Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

bài báo cáo lỗ thủng tầng ozon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 38 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG

KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG



SINH THÁI MÔI TRƯỜNG

CHỦ ĐỀ:

LỖ THỦNG TẦNG OZONE

GVHD: Lê Thị Kim Oanh
Lớp: K13M01
Nhóm: 6
SVTH : Lê Thị Lành
Ngô Thảo Ngân
Võ Thị Như Hằng
Trần Thị Hải Đường
Nguyễn Thị Hương Giang
Lê Xuân Huỳnh Đức
Trương Anh Tuấn
Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2009
1


MỤC LỤC
I.ĐỊNH NGHĨA
1 Ozone (03)


2 Tầng ozone
II.NGUYÊN NHÂN GÂY RA LỖ THỦNG TẦNG OZONE
1.Nguyên nhân chính gây ra lỗ thủng tầng ozone
2.Các chất CFC làm thủng tầng ozone khí quyển
3.Tên lửa có thể phá hoại tầng ozone
4.Khí gây cười là hiểm họa của tầng ozone
III. HIỆN TRẠNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG DO THỦNG TẦNG OZONE
1.Sự suy giảm tầng ozone
2.Tầng ozone,thủ phạm khiến Trái Đất nóng lên
3.Lỗ thủng tầng ozone đang nhỏ lại
IV.ẢNH HƯỞNG CỦA TẦNG OZONE
1.Tới môi trường
2.Tới con người
3.Tới động, thực vật
V. ỨNG DỤNG CỦA OZONE
1.Ozone ứng dụng trong công nghệ cung cấp nước sinh hoạt
2. Ozone trong công nghệ nuôi trồng, trước hết là nuôi trồng thuỷ sản
3. Ozone trong chế biến , bảo quản thực phẩm
4. Ozone trong các ngành công nghiệp khác
5. Ozone trong làm sạch môi trường
VI.CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG HẠN CHẾ LỖ THỦNG TẦNG OZON
6.1. Thể Giới
6.2. Việt Nam
VII.KẾT LUẬN

2


LỖ THỦNG TẦNG OZONE
I/. ĐỊNH NGHĨA:

1. Ozone (03)

 Là một chất khí trong thiên nhiên, nằm trên tầng cao khí quyển của trái đất, hấp
thụ phần lớn những tia tử ngoại từ mặt trời chiếu xuống gây ra các bệnh về da. Chất
khí ấy tập hợp thành một lớp bao bọc quanh hành tinh.
 Là một dạng thù hình của oxi, trong phân tử của nó chứa 3 nguyên tử oxi. Ở

nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn ozone là chất khí có màu xanh nhạt, ozon hóa lỏng màu
xanh thẫm ở -1720C và hóa rắn có màu xanh thẫm ở -193oC. Ozone có tính oxi hóa
mạnh hơn oxi nhưng nó không bền dễ dàng phân hủy thành oxi phân tử và oxi nguyên
tử, theo phản ứng:

O3 = O2 + O

 Đặc tính hóa học của

ozone là có khả năng phản
ứng rất mạnh, phân hủy
nhiều chất hữu cơ, tiêu diệt
bào tử nấm và vi khuẩn, sau
kho xử lí bản thân nó lại biên thành dưỡng khí oxy, hoàn toàn không độc hại. Đặc biệt
có tác dụng khử mùi hóa chất, mùi tanh của hải sản, khử màu của nhiều dung dịch.
 Nó tồn tại với một tỷ lệ nhỏ trong bầu khí quyển Trái Đất. Nó có thể được tạo

thành từ O2 do phóng tĩnh điện, tia cực tím, ví dụ như trong các tia chớp, cũng như bởi
tác động của bức xạ điện từ trường cao năng lượng.Ozone được điều chế trong máy
ozone khi phóng điện êm qua ôxi hay qua không khí khô, tinh khiết. Trong thiên nhiên,
ozone được tạo thành khi có sự phóng điện trong khí quyển (sấm, sét), cũng như khi
ôxi hóa một số chất nhựa của các cây thông.


