Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích chương trình tiếng việt lớp4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.63 KB, 23 trang )

PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT LỚP 4
I. Mục tiêu môn học:
1) Mục tiêu chung:
Vấn đề mục tiêu dạy – học tiếng mẹ đẻ là vấn đề đã được bàn cãi nhiều, kể
cả ở những nước mà tiếng mẹ đẻ đã có vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ
thông từ rất lâu như Đức, Liên Xô (trước đây).
Khi bàn về mục tiêu môn học người ta thường nêu ba mặt: giáo dưỡng (mặt nhận
thức, là xác định những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà môn học trang bị), phát
triển (phát triển tư duy) và giáo dục (giáo dục tư tưởng và tình cảm). Ba mặt này
gắn bó chặt chẽ với nhau.
Nói đến mục tiêu đặc thù của môn học Tiếng Việt, trước đây người ta
thường nói đến các vấn đề:
+ Thứ nhất là học để nắm kiến thức tiếng Việt (cấu tạo tiếng Việt, hệ thống
tiếng Việt gồm các kiểu đơn vị và quan hệ giữa chúng)
+ Thứ hai là học để giao tiếp – giao tiếp bằng bản ngữ. Môn Tiếng Việt trong
chương trình cải cách giáo dục xác định mục tiêu là cung cấp cho học sinh những
tri thức cơ bản, hiện đại về tiếng Việt, trên cơ sở đó hình thành cho học sinh kĩ
năng hoạt động lời nói bằng tiếng Việt. Mục tiêu của chương trình này được phát
biểu như sau:
 Môn Tiếng Việt bước đầu dạy cho học sinh nhận biết được những tri thức
sơ giản, cần thiết bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chính
tả, trên cơ sở đó rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ: nghe, nói đọc, viết, nhằm giúp
học sinh sử dụng tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp.
 Dạy học tiếng Việt nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và phát huy tính tích
cực hoạt động của học sinh. Thông qua môn Tiếng Việt dạy cho học sinh những
thao tác tư duy cơ bản, dạy cách học tập và rèn luyện những thói quen cần có ở
tiểu học
 Môn Tiếng Việt cần gợi mở cho học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của
ngôn từ tiếng Việt và hiểu được phần nào cuộc sống xung quanh. Môn Tiếng
Việt bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính, lành mạnh.


2) Mục tiêu môn Tiếng Việt lớp 4
 Phân môn tập đọc:
Rèn cho HS các kĩ năng : đọc, nghe và nói theo chủ điểm. Khác với các lớp
dưới, tập đọc lớp 4 tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban
đầu về tác phẩm văn học (đề tài, cốt truyện, nhân vật,. . .)góp phần rèn luyện
nhân cách cho HS . Luyện đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu đọc diễn cảm. Câu hỏi
tìm hiểu bài chú ý khai thác nghệ thuật biểu hiện nhiều hơn.

 Phân môn kể chuyện:
Rèn kĩ năng : nói, nghe và đọc. HS không kể lại những câu chuyện vừa
được học trong bài tập đọc như lớp 2,3 mà tập kể những câu chuyện được nghe
GV kể trên lớp hoặc được nghe, được đọc, được chứng kiến, tham gia trong đời
sống hàng ngày phù hợp với chủ điểm đang học .


 Phân môn luyện từ và câu:
Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và rèn luyện các kĩ
năng dùng từ đặt câu (nói, viết), rèn kĩ năng đọc cho HS. Khác với các lớp dưới,
ở lớp 4 có những tiết học riêng để trang bị kiến thức cho HS.

 Phân môn chính tả:
Rèn các kĩ năng : viết, nghe và đọc. Nhiệm vụ của HS là làm các bài tập
chính tả đoạn, bài (nghe viết hoặc nhớ viết) bài tập chính tả âm, vần. Bài tập
chính tả ngoài việc rèn kĩ năng viết, nghe và đọc còn cung cấp cho HS một số
vốn từ, vốn hiểu biết khác nhau của đời sống.

 Phân môn tập làm văn :
Rèn 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết ngoài ra còn dạy các kĩ năng kể chuyện
và miêu tả đồ vật, cây cối, con vật; rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi và rèn kĩ
năng viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn (giống lớp 3).


II. Cấu trúc chương trình:
SGK Tiếng Việt 4 (hai tập) gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ
điểm, học trong ba tuần (trừ chủ điểm Tiếng sáo diều học trong bốn tuần).

Các đơn vị học:
Tập 1: gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần.
Tuần Chủ điểm
1, 2, 3 Thương người như thể thương thân (nhân ái)
4, 5, 6 Măng mọc thẳng (trung thực, tự trọng)
7, 8, 9 Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ)
10 Ôn tập giữa học kì I
11, 12, 13 Có chí thì nên (nghị lực)
14, 15, 16, 17 Tiếng sáo diều (vui chơi)
18 Ôn tập cuối học kì I
Tập 2: gồm 5 chủ điểm học trong 17 tuần.
Tuần Chủ điểm
19, 20, 21 Người ta là hoa đất (năng lực, tài trí)
22, 23, 24 Vẽ đẹp muôn màu (óc thẫm mĩ)
25, 26, 27 Những người quả cảm (dũng cảm)


28 Ôn tập giữa kì II
29, 30, 31 Khám phá thế giới (du lịch thám hiểm)
32, 33, 34 Tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời)
35 Ôn tập cuối học kì II
Ở lớp 4, chủ điểm là những vấn đề về đời sống tinh thần của con người như
phẩm chất (nhân ái, trung thực, tự trọng, biết ước mơ, giàu nghị lực, dũng cảm,
lạc quan, yêu đời), năng lực (tìa năng, sức khoẻ, thẩm mĩ), sở thích (du lịch, thám
hiểm, vui chơi).


III. Nội dung từng phân môn:
 Tập đọc:
 Kiến thức
Gồm 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa
học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ (có 2 bài thơ ngắn được
dạy trong cùng một tiết).

 Kỹ năng
- Phân môn Tập đọc ở lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn,
đọc thầm đã được hình thành, phát triển từ các lớp dưới, đồng thời rèn luyện một
kĩ năng mới là đọc diễn cảm.
- Phân môn Tập đọc còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản
cụ thể là:
+ Nhận biết đề tài cấu trúc của bài.
+ Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để tóm ý.

 Thái độ
- Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS.
- Nội dung các bài tập đọc trong SGK phản ánh một số vấn đề cơ bản về
đạo đức, phẩm chất, sở thích, thú vui lành mạnh,… của con người thông qua
ngôn ngữ văn học và những hình tượng giàu chất thẩm mỹ và nhân văn, do đó có
tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm và nhân cách cho HS.

 Chính tả:
 Kiến thức
- Nghe - viết, nhớ - viết một đoạn trích từ bài Tập đọc hoặc từ các văn bản
khác có nội dung phù hợp với chủ điểm học tập của mỗi tuần theo quy định.
- Rèn học sinh viết đúng các từ ngữ dễ sai lẫn trong bài chính tả nghe -viết,

nhớ - viết, cụ thể:
+ Các từ có âm đầu ( g/gh, ng/ngh, k/c) hoặc âm chính có nhiều cách viết
(iê/yê/ia/ya; uô/ua; uơ/ưa).
+ Các từ có vần khó (uynh, uyu, oach, uêch, oong ..) xuất hiện trong các bài
chính tả.


+ Các từ mà phát âm của địa phương lệch so với chuẩn: các từ lẫn lộn phụ âm
đầu: s/x; d/gi; từ chứa tiếng có vần mang âm cuối n/ng; t/c; vần có âm đôi uô,
yê (VD: tuổi/tủi, tuyến/tiến…); từ chứa tiếng có vần au/ao, ăm/âm (VD: màu/
mào; tắm/ tấm).
+ Các từ có thanh dễ lẫn (thanh hỏi, thanh ngã).
- Rèn cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài có trong bài
chính tả.
- Ôn luyện cách viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và tên người, tên địa
lí nước ngoài.

 Kỹ năng
- Rèn luyện cách phát âm, củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng
Việt, góp phần phát triển một số thao tác tư duy cơ bản như: so sánh, liên tưởng,
ghi nhớ,…
- Chú trọng các từ dễ viết sai do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương,
biết phát hiện và sửa lỗi chính tả trong bài viết.

