác giáo dục và đào tạo, chúng ta còn phải khắc phục cho được
những tồn tại thuộc về quy chế và người dạy(người làm công tác đào tạo). Vấn
đề này, xin chỉ bàn luận có tính chất trao đổi, kiến nghị đôi điều.
BM-TQP-01-01 Ver: 00

21


Nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo và tài liệu phục vụ cho công tác
này ở ta từ các trường phổ thông đến đại học và trên đại học, từ môn bổ trợ đền
môn học chính cũng bộc lộ nhiều vấn đề thái quá hoặc bất cập cần được khắc
phục, đổi mới, để đạt được hiệu quả cao hơn và phù hợp hơn.

Nội dung chương trình và tài liệu học tập của các lớp, các cấp học phổ
thông trong những năm gần đây phải nói là đã đến mức quá tải. Các em học sinh
phải lên lớp nghe giảng quá nhiều; thêm nữa, còn buộc pahir học thêm, vì thế,
rút ngắn nhiều thời gian tự học và nghỉ ngơi. Ngoài sách giáo khoa học sinh phổ
thông các còn choáng ngập trước bao đầu sách tham khảo, đọc thêm được in ra
một cách tùy tiện nhằm mục tiêu kinh doanh lợi nhuận hơn là để phục vụ công
tác học tập và giảng dạy. báo chí đã phê phán việc làm ấy không ít lần, nhưng
vẫn chưa có chuyển biến tích cực, việc ai người nấy cứ tiếp tục làm.
Ở bậc đại học và trên đại học lại có những điểm không phù hợp khác. Các
trường, cơ quan đào tạo này, còn thiếu tuy không nhiều nhưng cũng không phải là
ít giáo khoa, giáo trình. Nhiều cơ quan đào tạo trên đại học về triết học từ mấy
chục năm trước nhưng cho đến nay vẫn chưa có hoặc còn thiếu nhiều giáo trình
logic biện chứng, lịch sử triết học. Không ít trường, viện, học viện giảng dạy, đào
tạo về lý luận Mác – Lênin, thiết tưởng, rất cần có tài liệu ngoài Macxit, tài liệu
phản Macxit để tham khảo và phê phán, nhưng lại thiếu hụt rất nhiều nguồn tư
liệu đó.
Nhằm làm cho công tác giáo dục và đào tạo thật sự phát triển, có bước
tiến bộ, góp phần tích cực trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng thế hệ trẻ cách
mạng nước ta trở thành những chủ nhân vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác Hồ
mong muốn, chỉ giáo trong Di chúc và tại nhiều bài nói, tác phẩm viết khác của
Người để tiến hành từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước xây
dựng, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thì phải cắt bỏ những chỗ thừa và bổ
túc những chỗ thiếu hụt nói trên trong công tác giáo dục và đào tạo.
Đội ngũ giáo viên, cán bộ giảng dạy các cấp, các trường từ phổ thông đến
trên đại học cũng nên được chú ý bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Nhiều giáo viên phổ thông nói và viết tiếng Việt còn sai phạm nhiều.
BM-TQP-01-01 Ver: 00

22



dạy các em nhỏ mà viết sai, nói sai thì thật không nên. Nhiều thày mang danh
nhà khoa học, chuyên gia về một lĩnh vực, học phần nào đó nhưng không hiểu
sao lại bộc lộ những dấu hiệu chỉ đáng có ở những người hoàn toàn xa lạ với
những tên gọi đó. Có thầy đứng trên bục giảng cho lớp nghiên cứu sinh và cao
học, triết học mà lại tỏ ra không hiểu và dùng không đúng chỗ các khái
niệm(phạm trù) “điều kiện cần”, “điều kiện đủ” của logic hình thức. Nhiều, chứ
không phải là tất cả các thẩy giảng về phương pháp nghiên cứu khoa học cho
lớp trên đại học, nhưng sản phẩm nghiên cứu khoa học được công bố của những
người giảng này chỉ có ít ỏi và chất lượng không cao, không gây được tiếng
vang hoặc để lại được ấn tượng tyrong tâm trí người đọc. Những sự non kém
này cũng như những hạn chế tương tự khác trong công tác giảng dạy ở bậc trên
đại học cần được khắc phục bằng cách chuyển đổi công việc hoặc nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cho những người thầy đó để công tác giáo dục và đào
tạo của chúng ta có thể tiến nhanh, đáp ứng được nhiệm vụ kinh tế - chính trị
hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. SUY NGHĨ VỀ NÂNG CAO “TÂM, TẦM, TRÍ” CÁN BỘ, GIÁO
VIÊN CHÍNH TRỊ CÔNG TÁC TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG AN NINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Bác Hồ đã căn dặn Đảng ta phải chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ - thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng, chủ nhân
tương lai của nước nhà. Theo Bác, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Di chúc của Người, 40 năm qua, Đảng,
Nhà nước ta đã dành sự quan tâm dặc biệt đến việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng
thế hệ trẻ, coi đó là vấn đề then chốt trong chiến lược con người của Đảng, của
cách mạng Việt Nam.
Đối với thế hệ trẻ trong quân đội, Đảng, Nhà nước ta đã và đang đào tạo,
bồi dưỡng họ thành những cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng; có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng; có tri thức toàn
diện và sức khỏe cường tráng; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Nhờ sự

lãnh đạo và dìu dắt của Đảng, quân đội ta đã chiến đấu thắng lợi, xây dựng và
BM-TQP-01-01 Ver: 00

