Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Kế toán dự phòng các khoản phải thu trong doanh nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.82 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thông tin kế toán càng ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh
tế thị trường. Đối tượng quan tâm của thông tin kế toán không chỉ dừng lại ở
các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư, khách hàng trong và ngoài nước mà
ngay cả các cơ quan nhà nước và hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, thông tin
kế toán luôn không ngừng được nghiên cứu và hoàn thiện.
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, cơ chế thị trường với những ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như quy luật thị trường, quy luật giá cả, các yếu tố
lạm phát, khủng hoảng kinh tế trong khu vực và trên thế giới, sự cạnh tranh
gay gắt tạo ra những cơ hội thách thức và cả những khó khăn mới cho doanh
nghiệp. Do đó, giỏ giá tị tài sản của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi tại các
thời điểm khác nhau và có thể gây ra nhiều tổn thất, rủi roc ho doanh
nghieeoj. Không ít doanh nghiệp đó phá sản chỉ sau một đêm. Chính vì vậy,
câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể phản ánh trung thực hơn, chính xác hơn
giá trị tài sản của doanh nghiệp trên cáo báo cáo kế toán đồng thời có thể bù
đắp được những thiệt hại, tổn thất có thể xảy ra. Xuất phát từ những yêu cầu
trên, đồng thời xuất phát từ nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc giá phí mà đòi
hỏi các doanh nghiệp thực hiện lập dự phòng.
Theo quy định của chế độ hiện nay, doanh nghiệp phải tiến hành lập dự phòng
giảm giá tài sản theo 3 loại: dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá
hàng tồn kho, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính. Vì dự phòng là
một nội dung có nhiều điểm mới giữa chế độ kế toán tài chính hiện nay so với
kế toán trước đây đồng thời cũng tồn tại nhiều vướng mắc và bất cập đòi hỏi
sự thay đổi điều chỉnh cho phù hợp. Với lí do đó, và nhờ vào sự hướng dẫn
của ThS Trần Quý Long Điều đó là cơ sở giúp tôi thực hiện đề án “Kế toán


dự phòng các khoản phải thu trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”.
Đề án chia làm 3 phần:
- Phần 1: Cơ sở lý luận của kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi
- Phần 2: Chế độ hiện hành về kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi


- Phần 3: Một số ý kiến nhận xét và biện pháp hoàn thiện kế toán dự phòng nợ
phải thu khó đòi


PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA KẾ TOÁN DỰ PHÒNG NỢ PHẢI THU
KHÓ ĐÒI
1. Bản chất dự phòng nợ phải thu khó đòi
1.1. Khái niệm chung về dự phòng
Theo chuẩn mực kế toán Quốc tế (IAS 37):
“ Một khoản dự phòng là một khoản nợ phải trả có giá trị và thời gian không
chắc chắn”
Trong đó, một khoản nợ phải trả là một nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp
phát sinh từ những sự kiện trong quá khứ, việc thanh toán các nghĩa vụ này
được dự tính là sẽ làm giảm các nguồn lợi kinh tế của doanh nghiệp gắn liện
với các lợi ích kinh tế.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18- Các khoản dự phòng, tài sản và
nợ tiềm tàng (ban hành ngày 28/12/2005) thì:
“ Một khoản dự phòng là khoản nợ phải trả không chắc chắn về giá trị hoặc
thời gian”
Các khoản này đã được ghi nhận là một khoản nợ phải trả (giả định đưa ra
một số ước tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa vụ phải trả hiện tại và chắc
chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ về khoản
nợ phải trả đó.
Tóm lại, có thể định nghĩa về dự phòng như sau:
Dự phòng thực chất là việc ghi nhận trước một khoản chi phí thực tế chưa
thực chi vào chi phí kinh doanh, chi phí đầu tư tài chính của niên độ báo cáo
để có nguồn tài chính cần thiết bù đắp những thiệt hại có thể xảy ra trong niên


độ sau. Dự phòng làm tăng tổng chi phí, do vậy nó đồng nghĩa với sự tạm thời

giảm thu nhập ròng của niên độ báo cáo- niên độ lập dự phòng.
1.2. Bản chất của dự phòng nợ phải thu khó đòi
Trong nền kinh tế thị trường, tính cạnh tranh cũng như khả năng xảy ra các
rủi ro trong kinh doanh là rất lớn. Vì vậy các doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động của mình thường cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro
có thể có cũng như việc dự tính các rủi ro đó. Và cũng do tính cạnh tranh gay
gắt trên thị trường nên các odanh nghiệp thường đưa ra các chiến lược bán
hàng hấp dẫn trong đó có chính sách bán hàng trả chậm. Thực tế cho thấy
trong các doanh nghiệp số nợ phải thu của khách hàng thường chiếm tỷ trọng
tương đối cao trong tổng tài sản của doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm
Hiện nay, do tính cạnh tranh cao, chiến lược bán hàng với chính sách trả
chậm một mặt tạo nên sức hút cho khách hàng; mặt khác gia tăng rủi ro cho
doanh nghiệp, đòi hỏi sự kiện toàn trong việc trích lập dự phòng nợ phải thu
khó đòi.
Theo thông tư 13/TT-BTC ngày 27/2/2006 (thông tư hiện hành về việc hướng
dẫn thực hiện kế toán dự phòng phải thu khó đòi) thì dự phòng nợ phải thu
khó đòi là dự phòng phần giá trị bị tổn thất của các khoản nợ phải thu quá hạn
thanh toán, nợ phải thu chưa quá hạn nhưng có thế không đòi được do khách
hàng không có khả năng thánh toán.
Nói cách khác, dự phòng phải thu khó đòi chính là khoản dự tính trước vào
chi phí sản xuất kinhd oanh phần giá trị bị giảm thấp xuống hơn so với giá
gốc đã ghi sổ kế toán của khoản nợ phải thu khó đòi nhằm phản ánh đúng giá
trị thuần có thể thực hiện được của tài sản doanh nghiệp.