 Thái độ
- Thông qua nội dung các bài tập chính tả, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc
sống, con người cho học sinh.
- Thông qua các tổ chức thực hiện các bài tập chính tả, bồi dưỡng cho học
sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính
xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm, ...


 Luyện từ và câu:
 Kiến thức
- Ngữ âm: Sơ giản về cấu tạo của tiếng.
+ Từ vựng:
+ Từ ngữ (gồm cả thành ngữ, tục ngữ và một số từ Hán Việt thông dụng) về tự
nhiên, xã hội, con người (chú trọng từ ngữ về phẩm chất con người).
+ Sơ giản về từ đơn, từ phức (từ láy, từ ghép).
- Ngữ pháp:
+ Danh từ, động từ, tính từ.
+ Câu đơn và các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ.
+ Các kiểu câu: câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu cầu khiến.
+ Dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
- Biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa.

 Kỹ năng: (Yêu cầu kỹ năng về từ và câu)
- Từ
+ Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
+ Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo của tiếng.
+ Nhận biết từ loại.
+ Đặt câu với những từ đã cho.
- Câu
+ Nhận biết các kiểu câu.
+ Đặt câu theo mẫu.


+ Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
+ Thêm trạng ngữ cho câu.
+ Tác dụng của dấu câu.
+ Điền dấu câu thích hợp.

+ Viết đoạn văn với dấu câu thích hợp.

 Thái độ
Thông qua nội dung dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4, bồi dưỡng cho
học sinh ý thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng
Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hoá.

 Kể chuyện:
 Kiến thức
- Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; đã
được chứng kiến tham gia.
- Sơ giản về cốt truyện, nhân vật, lời kể chuyện, lời nhân vật.

 Kỹ năng:
- Củng cố kĩ năng kể chuyện đã được hình thành ở các lớp dưới.
- Hình thành những kĩ năng mới về kể chuyện, rèn luyện kĩ năng nói cho
HS.

 Thái độ:
Tôn trọng sự thật, không bóp méo sự việc; trong sáng, dễ hiểu khi sử dụng
từ ngữ.

 Tập làm văn:
 Kiến thức:
- Kết cấu 3 phần của bài văn kể chuyện và miêu tả (mở bài, thân bài, kết
bài). Lập dàn ý cho bài văn kể chuyện, miêu tả.
- Đoạn văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật).
- Bài văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật). Một số bài
văn thông thường: đơn, thư, tờ khai in sẵn.
- Một số quy tắc giao tiếp trong trao đổi, thảo luận; đơn, thư.


 Kỹ năng:
- Nhận diện loại văn bản
- Phân tích đề bài
Để thực hiện tốt kỹ năng này giáo viên phải yêu cầu học sinh: đọc
nhiều lần đề bài, tìm hiểu nghĩa của từ, từng vế câu, chọn ra các từ ngữ
quan trọng nhất. Từ đó trả lời mấy câu hỏi sau:
 Đề bài yêu cầu viết loại văn nào? (Miêu tả hay kể chuyện? Tả
phong cảnh hay tả người? …)
 Đề bài đòi hỏi giải đáp vấn đề gì? (Yêu cầu làm gì? Miêu tả ai,
cái gì? Kể lại câu chuyện nào? Tường thuật việc gì? Viết thư cho
ai, viết về cái gì?...)
 Phạm vi bài làm đến đâu? Trọng tâm bài là ở chỗ nào?
- Xác định dàn ý của bài văn đã cho.
- Tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn kể chuyện.


- Quan sát đối tượng , tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu
tả.
- Xây dựng đoạn văn.
- Liên kết các đoạn văn thành bài văn.
- Đối chiếu văn bản nói ,viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu
cầu diễn đạt.
- Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt .

 Thái độ:
Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy
lôgic, tư duy hình tượng; bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ và hình thành
nhân cách cho học sinh.


IV. Nhận xét:
1/ Thời lượng các phân môn:
 Phân môn tập đọc:
- Mỗi tuần có 2 tiết tập đọc.
- Các bài tập đọc được phân bố theo từng tuần cùng với phân môn khác
(TLV, Chính Tả, Kể Chuyện,…).
- Mỗi lớp có 10 chủ đề:

Tuần 1, 2, 3:Thương người như thể thương thân.


Tuần 4, 5 ,6: Măng mọc thẳng.



Tuần 7, 8, 9: Trên đôi cánh ước mơ.



Tuần 10: Ôn tập giữa HKI.



Tuần 11, 12, 13: Có chí thì nên.



Tuần 14, 15, 16, 17: Tiếng sáo diều.




Tuần 18: Ôn tập cuối HKI.



Tuần 19, 20, 21: Người ta là hoa của đất.



Tuần 22, 23, 24: Vẻ đẹp muôn màu.



Tuần 25, 26, 27: Những người quả cảm.



Tuần 28: Ôn tập giữa HKII.



Tuần 29, 30, 31: Khám phá thế giới.



Tuần 32, 33, 34: Tình yêu cuộc sống.



Tuần 35: Ôn tập cuối HKII.



>> Các chủ điểm xoay quanh những vấn đề đời sống tinh thần của con người
như phẩm chất (nhân ái, trung thực, tự trọng, giàu nghị lực,..), năng lực (tài
năng, sức khoẻ, thẩm mỹ), sở thích (du lịch thám hiểm, vui chơi).

 Phân môn chính tả:
- Phân bố 1 tiết/tuần.
- Gồm 31 tiết (chưa kể các tiết ôn tập):

 Nghe - viết: 23 tiết
 Nhớ - viết: 8 tiết

 Phân môn luyện từ và câu:
- Có 2 tiết/ tuần (chưa kể các tuần ôn tập).
- Những kiến thức lý thuyết được học thành tiết riêng (VD: Các tên bài Từ
ghép và Từ láy – lớp 4 tuần 4; Câu hỏi và dấu châm hỏi – lớp 4 tuần 13) và được
phân bố theo các lớp sau:

 Về vốn từ:
- HS được học thêm khoảng 500- 550 từ ngữ theo các chủ đề: Nhân hậu,
Đoàn kết, Trung thực, Tự trọng, Ước mơ, Ý chí, Nghị lực,…

 Kiến thức và kĩ năng vế từ và câu:
- Cấu tạo từ.
- Từ loại.
- Các kiểu câu.
- Cấu tạo câu.
- Dấu câu.
- Ngữ âm – Chính tả.


 Phân môn kể chuyện:
Gồm 70 tiết. Mỗi tuần có 1 tiết kể chuyện.
>> So với các lớp dưới thì các câu chuyện ở lớp 4 có độ dài lớn hơn, tình tiết
câu chuyện phức tạp hơn và nội dung sâu sắc hơn.

 Phân môn tập làm văn:
- Phân bố 2 tiết/ tuần.


- Ngoài các bài thực hành thì các bài lý thuyết được học thành bài riêng
như:
• Nói, viết: trao đổi ý kiến, giới thiệu địa phương, tóm tắt tin tức,…
• Bài văn kể chuyện: 19 tiết.
• Bài văn miêu tả: 30 tiết.
 Miêu tả đồ vật (10 tiết)
 Miêu tả Cây cối (10 tiết)
 Miêu tả Sự vật (10 tiết)

2/ Hệ thống tranh ảnh, câu hỏi:
a) Hệ thống tranh ảnh:
Hệ thống tranh ảnh đươc sử dụng nhiều nhất ở phân môn kể chuyện.Nhìn
chung vấn đề sử dụng tranh ảnh có những đặc điểm như sau:

Nhận xét:
- Câu chuyện được trình bày thành tranh hoặc tranh kèm theo lời dẫn ngắn
gọn trong SGK.Ở nhiều bài có thêm điểm tựa để nhớ truyện là tranh minh họa
và gợi ý dưới tranh.
- Các dạng bài tập đọc.Mỗi bài kèm theo một hoặc hai bức tranh.
- Tranh ảnh kích thích hứng thú cho HS.

VD: Quả Sầu Riêng: đã rất công phu sưu tầm bắt mắt liên quan đến hình ảnh
này.
- Sử dụng tranh ảnh để giúp HS nắm được cái biểu đạt của từ .
VD: “Mẹ ốm” có tranh minh họa nhằm giúp HS hình dung ra bài.
- Tranh mang tính sư phạm, tính giáo dục.
- Một vài bức tranh chụp cảnh thực có tính cụ thể, sinh động, gần gũi với
người học và đảm bảo chất lượng của yêu cầu về tính sư phạm, giáo dục.
VD: “Trống đồng Đông Sơn”.