 Theo dạng tồn tại chia ra
3


 Khí ozone là ozone ở thể khí, nồng độ thấp không rõ màu, nồng độ cao có màu

khói lam nhạt...Công nghệ ozone thường sử dụng khí ozone và gọi tắt là Ozone
(Ozon).
 Nước ozone là ozone đậm đặc ở thể lỏng (có màu xanh lục).
 Hỗn hợp ozone thường là với không khí hay với nước.
Theo độ sạch chia ra

Ozone tạp (bẩn) - ngoài ozone còn lẫn nhiều tạp khí, nhất là độc khí NxOy gây
nguy cơ ung thư mà công luận đã cảnh báo. Những máy tạo khí ozone nạp trực tiếp
không khí bẩn có bụi, mốc, hơi ẩm, nitơ, oxýt carbon, tạp khí khác... vào buồng phóng
xung sét có điện áp cao tới vài vạn vôn, những khu vực gần đường dây siêu cao áp,
những nơi có phóng xạ hoặc sát máy gia tốc ... thường sinh ra ozone bẩn. Loại ozone
này chỉ có thể dùng vào việc sát khuẩn, khử độc khí thải, nước thải, dụng cụ thô sơ,
rác, nhà vệ sinh, chuồng trại, ao hồ chăn nuôi... Tuyệt đối không sục vào đồ ăn uống
của người, nhất là đồ ăn sẵn, không xả vào tủ lạnh có thức ăn chín, không xả vào
phòng đang có người dù nồng độ loãng dưới ngưỡng 0,1 ppm .
Ozone (tức ozone thường) ngoài ozone, ôxy còn kèm tạp khí trong đó có độc khí
NxOy, được tạo từ không khí đã được lọc bụi, sấy khô trước khi đưa vào buồng phóng
sét, do đó ozone sạch hơn. Đa số các máy tạo ozone đơn giản thuộc loại này.
Ozone ( an toàn - tạp khí ( gồm cả độc khí và NxOy ) đều ở dưới ngưỡng cho
phép, được tạo ra từ không khí đã lọc bụi, hút ẩm, và kích hoạt trước khi đưa vào
buồng phóng điện tần số trung bình (vài trăm đến vài nghìn Hz), điện áp trung bình
(dưới 6 -8 kV). Ozone an toàn dùng sát khuẩn khử độc không khí, làm sạch nước sinh
hoạt, làm sạch sơ bộ rau quả thực phẩm bình thường, làm sạch dụng cụ bếp, và có thể
dùng tắm rửa...

Ozone sạch - rất ít tạp khí. Ozone sạch thường mang điện tích âm, được tạo ra
trên điện cực triệt điện tích từ không khí đã lọc tạp khí, lọc bụi, hút ẩm, làm lạnh và
kích hoạt trước khi đưa vào buồng phóng điện sử dụng xung cao tần bất đối điện áp
thấp dưới 5 KV (Sáng chế độc quyền VN1- 0005122 thời hiệu '2003 - '2023). Ozone
sạch dùng sát khuẩn khử độc làm sạch nước ăn uống thông thường, làm sạch rau quả
thực phẩm,…
Ozone ( tinh sạch )- có hàm lượng ozone rên 50%, phần còn lại chỉ là ôxy, không
có tạp khí. Ozone tinh sạch được tạo ra từ khí ôxy tinh sạch hay không khí đã tách hết
ni tơ, hơi nước, bụi và các dị khí khác, hoặc bằng phương pháp điện phân.
Ozone ( tinh khiết )- thể khí có hàm lượng ozone 80 % trở lên (phần còn lại chỉ là
ôxy), phương cách phức tạp, giá cao, ít dùng.

4


2. Tầng ozone

 Trong bầu khí quyển có tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới dao

động trong khoảng độ cao 50km. Ở cao độ khoảng 25km trong tầng bình lưu này tồn
tại một lớp không khí giàu ozone (O3) được gọi là tầng ozone.
 Tầng ozone là sự tập trung các phân tử ozone ở tầng bình lưu. Khoảng 90%
lượng ozone trong khí quyển của chúng ta tập trung ở tầng bình lưu.
 Hàm lượng khí ozone trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ

cao 25 – 30 km khí ozone mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100000 trong khi quyển).

 Bề dày của tầng ozone được đo bằng đơn vị DU (1DU = 0,01mm) và có giá trị
từ 290-310 DU trên toàn cầu.