1.2.2. Mục đích của việc lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
Việc trích lập này gồm 2 mục đích chính:
Một là, giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính để bù đắp tổn thất có thể xảy ra
trong năm kế hoạch.

Hai là, đảm bảo cho doanh nghiệp xác định được giá trị của các khoản nợ
phải thu không cao hơn giá trị có thể thu hồi được (giá trị thật) tại thời điểm
lập báo cáo tài chính
1.2.3. Vai trò của việc lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
1.2.3.1. Trên phương diện kinh tế
Nhờ các khoản dự phòng giảm giá nói chung trong đó đặc biệt là dự phòng nợ
phải thu khó đòi mà bảng cân đối kế toán phản ánh chính xác hơn giá trị thực
tế tài sản của doanh nghiệp.
Giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp = Giá trị ghi sổ của tài sản- Dự phòng
giảm giá tài sản đã lập
1.2.3.2. Trên phương diện tài chính
Do việc lập dự phòng giúp làm giảm lợi nhuận kì kế toán nên doanh nghiệp sẽ
có một khoản tích lũy mà đáng lẽ được phân chia cho các cổ đông, chủ sở
hữu… Khoản trích này được sử dụng để bù đắp các khoản nợ phải thu khó
đòi thực sự phát sinh và tài trợ cho các khoản chi phí hay lỗ đã được dự
phòng khi các chi phí này phát sinh ở niên độ kế toán sau. Thực chất dự
phòng nợ phải thu khó đòi nói riêng và các khoản dự phòng nói chung là một
nguồn tài chính của doanh nghiệp.
1.2.3.3. Trên phương diện thuế


Dự phòng nợ phải thu khó đòi được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lí
trước thuế, làm giảm lợi nhuận phát sinh để tính ra số lợi nhuận thực tế. Vì
vậy, việc lập dự phòng sẽ làm cho thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của
đơn vị giảm xuống một lượng đáng kể.
Đây là nguồn tài chính có được nhờ việc lập dự phòng, trì hoãn việc nộp thuế,
không mất chi phí huy động, doanh nghiệp có thể đầu tư vào hoạt động sản
xuất kinh doanh để sinh lời.
Việc lập dự phòng phải thu khó đòi có ý nghĩa rất lớn: Nhờ có dự phòng phải
thu khó đòi làm cho bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp phản ánh chính

xác hơn giá trị thực tài sản của doanh nghiệp. Và qua đó tạo được một quỹ
đáng lẽ đã phân chia để có thể bù đắp các khoản giảm giá trị tài sản thực sự
phát sinh ở niên độ sau.
2. Dự phòng phải thu khó đòi được thực hiện theo nguyên tắc kế toán
2.1. Nguyên tắc thận trọng
Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính
kế toán trong các điều kiện không chắc chắn.
Nguyên tắc này đảm bảo hai yêu cầu: Việc ghi tăng vốn chủ sở hữu chỉ thực
hiện khi có chứng cớ chắc chắn, và việc ghi giảm vốn chủ sở hữu chỉ được
ghi nhận ngay khi có chứng cứ có thể (chưa chắc chắn). Do vậy các khoản nợ
phải thu khi được xác định là khoản nợ khó đòi sẽ được doanh nghiệp lập dự
phòng (trích trước một khoản chi phí vào chi phí sản xuất kinh doanh để khi
xảy ra sẽ có một khoản bù đắp và giúp công tác kế toán chủ động hơn. Ngoài
ra, khoản dự phòng phải thu khó đòi giúp người sử dụng đánh giá đúng giá trị
thực tài sản của doanh nghiệp để đưa ra quyết định phù hợp đặc biệt là các
nhà quản trị doanh nghiệp.


Bên cạnh đó nguyên tắc thận trọng đòi hỏi phải lập các khoản dự phòng
nhưng không lập quá lớn bởi như vậy sẽ gây ra vi phạm về chính nguyên tắc
thận trong. Bởi nếu dự phòng phải thu khó đòi được lập quá lớn tức là chi phí
được hạch toán trong kì sẽ tăng lên nhiều từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh trong kì (lợi nhuận giảm) từ đó phản ánh không đúng sự thật,
cung cấp thông tin không chính xác cho những người quan tâm đến doanh
nghiệp và có thể sẽ dẫn đến các quyết định sai của nhà quản lý. Khi đó mục
đích lập dự phòng để nhằm áp dụng nguyên tắc thận trong sẽ không còn ý
nghĩa
2.2. Nguyên tắc phù hợp
Theo nguyên tắc này, tất cả các giá phí phải gánh chịu trong việc tạo ra doanh
thu, bất kể xuất hiện ở kì nào phải phù hợp với kỳ mà trong đó doanh thu