Khuyết điểm:
- Tranh không làm nổi bật được nội dung cần truyền đạt (ở kênh chữ); ý
nghĩa khá mơ hồ, đôi khi phải đọc nội dung mới biết được thông điệp ẩn tàng đề
cập trong tranh.
VD: “Truyện cổ nước mình” (TV4 tập 1- tr19). Khi đọc bài thơ mới hiểu nội
dung mà tác giả muốn truyền đạt.

 Lưu ý:
- Khi sử dụng tranh ảnh, phải chú trọng tiêu chuẩn, đơn giản, rõ ràng,
không rườm rà, đặc biệt phải gắn liền với nội dung kiến thức ngôn ngữ Tiếng
Việt cần truyền đạt cho người học. Tranh ảnh từng bài phải làm nổi bật yếu tố
trung tâm đồng thời cũng nên in màu cho tất cả, không nên sử dụng tranh trắng
đen.

b) Hệ thống câu hỏi:
1*. Những câu hỏi có tính chất nhận diện, tái hiện ngôn ngữ của văn
bản:


Các câu hỏi này yêu cầu tính làm việc độc lập của HS chưa cao. HS chỉ
nhận diện ghi nhớ, phát hiện ra các từ ngữ, câu ,đoạn, hình ảnh chi tiết của văn

bản.
Yêu cầu xác định đề tài của bài: thường có 2 dạng trực tiếp” Câu chuyện
nói về ai ,về cái gì?
a*. Nhóm câu hỏi yêu cầu HS phát hiện ra các từ ngữ, chi tiết, hình
ảnh của bài:
VD: Tìm những chi tiết cho thấy cuộc sống ở vương quốc nọ rất buồn.
(Vương quốc vắng nụ cười-TV4 tập 2)
Lệnh của bài tập là gạch dưới, ghi nhớ hoặc những câu hỏi Ai? Gì?
Nào?. Câu hỏi có thể yêu cầu HS chỉ ra các từ mới hoặc các từ mà không hiểu
nghĩa. Câu hỏi cũng có thể yêu cầu HS phát hiện những từ ngữ chi tiết quan
trọng, hình ảnh đẹp trong bài.
VD: Những hình ảnh nói lên ước mơ của anh chiến sĩ trong đêm trung thu độc
lập?
(Trung thu độc lập-TV4 tập 1)
b*. Nhóm câu hỏi yêu cầu HS phát hiện ra những câu quan trọng của
bài
VD: Lòng dũng cảm của Cô-péc-ních và Ga-li-lê thể hiện ở chỗ nào?
(Dù sao trái đất vẫn quay!- TV4 tập 2)
c*. Nhóm câu hỏi yêu cầu HS phát hiện ra đoạn: thường có dạng Bài
này gồm mấy đoạn ? Mỗi đoạn từ đâu đến đâu?

2*. Làm rõ nghĩa của ngôn ngữ văn bản:
a*. Nhóm câu hỏi yêu cầu giải nghĩa từ
VD: Hãy giải thích ý nghĩa của những cách nói sau:
+ Ước “không còn mùa đông”
+ Ước “hóa trái bom thành trái ngon”
(Nếu chúng mình có phép lạ-TV4 tập 1)
b*. Nhóm câu hỏi yêu cầu làm rõ nghĩa, ý nghĩa của các câu, khổ thơ,
đoạn, chi tiết, hình ảnh
VD: Cậu bé không có gì cho ông lão nhưng ông lão nói: Như vậy là

cháu đã cho lão rồi”. Em hiểu cậu bé đã cho ông lão cái gì?
(Người ăn xin-TV4 tập 1)
c*. Nhóm câu hỏi tìm ý đại ý ,nội dung chính của bài
VD: Theo em, ý nghĩa của bài thơ này là gì?
(Chuyện cổ tích về loài người-TV4 tập 2)

3*. Nhóm câu hỏi hồi đáp
Đây là nhóm bài tập đọc hiểu yêu cầu tính độc lập làm việc của học sinh
cao nhất. Những bài tập này yêu cầu HS nêu nhận xét, đánh giá, bình giá của
mình về nội dung nghệ thuật của văn bản.
a*. Nhóm câu hỏi đánh giá về nội dung văn bản
VD: Câu chuyện này khuyên chúng ra điều gì?
b*. Nhóm câu hỏi yêu cầu làm rõ, bình giá về nghệ thuật của văn bản


Đây là những bài tập yêu cầu HS chỉ ra cái hay của việc dùng từ, giá trị của
từ ngữ, biện pháp tu từ, hình ảnh trong những bài thơ, bài văn miêu tả, những
nhân vật, nghệ thuật kể chuyện trong văn bản truyện.
VD:
- Em thích hình ảnh so sánh nào? Vì sao? (Chú chuồn chuồn nước-TV4 tập 2)
- Cách nói “dòng sông mặc áo” có gì hay? (Dòng sông mặc áo-TV4 tập 2)
- Em thích những hình ảnh nào về cây tre và búp măng non? Vì sao?
(Tre Việt Nam-TV4 tập 1)
c*. Nhóm bài tập tạo lập văn bản mới theo mẫu
VD: Qua những nét miêu tả trên, em thấy tác giả đã quan sát sự vật bằng những
giác quan nào?

3/ Các nguyên tắc xây dựng chương trình:
a) Tính khoa học:
- Nguyên tắc khoa học yêu cầu xem xét về cả cấu trúc lẫn nội dung môn

học. Nguyên tắc này cũng cần được xét trong quan hệ với nguyên tắc vừa sức,
tính hệ thống và nhất quán với nguyên tắc giao tiếp.
- Chương trình môn Tiếng Việt lớp 4 được chia làm 5 phân môn:
Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu (LTVC), Kể chuyện, Tập làm văn. Tuy được
chia làm 5 phân môn nhưng chúng không tách rời nhau mà cấu trúc này nhằm bổ
sung, hỗ trợ cho nhau giữa các phân môn. Đồng thời nội dung các phân môn qua
các tuần điều bám sát vào chủ điểm đã phân bổ.
Ví dụ:
Chủ điểm Thương người như thể thương thân (Tuần 1,2,3):
+ Tập đọc: Mèn bênh vực kẻ yếu, Mẹ ốm, Truyện cổ nước mình, Thư
thăm bạn, Người ăn xin.
+ Chính tả: Nghe- viết, nhớ viết bài tập đọc đã học trước đó.
+ LTVC: làm giàu vốn từ qua bài Mở rộng vốn từ: Nhân hậu – Đoàn
kết
+ Kể chuyện: Sự tích hồ Ba Bể (có ý nghĩa giáo dục lòng thương
người, ở hiền gặp lành, thương người thì được người thương).
+ Tập làm văn: dựa vào những kiến thức, nội dung, văn bản đã học
trong phân môn tập đọc, kể chuyện, vốn từ trong phân môn LTVC để
phát triển ngôn ngữ cho học sinh, và hệ thống lại các kiến thức về Kể
chuyện.
- Về chủ đề: ở lớp 4, các chủ đề trong các tuần chủ điểm mang tính trừu
tượng và phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết của học sinh.
Ví dụ:
+ Lớp 2,3: bạn bè, trường học, thầy cô, cha mẹ...mái ấm, tới trường,
cộng đồng… tính cụ thể.
+ Lớp 4: Thương người như thể thương thân, măng mọc thẳng, có chí thì
nên… tính trừu tượng.

b) Tính sư phạm:



- Chương trình môn học phải thống nhất với những mục tiêu giáo dục nhằm
hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt, hướng đến giáo dục lí tưởng sống
và những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh.
- Về chủ điểm: có 10 chủ điểm
+ Trong đó, 8 chủ điểm đầu tiên (Thương người như thể thương thân,
Măng mọc thẳng, Trên đôi cánh ước mơ, Có chí thì nên, Tiếng sao diều, Người
ta là hoa đất, Vẻ đẹp muôn màu, Những người quả cảm) giáo dục cho học sinh
đạo đức sống (thương người, ngay thẳng, nhớ về cuội nguồn); hướng học sinh
đến những lý tưởng, ước mơ tốt đẹp.
+ 2 chủ điểm (Khám phá thế giới, Tình yêu cuộc sống) giúp học sinh ham
học hỏi, khám phá những điều mới lạ xung quanh thông qua học tập.
- Tính sư phạm được thể hiện rõ nhất qua các phân môn như: Tập đọc,
Luyện từ và câu
 Phân môn Tập đọc: Trong phân môn Tập đọc, các bài đọc mang nội
dung bám sát chủ đề nên cũng có ý nghĩa giáo dục mang tính sư phạm như đã
nêu ở trên.
Ví dụ:
 Thương người như thể thương thân: Dế mèn bênh vực kẻ yếu, Mẹ ốm,
Truyện cổ nước mình, Thư thăm bạn, Người ăn xin.
 Măng mọc thẳng: Một người chính trực, Tre Việt Nam, Những hạt thóc
giống, Gà trống và Cáo, Nỗi dằn vặt của An-đrây- ca, Chị em tôi.
 Trên đôi cánh ước mơ: Trung thu độc lập, Vương quốc tương lai, Nếu
chúng mình có phép lạ, Đôi giày bata màu xanh, Thưa chuyện với mẹ,
Điều ước của vua Mi-đát.
 Có chí thì nên: Ông trạng thả diều, Có chí thì nên, “Vua tàu thuỷ” Bạch
Thái Bưởi, Vẽ trứng, Người tìm đường lên các vì sao, Văn hay chữ tốt.
……
 Phân môn luyện từ và câu: giải nghĩa và phát triển vốn từ liên quan đến
chủ đề, các vốn từ mang tính giáo dục cao.

Ví dụ:
 Thương người như thể thương thân: Mở rộng vốn từ Nhân hậu – Đoàn
kết.
 Măng mọc thẳng: Mở rộng vốn từ Trung thực – Tự trọng.
 Trên đôi cánh ước mơ: Mở rộng vốn từ Ước mơ.
 Có chí thì nên: Mở rộng vốn từ Ý chí – Nghị lực
……….

c) Tính thực tiễn:
Nguyên tắc thực tiễn đòi hỏi việc xây dựng chương trình phải tính toán đầy
đủ đến những điều kiện dạy học cụ thể ở từng địa phương trên phạm vi cả nước.
Chương trình phải xác định được chuẩn tối thiểu của môn học đồng thời phải có
độ mềm dẻo nhất định để có khả năng thực thi ở các vùng miền khác nhau.
Cụ thể: Theo xu hướng phát triển của thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa
ngày nay thì sách giáo khoa cũng được cải cách cho phù hợp và cập nhật nhiều
thông tin mới hơn.
Sách hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, nhiều bài đọc mang tính truyện
nhằm tăng tính hấp dẫn, làm cho học sinh ham học.


Ví dụ: + Tập đọc “Bốn anh tài” (kể về tài năng phi thường), “Vương quốc
vắng nụ cười” (cuộc sống tươi đẹp không thể thiếu vắng tiếng cười)….
Ở lớp 4, nội dung các chủ điểm vê sau cũng được mở rộng hơn như chủ
điểm “Vẻ đẹp muôn màu”, “Khám phá thế giới”, “Tình yêu cuộc sống”…
Thời lượng của môn Tiếng Việt lớp 4 phân bố khá thích hợp là 8 tiết/tuần
không quá nhiều cũng không ít.
Phương tiện dạy học cho các phân môn khá đơn giản dễ thực hiện, tìm
kiếm, như phân môn tập đọc, kể chuyện thì chỉ cần tìm tranh ảnh minh họa.
Đưa vào số lượng vừa đủ bài tập, nội dung vừa phong phú, đa dạng, vừa
có hiệu quả thiết thực và sắp xếp một cách hợp lí.


4/ Quan điểm xây dựng chương trình:
a) Quan điểm giao tiếp:
- Để thực hiện mục tiêu “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi”, SGK Tiếng Việt lấy quan điểm giao tiếp làm
định hướng cơ bản.
- Có thể nói giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc…
nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết hoặc sự cộng tác…giữa các thành viên trong
xã hội. Người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện nhưng phương tiện
thông dụng và quan trọng nhất là ngôn ngữ.
- Hoạt động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin) và kí
mã (phát thông tin); trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể được thực hiện bằng
hai hình thức là khẩu ngữ (nghe, nói) và bút viết (đọc, viết).
- Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và
phương pháp dạy học. Về nội dung, thông qua các phân môn Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, môn Tiếng Việt tạo ra môi
trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang
bị tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Về
phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập
mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
 Về Luyện từ và câu: Là phân môn thể hiện rất rõ quan điểm giao tiếp
trong chương trình, chẳng hạn như:
- Các bài về câu chú trọng hành vi sử dụng câu phục vụ mục đích giao tiếp.
Ta có thể thấy điều này ngay ở cách đặt tên các tựa bài: Dùng câu hỏi vào các
mục đích khác(T1/Tr142), Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi(T1/Tr151), Cách đặt
câu khiến(T2/Tr92), Thêm trạng ngữ cho câu(T2/Tr126), Thêm trạng ngữ chỉ nơi
chốn cho câu(T2/Tr129), Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu(T2/Tr134),
Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu(T2/Tr140), Thêm trạng ngữ chỉ mục
đích cho câu(T2/Tr150), Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu(T2/Tr160).

- Thông qua các bài học về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng
các kiểu câu phù hợp với nhu cầu, mục đích, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Bài “Dùng câu hỏi vào mục đích khác” (T1/Tr142) để thể hiện:
+ Thái độ khen, chê.
+ Sự khẳng định, phủ định.
+ Yêu cầu, mong muốn…


- Đặc biệt, SGK chú trọng đến việc dạy HS biết cách giữ phép lịch sự trong
giao tiếp.
Ví dụ: “Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi” (T1/Tr151), “Giữ phép lịch sự khi
bài tỏ yêu cầu đề nghị” (T2/Tr110).
- Ngoài ra các bài tập luyện từ và câu cũng được lựa chọn gắn với cuộc
sống hằng ngày để HS biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp đảm
bảo lịch sự khi đặt câu.
Ví dụ:
+ Bài tập 2 (Bài “Câu kể”, T1/Tr161)
+ Bài tập 1(Bài “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị”, T2/Tr111).
+ Bài tập 2(Bài “Câu cảm”, T2/Tr121).

 Về kể chuyện:
Bằng vốn từ ngữ đã có, HS nhớ và thuật lại truyện kể theo lời của mình.
Ví dụ:
+ Kể chuyện đã nghe, đã đọc.
+ Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.

 Về tập làm văn:
HS lựa chọn từ ngữ phù hợp để nêu lên ý kiến của mình về các vấn đề được
đưa ra.
Ví dụ:

+ Kể lại hành động của nhân vật (T1/Tr20)
+ Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật (T1/Tr32)
+ Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân (T1/Tr95 và Tr109)
+ Luyện tập tóm tắt tin tức (T2/Tr73)

 Về chính tả:
- Việc viết đúng chính tả và thực hành tốt các kỹ năng viết chữ có ý nghĩa
quan trọng trong giao tiếp.
- Dạy phân môn chính tả giúp học sinh phát triển năng lực sử dụng ngôn
ngữ ở dạng thức viết trong hoạt động giao tiếp.

b) Quan điểm tích hợp:
- Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết học hay một
bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường
hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Có thể thực hiện
tích hợp theo chiều ngang và chiều dọc.
1*. Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các
mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc
đồng quy. Hướng tích hợp này được sách Tiếng Việt 4 thực hiện thông qua các
chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn (Tập đọc, Kể chuyện,
Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau, nay được
tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài học; nhiệm vụ cung cấp kiến
thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.

Ví dụ: Ta lấy chủ điểm “Thương người như thể thương thân”.

 Tập đọc:
+ Bài “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” trích từ truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí



của Tô Hoài kể về chú Dế Mèn “giữa đường thấy chyện bất bình chẳng tha”
quyết ra tay bênh vực chị Nhà Trò yếu đuối.
+ Bài “Mẹ ốm” của Trần Đăng Khoa có hình ảnh người hàng xóm quan
tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nhưng nổi bật là tấm lòng yêu thương sâu sắc của
nhà thơ đối với người mẹ lam lũ, tần tảo của mình.
+ Bài “Thư thăm bạn”: Thể hiện sự quan tâm chia sẻ với những bạn
cùng trang lứa khi gặp bất hạnh trong cuộc sống, được thể hiện bằng cách
viết thư thăm hỏi và quyên góp tiền ủng hộ.
+ Bài “Người ăn xin”: Dù không có tiền nhưng cậu bé vẫn dành hết tình
thương và sự tôn trọng của mình đối với ông lão ăn xin.