5


 Nếu tầng Ozone bị thủng, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống Trái

đất. Con người sống trên Trái đất sẽ mắc bệnh ung thư da, thực vật không chịu nổi
nhiều tia tử ngoại chiếu vào sẽ bị mất dần khả năng miễn dịch, các sinh vật dưới biển
bị tổn thương và chết dần. Bởi vậy các nước trên thế giới đều rất lo sợ trước hiện
tượng thủng tầng Ozone. Chính vì lý do đó, việc bảo vệ tầng ozone là trách nhiêm của
con người mà cũng là để bảo vệ chính mình.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY THỦNG TẦNG OZONE
1. Nguyên nhân chính gây ra lỗ thủng tầng ozone
 Khí freon bị phân giải bởi tia cực tím trong tầng bình lưu, tạo ra gốc Clo tự do:

C-F2-Cl2

UV

C-F2-Cl + Cl ( (gốc Clo tự do)

 Gốc Clo tự do phản ứng với ozone ở màng ozone, làm giảm nồng độ ozone

đồng nghĩa với việc loại trừ màng ngăn chặn tia cựa tím.
Cl + O3 = ClO + O2

 Những oxit nitric ( từ động cơ phản lực, sự nổ vũ khí hạt nhân, phân đạm trong
công nghiệp…) phản ứng với ozone tạo ra dioxit nitro và oxi cũng làm hao hụt lượng
ozone đáng kể.
 Tháng 10/1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí ozone trên không


trung Nam cực xuất hiện một lỗ thủng rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987,
các nhà khoa học Đức lại phát hiện khí tầng ozone ở vùng trời Bắc cực có hiện tương
6


mỏng dần có nghĩa chẳng bao lâu nữa tầng ozone ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. tin này
nhanh chóng được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận.
 Các nhà khoa học đều cho rằng, nguyên nhân này có liên quan trực tiếp tới việc

sản xuất và sử dụng tủ lạnh trên thế giới. Sở dĩ tủ lạnh có thể làm lạnh và bảo quản
thực phẩm được lâu là vì trong hệ thống ống dẫn khí khép kín phía sau tủ lạnh có chứa
loại dung dịch freon thể lỏng (thường gọi là gas). Nhờ có dung dịch hóa học này tủ
lạnh mới làm lạnh được. dung dịch freon có thể bay hơi thành thể khí. Khi chuyển
sang thể khí, freon bốc thẳng lên tầng ozone trong khí quyển Trái đất và phá vỡ kết
cấu tầng này, làm giảm nồng độ khí ozone.
 Không những tủ lạnh, máy lạnh cũng cần dùng đến freon mà trong dung dịch

giặt tẩy, bình cứu hỏa cũng sử dụng freon và các chất thuộc dạng freon. Trong quá
trình sản xuất và sử dụng các hóa chất đó không tránh khỏi thất thoát một lượng lớn
hóa chất dạng freon bốc hơi bay lên phá hủy tầng ozone. Qua đó chúng ta thấy rằng,
tầng ozone bị thủng chính là do các chất khí thuộc dạnh freon gây ra, các hóa chất đó
không tự có trong thiên nhiên mà do con người tạo ra. Rõ ràng, con người là thủ phạm
làm thủng tầng ozone, đe dọa sức khỏe của chính mình.
 Khói thoát ra trong các vụ phóng tên lửa có thể bào mòn tầng ozone, tạo điều
kiện cho các tia tử ngoại có hại từ mặt trời xâm nhập vào Trái Đất.
 Nhiều hội thảo quốc tế đã bàn tính các biện pháp khắc phục nguy cơ thủng rộng

tầng ozone. 112 nước thuộc khối Cộng đồng Châu Âu (EEC) đã nhất trí đến cuối thế
kỷ này sẽ chấm dứt sản xuất và sử dụng các hoá chất thuộc dạng freon. Vì vậy các
nhà khoa học đang nghiên cứu sản xuất loại hoá chất khác thay thế các hoá chất ở

dạng freon, đồng thời sẽ chuyển giao công nghệ sản xuất cho các nước đang phát
triển. Có như vậy, việc ngừng sản xuất freon mới trở thành hiện thực. Muốn đạt được
yêu cầu thiết thực này, không chỉ riêng một vài nước mà cả thế giới đều phải cố gắng
thì mới có thể bảo vệ được tầng ozone của Trái đất.