được ghi nhân. Điều này có nghĩa là khoản thiệt hại nợ khó đòi phải được báo
cáo cùng kỳ kế toán với doanh thu. Nhưng doanh nghiệp không thể biết vào
lúc nào trong thời gian bán chịu sẽ không thu được nợ do đó khoản thiệt hại
cũng không thể xác định cho tới cuối kỳ kế toán. Vì vậy để cho khoản thiệt
hại do nợ khó đòi được ghi nhận đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc tương xứng
giữa chi phí và doanh thu cần thiết phải ước tính khoản thiệt hại này vào chi
phí trong niên độ. Khoản chi phí này được ghi nhận trên báo cáo tài chính là
một khoản chi phí hoạt động. Cũng theo nguyên tắc này các số liệu của dự
phòng phải thu khó đòi phải được tính toán hợp lý và phù hợp với thực tế.
2.3. Nguyên tắc khác
Ngoài các nguyên tắc chủ yếu trên, kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi còn
liên quan đến một số nguyên tắc như:


Nguyên tắc khách quan thể hiện hở việc phải căn cứ vào điều kiện cũng như
tình hình khách quan để lập dự phòng. Việc tính toán quy mô dự phòng phải
được xác định một cách đáng tin cậy nhất.
Nguyên tắc nhất quán: trong quá trình kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi
tất cả các khái niệm, nguyên tắc, tính toán phải được thực hiện trên cơ sở nhất
quán từ kỳ này sang kỳ khác. Điều này tạo thuận lợi cho người sử dụng báo
cáo tài chính hiểu được sự thay đổi về tình hình báo cáo tài chính.

PHẦN II: CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN VỀ DỰ PHÒNG NỢ PHẢI THU KHÓ ĐÒI
1. Chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam về dự phòng nợ phải thu khó đòi.
1.1. Chuẩn mực kế toán quốc tế
1.1.1. Những quy định chung
Chuẩn mực kế toán quốc tế là một hệ thống các nguyên tắc kế toán trình bày
BCTC, các quy định về kế toán được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới do
IASB ban hành và thường xuyên nghiên cứu cập nhật bổ sung.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 37: Một khoản dự phòng chỉ được ghi

nhận khi thỏa mãn các điều kiện:
Thứ nhất, DN có nghĩa vụ nợ ( trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm liên đới)
do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra, dẫn tới sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể
xảy ra, giá trị của nghĩa vụ nợ đó có thể được ước tính một cách đáng tin cậy.
Thứ hai, giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính
hợp lý về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại ngày kết
thúc kỳ kế toán năm.


Thứ ba, các khoản dự phòng phải được xem xét và điều chỉnh tại mỗi thời
điểm kết thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính chính xác nhất tại thời
điểm hiện tại
Chú ý: IAS 37 quy định rõ không được ghi nhận các khoản dự phòng cho lỗ
hoạt động trong tương lai
1.1.2. So sánh việc trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi ở một số nước trên
thế giới với Việt Nam
1.1.2.1. Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi ở các nước Tây Âu.
Theo một số nước Tây Âu thì doanh nghiệp trích lập dự phòng giảm giá
khoản phải thu khách hàng vào cuối niên độ kế toán, Theo đó phương pháp
lập và hoàn nhập dự phòng được tiền hành như sau:
Kế toán tiến hành kiểm kê các khoản khách hàng đang nợ tiền của doanh
nghiệp và phân loại thành 2 nhóm:
+ Khách hàng tin cậy là khách hàng thanh toán tốt.
+ Khách hàng nghi ngờ là khách hàng lâm vào tình trạng phá sản, khó khăn
về tài chính,…
Tiếp đến kế toán lập dự phòng cho các khách hàng nghi ngờ trên cơ sở đánh
giá khả năng mất ( không đòi được) và số tiền nợ khách hàng nợ ngoài thuế
giá trị gia tăng theo công thức:
Số dự phòng nợ phải thu khó đòi = Số nợ ngoài thuế của khách hàng nghi ngờ
* số % có khả năng mất nợ.

Số dự phòng đã lập cho nợ phải thu khó đòi nếu không xảy ra thì được hoàn
nhập làm tăng thu nhập của doanh nghiệp


1.1.2.2. Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi ở Mỹ:
Hạch toán nợ khó đòi phải tuân thủ theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu
và chi phí. Theo đó, chi phí nợ khó đòi phải được phản ánh trên báo cáo thu
nhập cùng kỳ kế toán với doanh thu được ghi nhận. Do vậy, DN phải ước tính
nợ khó đòi như sau:
a. Phương pháp ước tính nợ khó đòi đưa vào thu nhập.
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng trong kỳ sẽ có một tỷ lệ nhất
định doanh thu bán chịu không thu được tiền và số nợ khó đòi được ước tính
dựa trên tỷ lệ nợ khó đòi trên doanh thu bán chịu của kỳ trước.
Chi phí nợ khó đòi ước tính= Doanh thu bán chịu* Tỷ lệ nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi được ước tính là số bình quân tỷ lệ thiệt hại của các năm
trước đó.
b. Phương pháo ước tính nợ khó đòi dựa vào Bảng CĐKT.
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng một phần của khoản phải thu
và ngày lập BCĐKT sẽ trở thành nợ khó đòi
+ Phương pháp giản đơn:
Với phương pháp này, doanh nghiệp ước tính có một tỷ lệ nhất định các
khoản phải thu hiện có vào thời điểm cuối kỳ sẽ trở thành nợ khó đòi. Tỷ lệ
ước tính này dựa trên kinh nghiệm của các doanh nghiệp hoạt động trong
cùng lĩnh vực. Chi phí nợ khó đòi ước tính cuối kỳ được xác định như sau:
Chi phí nợ khó đòi= Số dư khoản phải thu cuối kỳ * Tỷ lệ nợ khó đòi
ước tính
+ Phương pháp theo thời gian nợ của từng khách nợ.