 Luyện từ và câu:
Hệ thống các bài tập được thiết kế dựa trên việc sử dụng các ngữ liệu trích
ra từ bài Tập đọc hoặc ngữ liệu có liên quan đến chủ điểm đang học.
Bài “Mở rộng vốn từ: Nhân hậu-đoàn kết” (T1/Tr17 và Tr33):
+ Tìm các từ thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
+ Tìm các từ thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
+ Tìm các từ chứa tiếng hiền.
+ Đó là những câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ như: Bầu ơi thương lấy bí
cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; Ở hiền gặp lành; Lá
lành đùm lá rách….đều có nôi dung giống nhau là khuyên nhủ chúng ta
sống yêu thương và nhân ái.

 Kể chuyện:
+ Câu chuyện “Sự tích hồ Ba Bể” (T1/Tr8) cũng là câu chuyện thấm
đượm về lòng nhân ái. Câu chuyện nêu lên bài học quý: “Ở hiền gặp lành,
thương người thì dược người thương”.
+ Kể lại câu chuyện mà em đã được nghe, được học về lòng nhân hậu
(T1/Tr29).


 Tập làm văn:
+ Hình thành cho các em khái niệm kể chuyện, SGK yêu cầu các em
phân tích lại câu chuyện “Sự tích hồ Ba Bể” vừa học ở tiết kể chuyện trước.
+ Làm bài tập 1 và bài tập 2 (T1/Tr11).

 Chính tả:
Các bài viết chính tả đều có nội dung là sự yêu thương, quan tâm lẫn
nhau.
+ Nghe - viết: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (T1/Tr5).
+ Nghe - viết: Mười năm cõng bạn đi học (T1/Tr16).
+ Nghe - viết: Cháu nghe câu chuyện của bà (T1/Tr26).
2*. Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ
năng mới từ những kiến thức và kĩ năng đã được học trước đó theo nguyên tắc
đồng tâm. Cụ thể là: kiến thức và kĩ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến
thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới nhưng nâng cao hơn, sâu hơn kiến
thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới.


Theo quan điểm tích hợp, các phân môn trong một đơn vị học đều phục vụ
cho chủ điểm, nhưng do đặc trưng của mình, mỗi phân môn có cách thể hiện
riêng.

 Tập đọc:
+ Các chủ điểm học tập ở lớp 1, lớp 2, lớp 3 xoay quanh những lĩnh vực rất
gần gũi với học sinh (gia đình, thiên nhiên và xã hội, trường học…).
+ Các chủ điểm học tập ở lớp 4 là những vấn đề sâu xa hơn về đời sống tinh
thần của con người như:
• Phẩm chất : nhân ái, trung thực, tự trọng, biết ước mơ, giàu nghị lực,
dũng cảm, lạc quan, yêu đời (Thương người như thể thương thân,
Măng mọc thẳng, Trên đôi cánh ước mơ, Có chí thì nên, Tiếng sáo

diều).
• Năng lực: Tài năng, sức khoẻ, thẩm mĩ (Người ta là hoa đất, Vẻ đẹp
muôn màu, Những người quả cảm).
• Sở thích: du lịch, thám hiểm, vui chơi (Khám phá thế giới, Tình yêu
cuộc sống).

 Kể chuyện:
+ Lớp 2: Ở tập 1, học sinh kể lại câu chuyện đã học theo tranh có gợi ý. Sang
tập 2, kể không có gợi ý.
+ Lớp 3: Ở tập 1, học sinh tự sắp xếp lại các bức tranh và kể lại câu chuyện.
Sang tập 2, học sinh kể bằng lời của một nhân vật trong câu chuyện.
+ Lớp 4: Với mức độ khó hơn, ở tập 1, học sinh được tìm hiểu nội dung câu
chuyện qua lời kể của giáo viên (không có ngữ liệu trong SGK), sau đó học sinh
kể lại toàn bộ câu chuyện và trao đổi với nhau về các nhân vật, về ý nghĩa của
câu chuyện. Sang tập 2, học sinh kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, học
sinh được bày tỏ, nêu lên những điều mình đã quan sát, đã thực hiện và cảm nhận
được. Điều này có vai trò quan trọng không chỉ trong việc rèn kĩ năng trình bày,
thuyết trình của học sinh trước đám đông, mà còn rèn cho học sinh kĩ năng quan
sát, ghi nhớ.

 Chính tả:
+ Qua các lớp, các bài chính tả có độ dài dài hơn (Lớp 2, có độ dài trên dưới
40 chữ. Lớp 3, có độ dài trên dưới 60 chữ. Đến lớp 4, bài chính tả có độ dài trên
dưới 100 chữ.
+ Tốc độ viết cũng được tăng lên (Lớp 2, 45 – 50 chữ/15 phút. Lớp 3, 60 – 70
chữ/15 phút. Lớp 4, 80 – 90 chữ/15 phút).

 Tập làm văn:
+ Ở lớp 2 và lớp 3: Tập làm văn là những bài tập đơn giản như: tự giới thiệu,
chào hỏi, đáp lời trong các tình huống, nói theo chủ đề….

+ Còn đối với lớp 4, nội dung tập làm văn có thêm cả những kiến thức lí
thuyết. Đó là những kiến thức sơ giản về văn bản (kết cấu ba phần: mở đầu, phần
chính, kết thúc hay mở bài, thân bài, kết bài), đặc điểm, phương pháp làm bài
theo thể loại.

c) Quan điểm tích cực hoá hoạt động của học sinh:


- Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và SGK là
đổi mới phương pháp dạy và học: Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang
phương pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai
trò người tổ chức hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi
học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
- Thể hiện phương pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh, SGK Tiếng
Việt 4 không trình bày kiến thức như là những kết quả có sẵn mà xây dựng hệ
thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm
lĩnh kiến thức và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
Ví dụ: Ở phân môn Luyện từ và câu (kể cả Tập làm văn) trước đây Ghi nhớ
được nêu trước rồi mới cho học sinh áp dụng làm bài tập. Đối với SGK Tiếng
Việt 4 (sách mới), phần Nhận xét được đưa lên trước nhằm huy động vốn kiến
thức và kinh nghiệm của học sinh trước, từ việc trả lời câu hỏi mới hình thành
nên kiến thức mới, sau đó học sinh tự rút ra nội dung ghi nhớ. Cuối cùng, học
sinh tiến hành làm bài tập áp dụng, khắc sâu và mở rộng kiến thức vừa học.
Cụ thể là:
 Luyện từ và câu: Bài “ Động từ” (T1/T93)
I. Nhận xét: Với 2 câu hỏi:
1. Tìm các từ chỉ hoạt động của anh chiến sĩ hoặc của thiếu nhi.
2. Tìm các từ chỉ trạng thái của các sự vật (dòng thác, lá cờ).
II. Ghi nhớ.
III. Luyện tập: Với 3 bài tập:

1. Viết tên các hoạt động em làm hằng ngày ở nhà và ở trường. Gạch dưới
động từ trong các cụm từ chỉ những hoạt động ấy.
2. Gạch dưới động từ trong các đoạn văn sau:
3. Trò chơi Xem kịch câm: Nói tên các hoạt động, trạng thái được bạn thể
hiện bằng cử chỉ, động tác không lời.
 Tập làm văn: Bài “Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối”(T2/T30).
I. Nhận xét: phát huy được tính tích cực của học sinh ở việc khai thác
kiến thức từ bài đọc “Bãi ngô” qua trả lời 3 câu hỏi:
1. Xác định các doạn văn và nội dung của từng đoạn.
2. Đọc lại bài Cây mai tứ quý (TV4/T2/T23). Trình tự miêu tả trong bài
ấy có điểm gì khác bài Bãi ngô?
3. Từ cấu tạo của hai bài văn trên, rút ra nhận xét về cấu tạo của một bài
văn miêu tả cây cối.
II.
Ghi nhớ.
III. Luyện tập: Từ kiến thức vừa học, vận dụng để làm 2 bài tập
nhằm nhớ và khắc sâu kiến thức mới.
1. Đọc bài văn “Cây gạo” và cho biết cây gạo được miêu tả theo trình tự
như thế nào.
2. Lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen thuộc theo một trong hai cách
đã học:
a) Tả lần lượt từng bộ phận của cây.
b) Tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây.