 Lỗ thủng ozone Nam Cực là phần của tầng bình lưu Nam Cực mà mức độ ozone

hiện tại đã giảm xuống chỉ còn 33% so với các trị trước năm 1975. Lỗ thủng ozone
xuất hiện vào mùa xuân ở Nam Cực, từ tháng 9 cho đến đầu tháng 12, khi gió tây
mạnh bắt đầu thổi tuần hoàn trên lục địa và tạo thành bầu chứa khí quyển. Trong các
"gió xoáy địa cực" này, hơn 50% ôzôn vùng phía dưới của tầng bình lưu bị phân hủy
trong mùa xuân.
 Ánh sáng mặt trời ở các vùng địa cực dao động nhiều hơn ở các nơi khác và

trong ba tháng mùa Đông hầu như là tối tăm không có bức xạ mặt trời. Nhiệt độ không
khí ở vào khoảng -80°C hay lạnh hơn gần như trong suốt mùa Đông đã tạo nên các
đám mây ở tầng bình lưu trên địa cực. Các phần tử của những đám mây này bao gồm
axít nitric hay nước đóng băng tạo nên bề mặt cho các phản ứng hóa học gia tăng tốc
độ phân hủy các phân tử ozone.

7


 Như đã giải thích ở phần trên, nguyên nhân chính của giảm sút ozone ở Nam

Cực và các nơi khác là sự hiện diện của các khí gốc có chứa clo (trước nhất là các
CFC và các hợp chất clo với cácbon liên quan) bị phân giải khi có tia cực tím tạo thành
các nguyên tử clo trở thành chất xúc tác phân hủy ozone. Sự giảm sút ozone do clo là
chất xúc tác có thể xảy ra ở trạng thái khí nhưng sẽ tăng đột ngột khi có sự hiện diện
của các đám mây tầng bình lưu trên địa cực. Các quá trình quang hóa tham gia tuy phức

tạp nhưng đã được tìm hiểu tốt. Quan sát chủ yếu là thông thường phần lớn các clo
trong tầng bính lưu ở trong các "hợp chất chứa" bền, chủ yếu là các hydro clorua
(HCl) và clo nitrat (ClONO2). Mặc dù vậy trong mùa Đông và Xuân Nam Cực các
phản ứng trên bề mặt của các phần tử mây chuyển hóa các hợp chất chứa này trở lại
thành các gốc tự do có hoạt tính cao, Cl và ClO. Các đám mây cũng có thể lấy đi NO2
từ khí quyển bằng cách biến đổi chúng thành axít nitric, ngăn không cho ClO vừa được
tạo thành có thể bị biến đổi trở lại ClONO2. Ánh sáng cực tím gia tăng trong mùa xuân
tạo cho các hợp chất clo phản ứng hủy diệt trên 17% ôzôn trong khi các hợp chất
brôm làm giảm sút thêm 33%. Vai trò của ánh sáng mặt trời trong giảm sút ozone
chính là lý do tại sao giảm sút ozone ở Nam Cực lớn nhất vào mùa xuân. Trong mùa
Đông, mặc dù có nhiều mây nhất, không có ánh sáng trên địa cực để thúc đẩy các
phản ứng hóa học. Phần lớn các ozone bị phá hủy ở phía dưới của tầng bình lưu đối
ngược với việc giảm sút ozone ít hơn rất nhiều thông qua các phản ứng thể khí đồng
nhất xảy ra trước hết là ở phía trên của tầng bình lưu. Nhiệt độ sưởi ấm vào cuối
Xuân phá vỡ các gió xoáy vào trong tuần tháng 12. Khi ấm lên, không khí giàu ozone
bay về các vĩ độ thấp, các đám mây tầng bình lưu bị phá hủy, các quá trình làm giảm
sút ozone ngưng lại và lỗ thủng ozone được hàn gắn trở lại.
 CFCs nặng hơn không khí, nếu CFCs hiện diện trong một căn phòng không có
gió, nó sẽ lắng xuống sàn nhà. Bầu khí quyển chúng ta luôn luôn xáo động bởi gió,
CFCs và không khí sẽ trộn lẫn vào nhau và cuối cùng chúng sẽ đến được tầng bình
lưu. Hàng ngàn phép đo đạc trong nhiều thập kỷ đã chứng minh sự hiện diện của các
chất khí nặng hơn không khí này ở tầng bình lưu.
 Hoạt động của núi lửa phóng thích một lượng lớn HCl vào khí quyển; muối
biển cũng chứa rất nhiều Chlor, nếu các hợp chất Chlor này tích tụ ở tầng bình lưu nó
sẽ là nguyên nhân chính làm suy giảm tầng ozone. Tuy nhiên, hoạt động của núi lửa
rất yếu để có thể đẩy HCl lên đến tầng bình lưu. Mặt khác các chất này cần phải có
"tuổi thọ" trong khí quyển từ 2 - 5 năm mới lên được tầng bình lưu theo cơ chế giống
như CFCs. Các chất này rất dễ hòa tan trong hơi nước của khí quyển, do đó nó sẽ
nhanh chóng theo mưa rơi xuống mặt đất. Một số sinh vật biển có khả năng tạo ra
methyl chloride (hợp chất bền); tuy nhiên, nó chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng

lượng chlorine ở tầng bình lưu. Theo các kết quả đo đạc cho thấy mặc dầu hoạt động
của núi lửa El Chichon (1982) có làm tăng hàm lượng HCl ở tầng bình lưu lên 10%
nhưng lượng này biến mất trong vòng 1 năm. Hoạt động của núi lửa Pinaturbo (1991)
không làm tăng hàm lượng chlorine ở tầng bình lưu. Các nhà khoa học đã làm các phép
tính chính xác cho thấy trong tổng lượng chlorine ở tầng bình lưu 3% là HCl (có lẽ từ
các hoạt động của núi lửa), 15% là methyl chloride, 82% là các ODS (trong đó hơn
phân nửa là do CFC11 và CFC12).
8


2. Các chất CFC làm thủng tầng ozone khí quyển:

 Ở khoảng độ cao 11 - 50 km so với mặt biển được coi là tầng bình lưu của khí

quyển. Trong tầng này dường như không còn mây nên bức xạ cực tím (UV) của mặt
trời rất mạnh. Trong điều kiện này có nhiều phản ứng quang hoá xảy ra, trong đó có
phản ứng tạo ozone. Dưới sự tác động của tia UV bước sóng ngắn (242nm) các phân
tử oxy bị bẻ gãy thành các nguyên tử.
O2 → O(3P) + O(3P)
 Sau đó O(3P) tác dụng với phân tử O2 để tạo ra phân tử O3 (ôzôn)

O(3P) +O2 = O3
 Trung bình ở độ cao 20 -25 km nồng độ O3 tối đa có thể đạt 7 ppm. Lớp này gọi

là lớp giàu ozone. Ở các vùng cực, lớp này ở gần mặt đất hơn vài km so với ở vùng
xích đạo. Lớp giầu ozone của khí quyển có khả năng hấp thụ mạnh các tia UV (nhất
là ở vùng sóng 254nm) và cả các tia đỏ (ở vùng 600 nm) và sự hấp thụ này rất quan
trọng trong quá trình phân phối năng lượng của khí quyển phía bên dưới, làm thay đổi
quá trình đối lưu của không khí và ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự sống trên trái đất vì
chính các tia UV có tác động trực tiếp đến các phân tử ADN của các tế bào. Cũng vì lý

do trên mà chiếc "áo" ozone được xem như lá chắn bảo vệ sự sống trên mặt đất. Sự
mỏng đi hoặc dầy lên của lớp giầu ozone trong khí quyển do nhiều yếu tố quyết định
và đến nay người ta cho rằng một số chất tồn tại trong khí quyển như các NOx, các
hợp chất clo-flo cacbon (CFC) có vai trò quan trọng trong việc phá huy tầng ozone.
 Các NOx có thể do con người (nền công nghiệp) hoặc do các hiện tượng tự

nhiên tạo ra (sấm, sét...), nhưng các CFC thì duy nhất chỉ xuất phát từ hoạt dộng của
con người. Các CFC, đặc biệt CFCl3 (R11), CF2Cl2 (R12), và CHClF2 (R22) đã được
dùng lâu nay trong công nghiệp lạnh hoặc trong công nghiệp tạo bột xốp polyurethan.
Hàng năm trên thế giới đã sử dụng trên 2 triệu tấn các chất này và một lượng không
nhỏ của chúng bị phát thải vào không khí.
 R11, R12 không có chứa nhóm CH được gọi là các chất CFC "cứng". Chúng rất
khó bị kết hợp hoặc phá huỷ nên chúng dần dần khuyếch tán khắp bầu khí quyển và
9


tồn tại lâu hàng trăm năm. Chỉ có các CFC "mềm" như R22 mới bị phân huỷ dần từng
phần trong tầng đối lưu.
 Các CFC trong tầng bình lưu sẽ bị tác động của ta UV ngắn (< 230 nm) và bị

bật gốc clo Cl* ra. Cl* sẽ tiếp tục tác dụng với ozone (O3) và các gốc ôxy (*O*) để
thành phản ứng tiếp diễn liên tục phá huỷ ozone
CFC → Cl*
Cl* + O3 → ClO* + O2
ClO* + *O* → Cl* + O2