Phương pháp này theo dõi chi tiết thời gian nợ của từng khách hàng qua đó

xây dựng tỷ lệ nợ khó đòi cho từng khoảng thời gian cụ thể. Nguyên tắc
chung của phương pháp này là thời gian nợ quá hạn càng lớn thì tỷ lệ nợ khó
đòi càng cao
Khi một khoản nợ khó đòi đã được lập dự phòng chắc chắn không thể thu hồi
được, kế toán tiến hành xóa sổ khoản nợ này như sau:
Nợ TK “Dự phòng nợ khó đòi”
Có TK “ Các khoản phải thu”
Nếu sau khi doanh nghiệp đã xóa sổ một khoản nợ khó đòi đã lập dự phòng
mà khách hàng thanh toán nợ, nếu cùng niên độ kế toán ghi:
+ Bút toán 1: Hoàn nhập khoản phải thu khách hàng đã xóa sổ
Nợ TK “Phải thu khách hàng”
Có TK “ Dự phòng nợ khó đòi”
+ Bút toán 2: Ghi nhận số tiền thu được từ khách hàng
Nợ TK “ Tiền”
Có TK “ Phải thu khách hàng”
Nếu khác niên độ kế toán ghi tăng thu nhập
Nợ TK “Tiền”
Có TK “ Thu nhập từ nợ khó đòi”
Ngoài ra, kế toán có thể sử dụng phương pháp trực tiếp. Phương pháp này giả
định rằng mọi doanh nghiệp đều sẽ thu được tiền trừ khi có bằng chứng khác.
Khi doanh nghiệp biết chắc chắn rằng một số khoản phải thu không thể thu
hồi thì doanh nghiệp có thể xóa sổ trực tiếp khoản nợ đó
1.1.3. So sánh với kế toán Việt Nam.


Tại Việt Nam, hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hàng do Bộ Tài Chính ban
hành được Hiệp hội kế toán và kiểm toán Việt Nam đánh giá là đã tuân thủ
khoảng 95% chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, với mỗi nước có đặc
điểm kinh tế, chính trị, văn hóa khác nhau nên việc hạch toán kế toán cũng có
sự khác nhau cơ bản. Ở Việt Nam, sự đặc thù về tình hình kinh tế, hiệu quả

quản lí thuế cũng như việc thích ứng phù hợp với môi trường toàn cầu của
một quốc gia đang phát triển cũng góp phần làm nên một vài điểm khác biệt
với việc kế toán dự phòng nợ phải thu khó đòi so với các quốc gia khác trên
thế giới. Làm phép so sánh về kế toán Việt Nam với kế toán Pháp và Mĩ như
sau:
1.1.3.1. So sánh kế toán Việt Nam với kế toán Pháp về kế toán dự phòng nợ
phải thu khó đòi.
Có thể nói kế toán dự phòng ở Việt Nam đi theo xu hướng giống kế toán
Pháp, cụ thể là về điều kiện trích lập, cách xử lý dự phòng, trích lập thêm. Ví
dụ, việc hoàn nhập dự phòng của Pháp được ghi tăng thu nhập và Việt Nam
cũng vậy (tăng thu nhập liên quan). Tuy nhiên, việc hạch toán của Pháp rất
chi tiết ( thể hiện trên hệ thống tài khoản).
Như vậy, có thể nói dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế nói chung, ở mỗi
quốc gia khác nhau lại áp dựng phương pháp hạch toán khác nhau tùy theo
đặc điểm và trình độ chung của đất nước.
Với dự phòng nợ phải thu khó đòi nói chung việc lập dự phòng của 2 nước
tương đối giống nhau về mục đích, thời điểm lập nhưng cụ thể thì có điểm
khác biệt.
Với kế toán Pháp cũng như Việt nam, MDF nợ khó đòi được tính như sau:
MDF phải thu khó đòi= số nợ phải thu khó đòi * số % có khả năng mất


Tuy nhiên, Pháp tính trên cơ sở số nợ phải thu ngoài thuế vì họ quan niệm
rằng: Thuế của hàng mua bán chỉ là thuế trả hộ, thu hộ nhà nước. Vì thế, phần
thuế của khoản phải thu khó đòi bị mất sẽ do nhà nước chịu. Còn Việt Nam
lại tính trên số có thuế, tức là DN phải chịu thêm % trên số thuế bị mất.
Điều này rõ ràng thiệt cho DN. Nhưng sao vẫn để như thế? Mọi người đều
chung ý kiến rằng trong điều kiện hiện nay, việc kiểm soát thuế VAT phải
nộp còn nhiều hạn chế, tốt nhất là chưa nên sửa đổi như với kế toán Pháp, nếu
không sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất thu thuế, chưa kể tới những gian lận