5/ So sánh chương trình cũ và mới:


a) So sánh yêu cầu kiến thức, kĩ năng trong sách giáo khoa
Tiếng Việt 4 giữa chương trình cũ và chương trình mới:
- Một là sự khác biệt về trật tự sắp xếp trước sau các mục tiêu về kiến thức,

kĩ năng trong chương trình cũ so với chương trình mới (chương trình cũ đặt mục
tiêu trang bị kiến thức trước mục tiêu rèn luyện kĩ năng; chương trình mới đặt
mục tiêu rèn kĩ năng lên vị trí hàng đầu, trước mục tiêu trang bị kiến thức).
- Hai là thể hiện sự khác biệt về nội dung dạy học trong sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 4 cũ so với sách giáo khoa lớp 4 mới: chuyển từ chương trình chú
trọng dạy tri thức tiếng Việt theo lối hàn lâm sang chương trình chú trọng hình
thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp cho học sinh.

Có thể nói cụ thể hơn, ví dụ:
- Sự thay đổi hợp lý trật tự dạy văn kể chuyện trước văn miêu tả (trong sách
giáo khoa cũ, văn miêu tả được dạy trước văn kể chuyện do quan niệm văn miêu
tả dễ hơn văn kể chuyện).
- Về mức độ yêu cầu của sách giáo khoa lớp 4 mới so với sách cũ. Đến lớp
4, trong phân môn Luyện từ và câu, học sinh mới được trang bị một số kiến thức
lý thuyết từ ngữ, ngữ pháp. Các khái niệm danh từ, động từ, tính từ trước kia học
sinh được học từ lớp 2 thì nay - theo chương trình mới - đến lớp 4 các em mới
được học.
- Về cách diễn đạt các nội dung kiến thức cũng bớt tính hàn lâm và hợp lý
hơn; diễn đạt giản dị hơn kiến thức về câu: HS nắm được các kiểu câu đơn và
thành phần của câu đơn (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ); các kiểu câu phục vụ
những mục đích nói chuyên biệt: câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu cầu khiến.
- Trong sách giáo khoa cũ, kiến thức về câu được trình bày thành 2 mảng:
câu phân loại theo mục đích nói năng (câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm)
và câu phân loại theo cấu tạo (câu đơn, câu ghép; trong đó kiến thức về câu ghép
được phân loại thành câu ghép chính phụ - câu ghép đẳng lập; câu ghép có từ chỉ
quan hệ - câu ghép không có từ chỉ quan hệ). Đây là cách phân loại khó với học
sinh vì các em khó nhận ra sự liên quan giữa các kiểu câu.
Gọi câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến và câu cảm là những câu phân loại theo
mục đích nói cũng không thật chính xác. Tiêu chí nhận diện các loại câu này là
những dấu hiệu hình thức không hoàn toàn là mục đích giao tiếp: sự có mặt của

các từ để hỏi và dấu chấm hỏi ở cuối câu hỏi; sự có mặt của các từ cầu khiến ở
câu cầu khiến; sự có mặt của các thán từ, các từ quá, lắm, thật, thay ở câu cảm.
Trong thực tế, câu hỏi có thể được dùng để thực hiện các mục đích cầu khiến (Có
ăn đi không hở?); khẳng định (Sao cậu giỏi vậy?), phủ định (Thế này mà bảo là
ngoan à?). Câu kể có thể được dùng để cầu khiến (Cháu mời bà vào chơi.) hoặc
để hỏi (Mình không biết cậu còn nhớ kỉ niệm ngày xưa không.). Câu cầu khiến
cũng có thể được dùng để hỏi (Con hãy đọc cho mẹ biết tên truyện này là gì.).
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, tập 1 có bài Dùng câu hỏi vào mục đích khác
(tr.142) đã giúp học sinh hiểu phần nào điều này.

b) So sánh phương pháp dạy học sách giáo khoa Tiếng Việt 4
chương trình cũ và chương trình mới:
Về phương pháp dạy học trong chương trình cũ: giáo viên truyền thụ,
giảng giải để học sinh ghi nhớ, làm theo lời thầy.


Về phương pháp dạy học trong chương trình mới: khác về mục đích,
con đường đạt đến mục đích, do đó cũng thay đổi cơ chế hoạt động dạy học và
tiến trình tổ chức giờ dạy. Cụ thể:
- Mục đích giờ học không phải là giáo viên truyền thụ lời giảng của mình học sinh nghe, ghi nhớ và nhắc lại. Mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học
sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chiếm lĩnh được tri thức, hình thành, phát
triển kĩ năng, tạo ra được sự tự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách,
năng lực.
- Con đường đạt đến hiệu quả tự phát triển là sự vận động tự thân của mỗi
chủ thể học sinh (học sinh hoạt động, suy nghĩ, nghe, nói, đọc, viết).

- Hoạt động của giáo viên trong giờ học Tiếng Việt theo chương trình
mới:
Dạy sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, giáo viên cần tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp mới - tích cực hoá hoạt động của học sinh. Giáo viên
không thuyết giảng, làm thay học sinh mà tổ chức cho học sinh thực hiện các

nhiệm vụ nêu trong sách giáo khoa để các em tự chiếm lĩnh kiến thức và phát
triển kĩ năng thực hành.
Một số hoạt động chủ yếu của giáo viên:

1*. Giao việc cho học sinh:
Đây là khâu quan trọng. Giáo viên cần giúp học sinh cả lớp hiểu đúng yêu
cầu của câu hỏi, bài tập. Nội dung của khâu này là: Cho học sinh tự đọc thành
tiếng hoặc đọc thầm (giáo viên không làm thay, chỉ nêu yêu cầu, giải thích yêu
cầu trong trường hợp cần thiết), học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, bài tập
trong sách giáo khoa; Cho học sinh thực hiện một phần câu hỏi, bài tập trong
sách giáo khoa (làm thử, làm mẫu) trong trường hợp nhiệm vụ đặt ra trong câu
hỏi, bài tập là khó hoặc mới đối với học sinh; Tóm tắt nhiệm vụ, nêu những điểm
học sinh cần chú ý, cần ghi nhớ khi làm bài để tránh thực hiện bài tập sai hoặc
lạc đề.
Khi mời học sinh đọc trước lớp yêu cầu của câu hỏi, bài tập trong sách giáo
khoa, giáo viên cần nhắc nhở các em đọc đầy đủ, trọn vẹn toàn bộ nội dung của
câu hỏi, bài tập, tránh chỉ đọc phần lệnh, không đọc nội dung.

2*. Kiểm tra học sinh:
Trong quá trình học sinh làm bài tập, giáo viên cần kiểm tra xem từng học
sinh trong lớp có làm việc không, có học sinh nào trong lớp không hiểu việc phải
làm không, từ đó có biện pháp động viên, giúp đỡ kịp thời, cụ thể. Đây là thời
gian giáo viên có thể quan tâm nhiều hơn đến những học sinh yếu, kém, giúp các
em thực hiện đúng các yêu cầu của bài tập để các em tiến bộ, tự tin hơn.

3*. Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:
Các hình thức báo cáo có thể là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo
trong nhóm, báo cáo trước lớp. Các biện pháp báo cáo có thể là: báo cáo bằng
miệng hoặc bằng bảng con, bảng lớp, bằng phiếu học tập...; thi đua giữa các
nhóm hoặc trình bày cá nhân.

Báo cáo kết quả làm bài là hoạt động của học sinh. Giáo viên chú ý không
báo cáo thay học sinh, không tự mình so sánh kết quả làm bài của học sinh,
không làm thay những việc học sinh có thể tự làm. Trong trường hợp học sinh
làm bài trên phiếu (cá nhân hoặc nhóm), cả những việc như gắn phiếu lên bảng,


giáo viên cũng nên để học sinh các nhóm tự làm (để rèn đức tính khéo tay, nhanh
nhẹn), sau đó các em sẽ tự trình bày kết quả làm bài (rèn kĩ năng nói). Cách trình
bày kết quả làm bài cũng phải được xem là một tiêu chuẩn quan trọng khi tính
điểm thi đua.