 Theo ước tính, hiện nay các phản ứng trên có thể làm mất từ 2-8% lượng ozone

trong các tầng bình lưu dưới độ cao 100 km.
 Riêng ở vùng Nam Cực lượng mất ozone càng trầm trọng, nhất là vào mùa

đông. Vì vào mùa đông có sự tạo các đám mây ty do các sol khí núi lửa. Các đám mây
ty chứa các tinh thể băng rất nhỏ và trên bề mặt các hạt băng này sẽ sảy ra các phản
ứng dị thể giữa CFC, ozone và *O* để duy trì các phản ứng phá huỷ ozone. Ngoài ra
còn một loạt phản ứng nữa liên quan đến sự có mặt của NO2 trong tầng bình lưu để
tạo ra Cl* và phá huỷ ozone.
 Cũng vì lý do trên, các chất CFC ngoài gây hiệu ứng nhà kính, còn bị quy kết là
nguyên nhân quan trọng làm mỏng lớp ozone của khí quyển và theo Nghị định thư
Montreal, người ta đang cố gắng cắt giảm sự sản xuất và sử dụng các chất này, đặc
biệt là các CFC "cứng".
3. Tên lửa có thể phá hoại tầng ozone
 Khói thoát ra trong các vụ phóng tên lửa có thể bào mòn tầng ozone, tạo điều

kiện cho các tia tử ngoại có hại từ mặt trời xâm nhập vào trái đất.

10


Tên lửa thải ra khí clo trên tầng bình lưu. Tại đây clo phản ứng với oxy và tạo ra clo oxit, một chất
phá hủy ozone. Ảnh: nasaimages.org
 Nhờ các đạo luật quốc tế mà những hóa chất có hại đối với tầng ozone như

chlorofluorocarbon (CFC), methyl bromide đang giảm dần. Nhưng khi phóng các tên
lửa dùng nhiên liệu rắn, chúng thải trực tiếp khí clo ra tầng bình lưu (cách bề mặt trái
đất khoảng 50 km). Tại đây clo phản ứng với oxy để tạo ra clo oxit - chất có khả năng
hủy diệt ozone.
 Trong bối cảnh các vụ phóng vệ tinh, tàu vũ trụ trên khắp thế giới ngày càng

tăng, những quả tên lửa sẽ sớm trở thành hiểm họa đáng sợ nhất đối với tầng ozone.
“Tình hình hiện nay chưa đến mức khẩn cấp, song nếu chúng ta đợi thêm 30 năm nữa,
mọi chuyện sẽ khác”, Darin Toohey, một nhà khoa học của Đại học Colorado (Mỹ),

phát biểu.
 Hiện nay Mỹ, Liên minh châu Âu và Ấn Độ sử dụng cả nhiên liệu lỏng và nhiên

liệu rắn cho tên lửa của họ. Hỗn hợp này tồn tại dưới dạng bột hoặc tinh thể. Riêng
Nga và Trung Quốc chỉ sử dụng nhiên liệu lỏng. Nhiều nhà khoa học cho rằng nhiên
liệu lỏng trong tên lửa có mức độ gây hại đối với tầng ozone thấp hơn so với nhiên
liệu rắn.

 “Những tên lửa trong tương lai sẽ sử dụng nhiên liệu lỏng và chúng sẽ bay lên
trời với tần suất gấp 10 tới 100 lần hỏa tiễn ngày nay. Với tần suất cao như thế, tôi
đoán rằng tầng ozone sẽ chịu tác động tiêu cực trong vòng 10 đến 20 năm nữa. Tuy
nhiên chúng ta chưa có bằng chứng để chứng minh nhận định này”, Martin Ross, một
nhà nghiên cứu khí quyển của tập đoàn Aerospace tại thành phố Los Angeles (Mỹ),
phát biểu.