23


trưởng thảnh, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Bác kính yêu. Trước yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, thực
hiện lời căn dặn của Bác, Đảng, Nhà nước ta đã và đang dành những điều kiện
tốt nhất để chăm lo đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ cán bộ quân đội, nhất là cán bộ
chính trị nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
Hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ của người cán bộ chính trị rất nặng nề, Đảng,
Nhà nước, quân đội luôn đòi hỏi họ phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn
luyện về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, trong đó tập
trung nâng cao tâm, tầm, trí cho đội ngũ học viên đào tạo chính ủy, chính trị
viên có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, tâm, tầm, trí là những yếu tố nền tảng để
giúp người chính ủy hoàn thành tốt vai trò chủ trì về chính trị ở đơn vị cơ sở
theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị.
Tâm của người chính ủy, chính trị viên là tình cảm thương yêu con người,
tình đồng chí, đồng đội sâu sắc. Khẳng định điều này, Bác viết: “Đối với bộ đội,
chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh,
hiểu biết như một người bạn”. Ngoài những yêu cầu chung mà người cán bộ của
Đảng cần phải có thì tâm của người chính ủy, chính trị viên phải đạt đến độ
trong sáng, thành tâm và trở thành phẩm chất thường trực bền vững trong nếp
nghĩ, phong cách, lối sống hoạt động quân sự. Tâm của người chính ủy, chính trị
viên luôn gắn chặt với bản lĩnh chính trị, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ huy, thể hiện ở
lòng trung thành với Đảng, với nhân dân, ở việc dám làm, dám chịu trách nhiệm,
sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tâm
trở thành nhân tố bên trong quyết định chất lượng, hiệu quả công tác của chính
ủy, chính trị viên.

Tầm của người chính ủy, chính trị viên là nhãn quan, tầm nhìn về chính
trị; biểu hiện của năng lực nhìn nhận và giải quyết thấu đáo các m,ối quan hệ
trong đơn vị và xã hội, đặc biệt là khả năng khái quát hóa, phân tich, tổng hợp,
lý giải, dự báo, phát hiện những vấn đề mới phát sinh, nội dung mới, yêu cầu
mới của thực tiễn xây dựng đơn vị sẽ diễn ra; ở năng lực đề xuất những chủ
trương, biện pháp đúng đắn, trên cơ sở quán triệt đường lối, quan điểm của
BM-TQP-01-01 Ver: 00

24


Đảng; ở việc am hiểu sâu sắc mối quan hệ giữa chính trị và quân sự. Tầm của
người chính ủy, chính trị viên cần được mở rộng và nâng cao, đạt đến độ ngang
tầm với chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trí là khả năng nhanh nhạy, chuẩn xác trong tổ chức hoạt động thực tiễn
và xử lý các tình huống nảy sinh. Với người chính ủy, chính trị viên, “Trí” được
biểu hiện ở năng lực tổ chức các hoạt động thực tiễn của đơn vị, tập trung vào
hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị; ở việc xử lý sáng tạo, đúng quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những vấn đề nhạy cảm nảy
sinh trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị.
Việc nâng cao Tâm, Tầm, Trí cho đội ngũ cán bộ đào tạo chính ủy, chính
trị viên là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố cá nhân và xã hội, giữa giáo dục
đào tọa của nhà trường, bồi dưỡng của đơn vị và tự tu dưỡng, rèn luyện của bản
thân, trong đó sự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện của mỗi cán bộ đào tạo chính
ủy, chính trị viên giữ vai trò quyết định.
Học viện chính trị là nới đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ chính ủy cho quân
đội ta. Hiện nay, việc nâng cao Tâm, Tầm, Trí cho các thế hệ chính ủy tương lai
vừa là nhiệm vụ, vừa là trách nhiệm của Học viện. Đồng thời, Học viện cũng là
môi trường thuận lợi để mỗi học viên tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao
Tâm, Tầm, Trí của mình đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao khi ra trường. Để

thực hiện tốt Di chúc của Bác và chuẩn bị tốt các điều kiện khi ra trường thực
hiện chức trách chủ trì về chính trị ở đơn vị cơ sở, trước hết, mỗi học viên đào
tạo chính ủy phải có thái độ nghiêm túc, cầu thị trong việc tự tu dưỡng, rèn
luyện,trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng. Bởi lẽ, đạo đức cách mạng là nền
tảng là cốt lõi tạo nên cái Tâm của người cán bộ; đó là đạo đức hành động, đạo
đức trong học tập, rèn luyện trong công việc, trong quan hệ với đồng chí, đồng
đội. Trong Di chúc, Bác Hồ căn dặn: “Phải có tình thương yêu đồng chí lẫn
nhau”. Đây là điều nhắc nhở đối với mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, với mỗi
học viên đào tạo chính ủy nói riêng. Người học viên phải luôn chú ý xây dựng
cho mình phẩm chất gần gũi, yêu thương con người và tác phong cần có của
“người chị”, “người anh”, “người bạn” bộ đội như Bác Hồ đã dạy.
BM-TQP-01-01 Ver: 00

25


×