4*. Tổ chức đánh giá với các hình thức đa dạng, phong phú,
có thể là:
Học sinh tự đánh giá, học sinh đánh giá nhau trong nhóm, học sinh đánh giá
nhau trước lớp, giáo viên đánh giá học sinh. Các biện pháp đánh giá có thể là:
khen, chê, cho điểm. Điều quan trọng của đánh giá là giáo viên phải khách quan,
công bằng, có lời nhận xét thuyết phục, động viên, khích lệ được học sinh cố
gắng học tập tốt hơn.
Ví dụ: có thể tham khảo hoạt động phần luyện đọc cho học sinh ở bài tập
đọc Nếu chúng mình có phép lạ
a) Luyện đọc
- 1-2 HS khá đọc cả bài, các HS khác đọc thầm theo.
- 4 HS đọc tiếp nối nhau từng đoạn của bài thơ (đoạn cuối gồm khổ thơ thứ
tư và 2 câu
cuối).
- HS trao đổi nhóm để tìm cách ngắt nhịp trong từng đoạn thơ : 4 nhóm tìm
cách ngắt nhịp
Ở 4 đoạn. Sau đó cả lớp thống nhất cách ngắt nhịp và ghi lên bảng phụ.
Nếu chúng mình có phép lạ
Bắt hạt giống nảy mầm nhanh

Chớp mắt / thành cây đầy quả
Tha hồ / hái chén ngọt lành
Nếu chúng mình có phép lạ
Ngủ dậy / thành người lớn ngay
Đứa thì / lặn xuống đáy biển
Đứa thì /ngồi lái máy bay.
Nếu chúng mình có phép lạ
Hái triệu vì sao xuống cùng
Đúc thành ông mặt trời mới
Mãi mãi/ không còn mùa đông.
Nếu chúng mình có phép lạ
Hoá trái bom / thành trái ngon
Trong ruột không còn thuốc nổ
Chỉ toàn kẹo với bi tròn.
- HS đọc trong nhóm theo ngắt nhịp đã thống nhất (cả bài).
b) Đọc diễn cảm và thuộc lòng bài thơ
- Đọc diễn cảm :
+ HS trao đổi nhóm để tìm các từ cần nhấn giọng trong từng đoạn : mỗi
nhóm tìm ở 1 đoạn
rồi thống nhất gạch dưới các từ nhấn giọng trên bảng phụ trước cả lớp :
+ HS luyện đọc diễn cảm trong nhóm theo ngắt nhịp và nhấn giọng đã thống
nhất.
+ HS thi đọc diễn cảm một đoạn thơ giữa các nhóm.
- Đọc thuộc lòng :
+ HS học thuộc từng đoạn trong nhóm. Sau khi thuộc đoạn, các em đọc nối
tiếp các đoạn để thành bài. Tiếp đó từng HS đọc thuộc cả bài.


+ HS thi đọc thuộc cả bài giữa các nhóm.


c) So sánh nội dung chương trình Tiếng Việt 4 giữa chương
trình cũ và chương trình mới:
 Phân môn Tập đọc:
1*. Chương trình sách giáo khoa cũ
- Ý nghĩa:
+ Các bài Tập đọc: Giúp học sinh nhận thức về thiên nhiên, về con người
trong quá khứ và hiện tại; làm nảy nở những ước mơ, khơi dậy sức lao động sáng
tạo của mỗi người; bồi dưỡng vốn hiểu biết, khiếu thẩm mĩ; càng thêm yêu quý
tiếng mẹ đẻ, trao dồi ngôn ngữ cho học sinh.
+ Các bài học thuộc lòng: giúp học sinh rèn luyện trí nhớ và với những điều
ghi nhớ được các em sẽ thấm dần và biết vận dụng vào cuộc sống.
- Nhiệm vụ:
+ Rèn kỹ năng đọc, luyện trí nhớ cho học sinh: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý
thức, đọc diễn cảm; rèn luyện trí nhớ cho học sinh ghi nhớ một cách có phương
pháp.
+ Làm giàu vốn kiến thức văn học, ngôn ngữ đời sống cho học sinh.
+ Bồi dưỡng năng lực cảm thụ, tình cảm và năng khiếu thẩm mĩ cho học sinh.

2*. Chương trình sách giáo khoa mới
- Phân môn Tập đọc ở chương trình mới đã có kế thừa những ưu điểm của
chương trình cũ, nhưng nó cũng có những điểm đổi mới hơn, chẳng hạn:
+ Trong các bước giảng dạy, việc luyện đọc được tiến hành trước khi tìm hiểu
bài. Dạy theo trình tự này thì giáo viên khỏi phải “cài phanh” khi quá say sưa tìm
hiểu nội dung bài đến mức lấn át việc luyện đọc cho học sinh như cách dạy trước
đây.
+Nét đổi mới so với trước đây về phương pháp giảng dạy Tập đọc được thể
hiện nhiều trong bước luyện đọc kết hợp giảng nghĩa từ.

 Phân môn Kể chuyện:
1*. Chương trình sách giáo khoa cũ

- Mỗi tuần 1 tiết.
- Nhiệm vụ:
+ Giáo dục nhân cách và năng khiếu thẩm mĩ.
+ Bồi dưỡng vốn sống và vốn kiến thức văn học cho học sinh.
+ Phát triển tư duy và năng lực vận dụng ngôn ngữ cho học sinh.
- Nội dung: Truyện kể thuộc thể loại cổ tích thần thoại, truyện ngụ ngôn,
truyện cười, truyện khoa học...
- Mức độ kỹ năng cần đạt: sau khi nghe giáo viên kể hoặc tự đọc, học sinh
kể lại được một cách mạch lạc kèm theo điệu bộ tự nhiên có phần diễn cảm .
- Phân môn này được viết thành một sách giáo khoa riêng. Sau mỗi câu
chuyện là các câu hỏi gợi ý cho học sinh trả lời. Phần ý nghĩa của truyện được
đóng khung riêng và học sinh cần ghi nhớ.

2*. Chương trình sách giáo khoa mới
- Mỗi tuần 1 tiết.
- Nhiệm vụ: bồi dưỡng nhân cách; mở rộng vốn sống, vốn hiểu biết cho học
sinh; phát triển tư duy và năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh…


- Nội dung: Bài kể chuyện ở lớp 4 gồm 3 dạng: kể chuyện đã nghe thầy cô
kể trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia.
+ Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp:11 tiết.
+ Kể chuyện đã nghe, đã đọc: 12 tiết.
+ Kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia: 8 tiết.
- Mức độ cần đạt: Học sinh lớp 4 tiếp tục được củng cố kỹ năng kể chuyện
qua kiểu bài Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp. Học sinh có
kỹ năng sưu tầm các câu chuyện khi được học các thể loại kể chuyện đã nghe, đã
đọc, kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia.
- Phân môn kể chuyện được trình bày xen kẽ với các phân môn khác của
sách giáo khoa Tiếng Việt 4. Cụ thể là nó được dạy sau tiết Luyện từ và câu thứ

nhất ở mỗi chủ điểm. Có các hình ảnh minh họa để hướng dẫn học sinh kể
chuyện.
- Khác với chương trình cũ, Truyện đọc lớp 4 không phải là sách giáo khoa
riêng cho phân môn Kể chuyện mà chỉ là một tài liệu tham khảo. Học sinh không
nhất thiết phải kể những câu chuyện trong sách Truyện đọc lớp 4 mà có thể, thậm
chí, nên mở rộng tìm kiếm sang toàn bộ sách báo trong nước, trước hết là sách
báo dành cho thiếu niên, nhi đồng.

 Phân môn Luyện từ và câu:
Phân môn Luyện từ và câu trong chương trình sách giáo khoa chương trình
cũ trước đây có tên gọi là Từ ngữ – Ngữ pháp.