11


 Mỗi loại nhiên liệu trong tên lửa có mức độ ô nhiễm khác nhau. Một số nhiên
liệu giải phóng các hoá chất vào tầng không khí thấp. Tại đây chúng nhanh chóng
biến mất nhờ những cơn mưa. Một số loại khác thải hóa chất ở tầng bình lưu, nơi
chúng tồn tại lâu hơn và phản ứng với hóa chất khác.
 Từ năm 1979 tới năm 1990 lượng ozone trong tầng bình lưu suy giảm khoảng
5%. Vì tầng ozone ngăn cản phần lớn các tia cực tím có hại từ mặt trời, sự suy giảm
của nó trở thành một mối quan tâm toàn cầu. Các nước đã ký kết Nghị định thư
Montreal về hạn chế và chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng và sản xuất các hợp chất
carbon của clo và flo cũng như các chất hóa học gây suy giảm tầng ozone khác.
 Sự suy giảm ozone thay đổi tùy theo vùng địa lý và tùy theo mùa. Lỗ thủng
ozone dùng để chỉ sự suy giảm ozone nhất thời hằng năm ở hai cực trái đất. Nồng độ
clo tăng cao trong tầng bình lưu (clo xuất hiện CFC và các khí khác do loài người sản

xuất ra bị phân hủy) chính là nguyên nhân gây ra sự suy giảm tấm áo giáp của trái đất
này.
4. Khí gây cười là hiểm họa của tầng ozone:

Lỗ thủng tầng Ozone tại Nam Cực. (Ảnh: natural.com)

 Các nhà khoa học Mỹ khẳng định khí gây cười đã trở thành mối họa lớn nhất
đối với tầng ozone của trái đất.
 Nitơ oxit (N2O) là chất khí gây mê, giảm đau không màu có vị ngọt nhẹ và nặng

hơn không khí 1,5 lần. Nó được tạo ra từ phân động vật, quá trình xử lý rác thải, phân
bón hóa học, động cơ đốt trong và các ngành công nghiệp. N2O không cháy nhưng có
tính oxy hóa và kích thích phản ứng cháy. Khí này không duy trì sự sống và có thể gây
ngạt. Giới chuyên gia gây mê nha khoa thường gọi N2O là khí gây cười.
 Theo Telegraph, N2O đã “qua mặt” chlorofluorocarbon (CFC) để trở thành loại
khí phá hủy tầng ozone mạnh nhất.
12


 Nghị định thư Montreal 1987 cấm việc sản xuất các hóa chất phá hủy tầng ozone,

trong đó có CFC. Song N2O không thuộc đối tượng điều chỉnh của thỏa thuận này.

 “Sự suy giảm nhanh chóng của CFC trong 20 năm qua là một câu chuyện thành

công trong lĩnh vực môi trường. Nhưng khí N2O đang là kẻ thù đáng sợ nhất của tầng
ozone”, tiến sĩ Akkihebbal Ravishankara, một chuyên gia của Cục quản lý đại dương
và khí quyển Mỹ, phát biểu với Telegraph.
III. HIỆN TRẠNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG DO THỦNG TẦNG ÔZÔN.
1. Sự suy giảm tầng ôzôn:


 Là hiện tượng giảm lượng ozone trong tầng bình lưu. Từ năm 1979 cho đến năm

1990 lượng ozone trong tầng bình lưu đã suy giảm vào khoảng 5%. Vì lớp ozone ngăn
cản phần lớn các tia cực tím có hại không cho xuyên qua bầu khí quyển Trái đất, sự
suy giảm ôzôn đang được quan sát thấy và các dự đoán suy giảm trong tương lai đã trở
thành một mối quan tâm toàn cầu, dẫn đến Nghị định thư Montreal ra đời nhằm hạn
chế và cuối cùng chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng và sản xuất các hợp chất cácbon
của clo và flo (CFC - chlorofluorocacbons) cũng như các chất hóa học gây suy giảm
tầng ozone khác như tetraclorit cácbon, các hợp chất của brôm (halon) và
methylchloroform.
 Tầng ozone bị suy giảm do con người thải các chất khí

CFC(Chlorofluorocarbon) và các chất ODS (Ozone depleting substances) khác vào khí
quyển. CFCs được sử dụng làm chất sinh hàn, chất tạo bọt, dung môi... Các chất ODS
khác bao gồm: methyl bromide (làm thuốc trừ sâu), halons (trong các bình chữa cháy),
methyl chloroform (dùng làm dung môi trong nhiều ngành công nghệ)... Mặc dầu CFC
nặng hơn không khí, nhưng nó có thể lên đến tầng bình lưu bằng một quá trình kéo dài
từ 2 - 5 năm. Người ta đo nồng độ CFC ở tầng bình lưu bởi các khinh khí cầu, phi cơ
và các vệ tinh. Khi CFCs đến được tầng bình lưu, dưới tác dụng của tia cực tím nó bị
phân hủy tạo ra Chlor nguyên tử, và Chlor nguyên tử có tác dụng như một chất xúc tác
để phân hủy Ozone. Một nguyên tử Chlor có thể phá hủy 100.000 phân tử ozone.
Methyl bromide khi lên đến tầng bình lưu sẽ bị tia cực tím phân hủy để cho ra Brom
13