thuế có rất nhiều khả năng xảy ra. Nghĩa là nếu như có sự thay đổi thì điều đó
đòi hỏi sự đồng bộ từ khâu quản lí quá trình thu nộp thuế của các doanh
nghiệp và cá nhân, ý thức cộng đồng.
Ngoài ra, khi lập dự phòng, Việt Nam và Pháp đều ghi tăng chi phí. Nhưng
lúc hoàn nhập thì theo chuẩn mực và thông tư trước đây đều hướng dẫn trực
tiếp ghi giảm chi phí với bút toán ngược lại, còn từ thông tư mới nhất hiện
nay thì việc hoàn nhập được ghi vào thu nhập liên quan giống Pháp.
Ngoài ra, việc Việt Nam ghi nhận các khoản dự phòng nợ phải thu thiếu tính
chi tiết là một lỗi cần khắc phục. Việc chi tiết các đối tượng sẽ giúp doanh
nghiệp giảm thiểu được rủi ro và gia tăng hiệu quả quản lí với các đối tác tiềm
năng hoặc tiềm ẩn rủi ro.
1.1.3.2. So sánh kế toán Việt Nam với kế toán Mỹ
Kế toán Mỹ hướng dẫn và khuyến khích các DN trích lập dự phòng theo
phương pháp ước tính. Còn ở Việt nam khi các khoản nợ đã quá hạn hay xác
định là không thể thu hồi được mới lập dự phòng, điều này vi phạm nguyên
tắc phù hợp, làm cho DN không tự chủ được về mặt tài chính, tuy nhiên lại là
phương pháp cực kỳ đơn giản phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam.


Theo kế toán Mỹ việc ghi nhận một khoản khách hàng trả nợ cho khoản nợ đã
xóa sổ được ghi nhận khác biệt giữa cùng niên độ kế toán và khác niên độ kế
toán:
+ Nếu cùng niên độ kế toán thì ghi đảo bút toán xóa sổ sau đó ghi nhận việc
thu tiền của khách hàng như bình thường
+ Nếu khác niên độ kế toán thì ghi nhận khoản tiền thu như thu nhập khác.

1.2. Chuẩn mực kế toán Việt Nam
1.2.1. Khái quát về các văn bản
1.2.1.1. Khái quát chung về hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện kế toán dự
phòng phải thu khó đòi ở Việt Nam

Kế toán dự phòng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong doanh nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và nền kinh tế biến động không ngừng.
Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã không ngừng đưa ra các thông tư hướng dẫn
việc thực hiện kế toán dự phòng trong đó có dự phòng phải thu khó đòi. Mỗi
thông tư mới ra đời không ngừng được hoàn thiện hơn để phù hợp với tình
hình thực tế và điều kiện của các doanh nghiệp.
Thông tư 64/TC/TCDN ngày 15/9/1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc
trích lập và sử dụng các quỹ dự phòng trong doanh nghiệp.
Thông tư 17/2001/TT-BTC ra ngày 31/12/2001 thay thế cho thông tư
64/TC/TCDN về hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng
trong các doanh nghiệp cùng với thông tư 55/2002/TT/BTC ngày 26/6/2002
về hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam áp dụng cho doanh


nghiệp, các tổ chức có vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tiếp đó là
thông tư 13/2006/TT- BTC ra ngày 27/2/2006 hướng dẫn kế toán dự phòng
phải thu khó đòi đối với các doanh nghiệp thay cho 2 thông tư cũ. Gần đây
nhất là thông tư 228/2009/TT-BTC được hoàn thiện và thống nhất với Chuẩn
mực kế toán.
1.2.2. Giới thiệu về thông tư 228/2009/TT-BTC được sửa đổi bởi thông tư
34/2011/TT-BTC
1.2.2.1. Đối tượng và điều kiện
Khoản nợ phải đảm bảo có các điều kiện sau:
- Khoản nợ phải có chứng từ gốc, có đối chiếu xác nhận của khách nợ về số
tiền còn nợ, bao gồm: hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, bản thanh lý hợp
đồng, cam kết nợ, đối chiếu công nợ và các chứng từ khác.
Các khoản không đủ căn cứ xác định là nợ phải thu theo quy định này phải xử
lý như một khoản tổn thật.
Có đủ căn cứ xác định là khoản nợ phải thu khó đòi:
+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế ước

vay nợ hoặc các cam kết nợ khác.
+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế( các công
ty, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức tín dụng…) đã lâm vào tình
trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang
bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã
chết.
1.2.2.2. Phương pháp lập dự phòng


Doanh nghiệp phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn
của các khoản nợ và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó
đòi, kèm theo các chứng cứ chứng minh các khoản nợ khó đòi nói trên. Trong
đó:
- Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1
năm.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
+ 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.
- Đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm
vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ
trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi
hành án hoặc đã chết… thì doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi
được để trích lập dự phòng.
- Sau khi lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, doanh nghiệp
tổng hợp toàn bộ khoản dự phòng các khoản nợ vào bảng kê chi tiết để làm
căn cứ hạch toán vào chi phí quản lý của doanh nghiệp.
1.2.3. Xử lí khoản dự phòng:
- Khi các khoản nợ phải thu được xác định khó đòi, doanh nghiệp phải trích
lập dự phòng theo các quy định tại điểm 2 Điều này; nếu số dự phòng phải



trích lập bằng số dư dự phòng nợ phải thu khó, thì doanh nghiệp không phải
trích lập;
- Nếu số dự phòng phải trích lập cao hơn số dư khoản dự phòng nợ phải thu
khó đòi, thì doanh nghiệp phải trích thêm vào chi phí quản lý doanh nghiệp
phần chênh lệch;
Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng nợ phải thu
khó đòi, thì doanh nghiệp phải hoàn nhập phần chênh lệch ghi giảm chi phí
quản lý doanh nghiệp.