1*. Chương trình sách giáo khoa cũ
 Từ ngữ:
- Mỗi tuần 1 tiết.
- Mục đích: Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của từ và dùng chính xác trong
học tập và giao tiếp; làm giàu vốn từ cho học sinh.
- Yêu cầu: Ôn các từ đã học, tập giải nghĩa các từ dễ, mở rộng vốn từ (từ
cùng nghĩa, trái nghĩa, gần nghĩa, từ ghép có cùng từ tổ gốc Hán), làm bài tập và
tập tra từ điển.
- Nội dung: Chủ yếu là thực hành, cung cấp những kiến thức từ ngữ cần
thiết cho học sinh (danh từ, tính từ, từ đơn, từ ghép, nghĩa của từ, từ cùng âm,
v.v...).
- Trong hệ thống sách giáo khoa phần Từ ngữ được viết thành 1 mục hoàn
chỉnh và được đặt trước phân môn Ngữ pháp, Chính tả, Tập làm văn.
 Ngữ pháp:
- Mỗi tuần 1 tiết.
- Mục đích: Cung cấp kiến thức cơ bản về cách đặt câu và sử dụng dấu câu;
có thói quen sử dụng đúng chuẩn mực tiếng Việt; có ý thức giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt.

-Yêu cầu: Nắm các quy tắc viết câu đơn và câu ghép thông thường; biết sử
dụng các dấu câu; trọng tâm chủ yếu là luyện tập và thực hành.
- Nội dung: cung cấp cho học sinh kiến thức: Tiếng Việt, chữ viết, câu, từ
nguyên âm, phụ âm, các bộ phận của tiếng, câu chia theo mục đích nói và các
câu tương ứng, câu chia theo cấu trúc câu đơn, dấu ngang trong câu đối thoại,
danh từ, tính từ, đại từ xưng hô, bổ ngữ, định ngữ.


- Trong hệ thống sách giáo khoa phần Ngữ pháp được viết thành từng phần
hoàn chỉnh. Mỗi khái niệm Ngữ pháp được đóng khung, in chữ nghiêng. Đó là
những định nghĩa, những quy tắc ngữ pháp học sinh cần phải ghi nhớ.

2*. Chương trình sách giáo khoa mới
- Vẫn kế thừa những ưu điểm của chương trình cũ và tiếp tục đổi mới về tên
gọi của phân môn là Luyện từ và câu, không còn tách riêng hai mục Từ ngữ và
ngữ pháp. Khác hẳn với chương trình cũ là dạy học sinh về câu kể rồi mới dạy về
câu hỏi thì khi đổi mới là câu hỏi được dạy cho học sinh trước hết tất cả các loại
câu.
- Đưa vào dạng bài tập là các câu đố để học sinh tư duy nhiều hơn.
- Luyện từ và câu cũng đươc trình bày xen kẽ với các phân môn khác của
Tiếng Việt trong mỗi chủ điểm. Chứ không như trước đây được viết thành một
mục riêng.
- Cấu trúc của một bài Luyện từ và câu là: Nhận xét, Ghi nhớ, Luyện tập.
Phần ghi nhớ được đóng khung lại và học sinh cần ghi nhớ.

 Phân môn Chính tả:
1*. Chương trình sách giáo khoa cũ
- Mỗi tuần 1 tiết.
- Có 2 hình thức viết: viết theo giáo viên đọc, viết những cặp từ dễ lẫn lộn
phụ âm đầu, vần, thanh và biết phân biệt nghĩa các từ đó trong khi viết.

- Bài chính tả dài 120 chữ.
- Yêu cầu: chữ viết đều nét, rõ ràng, sạch sẽ, không mắc lỗi chính tả thông
thường. Tốc độ viết 80 chữ trong 15 phút.
- Trong hệ thống sách giáo khoa, Chính tả được viết thành chương riêng.
- Cấu tạo một bài chính tả gồm:
+ Quy định khối lượng bài học sinh phải viết.
+ Nêu các trường hợp cụ thể cần phải viết đúng.
+ Bài tập để học sinh luyện tập.

2*. Chương trình sách giáo khoa mới
- Mỗi tuần 1 tiết.
- Có 2 hình thức viết: Chính tả đoạn bài: Nghe – viết, nhớ - viết một bài
hoặc một đoạn bài có độ bài dưới 100 chữ. Chính tả âm – vần: Luyện viết các từ
có âm, vần dễ viết sai chính tả do không nắm vững các quy tắc của chữ quốc ngữ
hoặc do ảnh hưởng tiêu cực của cách phát âm địa phương.
- Yêu cầu: Viết chữ đúng mẫu, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/bài.
- Tốc độ viết đạt từ 80 – 90 chữ/ 15 phút.
- Phân môn chính tả cũng không còn được viết thành chương riêng mà nó
cũng được viết xen kẽ từng bài trong các chủ điểm như các phân môn khác của
chương trình Tiếng Việt 4.
- Cấu tạo một bài chính tả gồm: phần viết và phần luyện tập.

 Phân môn Tập làm văn:
1*. Chương trình sách giáo khoa cũ
- Nhiệm vụ: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng các kiến thức đã
được học trong nhà trường và trong cuộc sống để viết một văn bản theo chủ đề
nhất định. Những kĩ năng đó là: phân tích đề, tìm ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn
văn, lập dàn ý và làm một bài văn hoàn chỉnh. Ngoài ra phân môn này còn củng



cố kiến thức đã học, bồi dưỡng năng lực tư duy và giáo dục đạo đức … cho học
sinh.
- Học sinh sẽ được học Tập làm văn theo loại thể nhất định ( miêu tả, kể
chuyện, tường thật) dưới dạng nói hoặc viết một văn bản hoàn chỉnh.
- Các kiểu bài Tập làm văn: Kiểu bài điền từ vào câu hoặc dùng từ đặt câu;
Kiểu bài trả lời câu hỏi; Kiểu bài miêu tả, kể chuyện; Kiểu bài tường thuật.

2*. Chương trình sách giáo khoa mới
- Về nội dung dạy học, nhìn chung, hai thể loại chiếm phần lớn chương
trình Tập làm văn lớp 4 là văn kể chuyện và văn miêu tả bao gồm cảnh vật, đồ
vật, con vật, cây cối. Bên cạnh hai thể loại này, học sinh còn được học thể văn
viết thư, tóm tắt truyện, tóm tắt tin tức, trao đổi ý kiến, điền vào tờ giấy in sẵn.
Có 4 nét mới nổi bật trong nội dung dạy Tập làm văn so với chương trình trước
đây.
+ Một là, văn kể chuyện không phải là yêu cầu học sinh kể lại chuyện đã được
nghe hay đọc mà là kiểu yêu cầu xây dựng và phát triển câu chuyện. Thể văn này
đòi hòi học sinh phải nắm rõ đặc điểm của truyện và cách thức tạo lập các yếu tố
của một văn bản truyện để có thể vận dụng thực hành tạo lập một văn bản truyện,
một hoạt động gần với hoạt động của nhà văn.
Ví dụ: Tiết tập làm văn đầu tiên của tuần 1. Sau khi học sinh phân tích
câu chuyện Sự tích hồ Ba Bể, từ nội dung, ý nghĩa của câu chuyện mà học
sinh có thể làm được các bài tập luyện tập. Học sinh đã có thể phát triển câu
chuyện theo ý bản thân.
+ Hai là, nội dung các đề bài Tập làm văn thường gắn với các bài tập đọc theo
chủ điểm trong tuần.
+ Ba là, hoạt động Tập làm văn theo thể loại được triển khai theo tiến trình:
học sinh nắm kiến thức về đặc điểm và cấu tạo thể loại văn bản; cấu tạo đoạn,
cấu tạo bài  Luyện tập phát triển ý và lập dàn ý  Luyện tập viết đoạn thân
bài, mở bài, kết bài  Luyện viết bài văn hoàn chỉnh.
+ Bốn là, cấu trúc một bài học Tập làm văn hầu như đều gồm 3 phần.

1/ Giới thiệu và hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu Tập làm văn mẫu
để nắm kiến thức về đặc điểm thể loại, hoặc nắm những kĩ năng làm văn cụ
thể nào đó.
2/Luyện tập củng cố kiến thức về đặc điểm thể loại hoặc thực hành kĩ
năng làm văn theo mẫu.
3/ Luyện tập thực hành mở rộng/tự do.
 Ở chương trình cũ thì phân môn này học sinh được học các thể loại Tập
làm văn theo thứ tự trước hết là văn miêu tả kế đến là văn kể chuyện và cuối
cùng là văn tường thuật. Nhưng ở chương trình mới thì học sinh được học thể
loại văn đầu tiên đó là văn kể chuyện rồi đến văn miêu tả, văn tường thuật không
còn được giới thiệu cho học sinh như chương trình cũ trước đây.



×