1.2.4. Xử lí tài chính các khoản nợ không có khả năng thu hồi
1.2.4.1. Các trường hợp được coi là nợ không có khả năng thu hồi
- Đối với tổ chức kinh tế:
+ Khách nợ đã giải thể, phá sản: Quyết định của Tòa án tuyên bố phá sản
doanh nghiệp theo Luật phá sản hoặc quyết định của người có thẩm quyền về
giải thể đối với doanh nghiệp nợ, trường hợp tự giải thể thì có thông báo của
đơn vị hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập đơn vị, tổ chức.
+ Khách nợ đã ngừng hoạt động và không có khả năng chi trả: Xác nhận của
cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc tổ chức đăng ký kinh doanh
về việc doanh nghiệp, tổ chức đã ngừng hoạt động không có khả năng thanh
toán.
- Đối với cá nhân phải có một trong các tài liệu sau:


+ Giấy chứng từ (bản sao) hoặc xác nhận của chính quyền địa phương đối với
người nợ đã chết nhưng không có tài sản thừa kế để trả nợ.
+ Giấy xác nhận của chính quyền địa phương đối với người nợ còn sống hoặc
đã mất tích nhưng không có khả năng trả nợ.
+ Lệnh truy nã hoặc xác nhận của cơ quan pháp luật đối với người nợ đã bỏ

trốn hoặc đang bị truy tố, đang thi hành án hoặc xác nhận của chính quyền địa
phương về việc khách nợ hoặc người thừa kế không có khả năng chi trả.
Xử lý tài chính:
Tổn thất thực tế của từng khoản nợ không thu hồi được là khoản chênh lệch
giữa nợ phải thu ghi trên sổ kế toán và số tiền đã thu hồi được (do người gây
ra thiệt hại đền bù, do phát mại tài sản của đơn vị nợ hoặc người nợ, do được
chia tài sản theo quyết định của tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền
khác…).
Giá trị tổn thất thực tế của khoản nợ không có khả năng thu hồi, doanh nghiệp
sử dụng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi, quỹ dự phòng tài chính (nếu có)
để bù đắp, phần chênh lệch thiếu hạch toán vào chi phí quản lý của doanh
nghiệp.
Các khoản nợ phải thu sau khi đã có quyết định xử lý, doanh nghiệp vẫn phải
theo dõi riêng trên sổ kế toán và được phản ánh ở ngoài bảng cân đối kế toán
trong thời hạn tối thiểu là 10 năm, tối đa là 15 năm kể từ ngày thực hiện xử lý
và tiếp tục có các biện pháp để thu hồi nợ. Nếu thu hồi được nợ thì số tiền thu
hồi sau khi trừ các chi phí có liên quan đến việc thu hồi nợ, doanh nghiệp
hạch toán vào thu nhập khác.


1.2.4.2. Hồ sơ xử lí xóa sổ nợ
- Biên bản của Hội đồng xử lý nợ của doanh nghiệp. Trong đó ghi rõ giá trị
của từng khoản nợ phải thu, giá trị nợ đã thu hồi được, giá trị thiệt hại thực tế
(sau khi đã trừ đi các khoản thu hồi được).
- Bảng kê chi tiết các khoản nợ phải thu đã xóa để làm căn cứ hạch toán, biên
bản đối chiếu nợ được chủ nợ và khách nợ xác nhận hoặc Bản thanh lý hợp
đồng kinh tế hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp,
tổ chức hoặc các tài liệu khách quan khác chứng minh được số nợ tồn đọng và
các giấy tờ tài liệu liên quan.
- Sổ kế toán, chứng từ, tài liệu chứng minh khoản nợ chưa thu hồi được, đến

thời điểm xử lý nợ doanh nghiệp đang hạch toán nợ phải thu trên sổ kế toán
của doanh nghiệp.
1.2.4.3. Thẩm quyền xử lí nợ
Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc Hội đồng
thành viên (đối với doanh nghiệp có Hội đồng thành viên); Tổng giám đốc,
Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng
thành viên) hoặc chủ doanh nghiệp căn cứ vào Biên bản của Hội đồng xử lý,
các bằng chứng liên quan đến các khoản nợ để quyết định xử lý những khoản
nợ phải thu không thu hồi được và chịu trách nhiệm về quyết định của mình
trước pháp luật, đồng thời thực hiện các biện pháp xử lý trách nhiệm theo chế
độ hiện hành.
2.1. Quy định về phương pháp, tài khoản và hạch toán dự phòng phải thu khó
đòi
2.1.1. Tài khoản sử dụng


TK 139 “ Dự phòng nợ phải thu khó đòi”
Đây là loại tài khoản điều chỉnh nên kết cấu của nó mang kết cấu của tài
khoản phản ánh nguồn. Cụ thể:
- Bên nợ:
+ Hòan nhập dự phòng phải thu khó đòi
+ Xử lý nợ phải thu khó đòi
- Bên có:
Lập dự phòng phải thu khó đòi ghi vào chi phí quản lí doanh nghiệp
Số dư có: Dự phòng các khoản phải thu khó đòi cuối kỳ.
2.1.2. Phương pháp lập dự phòng
Đã nêu ở ý trên.
2.1.3. Quy định về hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi
- Cuối niên độ kế toán căn cứ vào mức lập dự phòng phải thu khó đòi được
tính ghi:

Nợ Tk 642: Chi phí quản lí doanh nghiệp
Có Tk 139: Dự phòng phải thu khó đòi
- Cuối niên độ kế toán sau (N+1) tính mức dự phòng phải thu khó đòi cần
lập, nếu:
+ Mức dự phòng phải trích lập bằng số dư dự phòng nợ phải thu khó đòi thì
doanh nghiệp không phải trích lập
+ Mức dự phòng phải thu khó đòi cuối niên độ sau thấp hơn mức dự phòng
phải thu khó đòi đã trích lập năm trước.
Nợ Tk 642: Chi phí quản lí doanh nghiệp
Có Tk 139: Dự phòng phải thu khó đòi
+ Mức dự phòng phải thu khó đòi cuối niên độ sau thấp hơn mức dự phòng
phải thu khó đòi đã trích lập năm trước
Nợ Tk 139: Dự phòng phải thu khó đòi
Có Tk 642: Chi phí quản lí doanh nghiệp
Khi xóa nợ phải thu khó đòi, kế toán ghi:
Nợ Tk 139: Dự phòng phải thu khó đòi
Nợ Tk 642: Chi phí quản lí doanh nghiệp
Có Tk 131: Phải thu khách hàng


Đồng thời ghi vào bên nợ Tk 004: Nợ khó đòi đã xử lí ( theo dõi ít nhất 5 năm
tiếp theo và tiếp tục có biện pháp thu hồi)
+ Nếu khoản nợ phải thu khó đòi đã xóa, sau đó lại thu hồi được, kế toán
ghi:
Nợ Tk 111,112…
Có Tk 711: Thu nhập khác
Đồng thời ghi Có Tk 004: Nợ khó đòi đã xử lý
Sơ đồ: Hạch toán dự phòng nợ phải thu khó đòi

Tk 642


Tk 139

Hoàn nhập

Lập

dự phòng

dự phòng

Tk642

Số đã lập dự phòng
Tk
Tk 131

415
Trừ vào quỹ dự phòng tài chính

Xóa nợ

Số còn thiếu

2.1.4. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị các khoản dự phòng
2.1.4.1. Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn


Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn tồn tại xung quanh các sự kiện và các
trường hợp phải được xem xét khi xác định giá trị ước tính hợp lý nhất cho

một khoản dự phòng. Việc điều chỉnh các rủi ro có thể làm gia tăn giá trị các
khoản nợ đã được ghi nhận. Doanh nghiệp cần thận trong khi đưa ra những
đánh giá trong điều kiện không chắc chắn để không làm sai lệch thu nhập hay
tài sản và cũng không làm giảm chi phí và các khoản nợ. Doanh nghiệp cần
chú ý đến việc tránh những đánh giá trùng lặp đối với rủi ro và không chắc
chắn làm tăng các khoản dự phòng
2.1.4.2. Giá trị hiện tại
Nếu ảnh hưởng về giá trị thời gian của tiền là trọng yếu thì giá trị của khoản
dự phòng cần phải được xác định là giá trị hiện tại của khoản chi phí dự tính
để thanh toán nghĩa vụ nợ.
Phụ thuộc vào giá trị thời gian của tiền, các khoản dự phòng liên quan đến các
luồng tiền ra phát sinh ngay sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm có giá trị thực
cao hơn các khoản dự phòng có cùng giá trị liên quan đến các luồng tiền ra
phát sinh muộn hơn. Do đó các khoản dự phòng đều phải được chiết khấu khi
giá trị thời gian của tiền có ảnh hưởng trọng yếu.
Tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ trước thuế và phản ánh rõ những ước tính trên thị
trường hiện tại về giá trị tương lai của tiền và rủi ro cụ thể của khoản nợ đó.
Tỷ lệ chiết khấu không được phản ánh rủi ro đã tính đến của giá trị ước tính
luồng tiền trong tương lai
2.1.4.3. Các sự kiện xảy ra trong tương lai
Những sự kiện xảy ra trong tương lai có thể ảnh hưởng đến giá trị ước tính để
thanh toán nghĩa vụ nợ thì phải được phản ánh vào giá trị của khoản dự phòng
khi có đủ dấu hiệu cho thấy các sự kiện đó sẽ xảy ra.


Khi đánh giá nghĩa vụ nợ phải xét đến ảnh hưởng có thể xảy ra của các quy
định mới nếu có đủ các bằng chứng khách quan cho thấy quyết định này nhất
định sẽ được thông qua. Do có nhiều trường hợp phát sinh nên không thể xác
định được từng sự kiện riêng biệt để đưa ra bằng chứng đầy đủ, khách quan
cho mọi trường hợp. Bằng chứng được yêu cầu gồm cả quy định cần phải áp

dụng và xem xét quy định này có thông qua chắc chắn và được đem ra áp
dụng vào thời điểm thích hợp hay không. Trong một số trường hợp sẽ không
đưa ra bằng chứng khách quan, đầy đủ cho đến khi quy định mới được thông
qua.
2.1.4.4. Các khoản bồi hoàn
Khi một phần hay toàn bộ chi phí để thanh toán một khoản dự phòng dự tính
được bên khác bồi hoàn thì khoản bồi hoàn này chỉ được ghi nhận khi DN
chắc chắn nhận được khoản bồi hoàn đó. Khoản bồi hoàn này phải được ghi
nhận như một tài sản riêng biệt. Giá trị ghi nhận của khoản bồi hoàn đó không
được vượt qua giá trị khoản dự phòng.
Trong một số trường hợp DN có thể tìm kiếm một bên thứ ba để thanh toán 1
phần hay toàn bộ chi phí cho khoản dự phòng ( ví dụ thông qua các hợp đồng
bảo hiểm, các điều khoản bồi thường, hoặc giấy bảo hành sản phẩm của nhà
cung cấp). Bên thứ ba có thể thanh toán trực tiếp hoặc hoàn trả lại các khoản
doanh nghiệp đã thanh toán. Hầu hết các trường hợp, DN đều phải chịu và
phải thanh toán toàn bộ nghĩa vụ nợ nếu bên thứ 3 không có khả năng bồi
hoàn theo bất cứ nguyên do nào. Trường hợp này, phải ghi nhận khoản dự
phòng cho toàn bộ giá trị của khoản nợ, và phải ghi nhận khoản bồi hoàn đã
dự tính là tài sản khi chắc chắn sẽ nhận được khoản bồi hoàn đó nếu DN
thanh toán nghĩa vụ nợ. Có trường hợp DN không phải chịu các khoản chi phí
không rõ ràng nếu bên thứ 3 không thực hiện thanh toán. Trường hợp DN


không phải chịu các khoản chi phí thì các khoản chi phí này không được đưa
vào khoản dự phòng.
2.1.4.5. Thanh lý tài sản dự tính
Lãi từ hoạt động thanh lý tài sản dự tính được xét đến khi xác định giá trị của
các khoản dự phòng. Không được tính các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài
sản khi xác định giá trị của khoản dự phòng, ngay cả khi hoạt động thanh lý
dự tính gắn liền với sự kiện phát sinh khoản dự phòng đó. Thay vào đó, doanh

nghiệp phải ghi nhận các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản đã dự tính tại
một thời điểm quy định trong các chuẩn mực kế toán liên quan.
2.1.5. Trình bày trên báo cáo tài chính
Đối với mỗi loại dự phòng, doanh nghiệp phải trình bày trên thuyết minh báo
cáo tài chính:
a. Số dư đầu kì và cuối kì
b. Số dự phòng tăng do các khoản dự phòng trích lập bổ sung trong kỳ, kể cả
việc tăng các khoản dự phòng hiện có
c. Số dự phòng giảm trong kì do phát sinh các khoản chi phí liên quan đến
khoản dự phòng đã lập ban đầu
d. Số dự phỏng giảm do các khoản dự phòng không sử dụng đến được ghi
giảm trong kì
e. Số dự phòng tăng trong kì do giá trị hiện tại của khoản dự phòng tăng lên
theo thời gian và do ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ lệ chiết khấu dòng tiền.
3. Tại doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
3.1. Thực hiện trích lập dự phòng theo quy định và những ảnh hưởng


Các DN Việt Nam hiện nay khá ý thức được tầm quan trọng của việc trích lập
dự phòng nợ phải thu khó đòi. Điều này sẽ giúp cho các DN chủ động được
nguồn tài chính sẵn sàng ứng phó với những bất lợi trong tương lai.Thế
nhưng, đi đôi với điều này là nguy cơ lỗ trên Báo cáo tài chính của DN.
Ví dụ về CTCP Chứng khoán Hải Phòng (HPC) năm 2011 đã phải trích lập
71,5 tỉ đồng dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi. Tổng lỗ lũy kế đến cuối
năm 2011 lên tới 244 tỉ đồng. Vì tất cả các thông tin này đều được trình bày
trên BCTC nên các nhà đầu tư vẫn có thể theo dõi một cách khách quan về
tiềm năng và nguy cơ của HPC.
3.2. Không thực hiện trích lập dự phòng theo quy định và những ảnh hưởng
Rất nhiều DN Việt Nam hiện nay vì mục đích làm đẹp bảng BCTC mà bỏ qua
yếu tố dự phòng. Nhưng điều này không những không tuân thủ theo quy định

mà còn ảnh hưởng đến sự chủ động về tài chính trong tương lai của DN.
Ví dụ :Công ty cổ phần chứng Khoán An Bình (ABS) công bố báo cáo tài
chính kiểm toán 2011 với mức lãi 1,2 tỷ đồng, tuy nhiên đơn vị kiểm toán lại
cho biết ABS chưa trích lập dự phòng 14,5 tỷ đồng phải thu khó đòi. Khoản
trích lập này sẽ ảnh hưởng trọng yếu tới kết quả kinh doanh trong kì của DN
nhưng phản ánh một cách thỏa đáng về tình hình hoạt động và cung cấp số
liệu hợp pháp và hợp lí cho các nhà đầu tư.
3.3. Đánh giá chung việc thực hiện trích lập dự phòng trong bối cảnh nền kinh
tế hiện này
Xung quanh vấn đề trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi có rất nhiều vấn
đề, song kết luận lại: các DN hiện nay hoặc là chưa chú trọng trong việc tính
và trích lập dự phòng chi tiết cho từng khách hàng, hoặc là ý thức rõ việc trích
lập dự phòng này có khả năng “phù phép” và làm Báo cáo tài chính biến đổi


×