nguyên tử, một nguyên tử brom có khả năng phá hủy các phân tử ozone gấp 40-50 lần
một nguyên tử chlor.
 Sự suy giảm ozone thay đổi tùy theo vùng địa lý và tùy theo mùa. Lỗ thủng


ozone dùng để chỉ sự suy giảm ozone nhất thời hằng năm ở hai cực Trái đất, những
nơi mà ôzôn bị suy giảm vào mùa Xuân (cho đến 70% ở 25 triệu km2 của Nam Cực và
cho đến 30% ở Bắc Cực) và được tái tạo trở lại vào mùa hè. Nồng độ clo tăng cao
trong tầng bình lưu, xuất phát khi các khí CFC và các khí khác do loài người sản xuất
ra bị phân hủy, chính là nguyên nhân gây ra sự suy giảm này.

 Trong các thảo luận chính trị công khai "suy giảm tầng ozone " đồng nghĩa với

lý thuyết cho rằng xu hướng suy giảm ozone toàn cầu, được gây ra vì thải các khí
CFC, sẽ tạo điều kiện cho các bức xạ cực tím đến mặt đất nhiều hơn.

 Cường độ gia tăng của các bức xạ cực tím đang được nghi ngờ chính là nguyên
nhân gây ra nhiều hậu quả trong sinh học, thí dụ như gia tăng các khối u ác tính, tiêu
hủy các sinh vật phù du trong tầng có ánh sánh của biển.
 Trên các phương tiện thông tin đại chúng, mọi người thường được biết tới hiện

tượng: bầu khí quyển trên trái đất ngày càng bị ô nhiễm, tầng ozone bị thủng, trái đất
đang nóng lên…
 Trong khí quyển, ozone chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (~3.10-6 %) và chủ yếu (90%)

được phân bố ở tầng binh lưu với độ cao trong khoảng từ 15 đến 50 km tính từ mặt
đất. Trong tầng bình lưu, oxi phân tử (O2) hấp thụ tia cực tím (UV) ở dải sóng dài có
bước sóng 0,18 – 0,21µm và tách thành hai nguyên tử oxy tự do, các nguyên tử oxi này
sẽ kết hợp với oxi phân tử để tạo ra ozon. Khí O3 tạo ra cũng hấp thụ năng lượng mặt
trời và phân hủy tái tạo ra O2.

14


 O3 hấp thụ năng lượng ở dải sóng λ = 0,2 – 0,32 µm. việc hấp thụ như vậy


ngoài việc sưởi ấm bầu không khí và tạo ra tầng bình lưu còn có tác dụng như một
màng lọc tia UV có hại cho các vi sinh vật trên trái đất. Để chỉ hiện tượng che chắn
này người ta dùng khái niệm “chiếc ô ozone”, có điều trong thời gian gần đây, chiếc ô
bảo vệ này đang bi hủy hoại dần dần.
 Sau những năm 1970, các nhà nghiên cứu nhận thấy ozone phân hủy chủ yếu do

nitơ oxit (NO). khí NO được tạo thành từ N2O nhờ các phản ứng quang hóa ở tầng
bình lưu, N2O là loại khí có nguồn gốc chủ yếu từ các hoạt động của con người thải
ra. Kết quả nghiên cứu này rất đáng chú ý, vì đây là lần đầu tiên các nhà khoa học đã
chỉ ra rằngchính các hoạt động của con người là nguyên nhân thay đổi chu trình hình
thành – phân hủy ozone trong tự nhiên:
 Các hợp chất freon (CF2Cl2, CFCl3) được sử dụng nhiều trong công nghiệp điện
lạnh cũng là một hợp chất nguy hiểm gây phản ứng phân hủy ozone.
 Ngoài ra CH3Cl có nguồn gốc từ đại dương cũng làm phân hủy ozone, song
nồng độ của CH3Cl trong khí quyển rất nhỏ nên vai trò của nó ít được quan tâm.
2. Tầng ozone, thủ phạm khiến khí hậu trái đất nóng lên

Biếm họa về hiện tượng nóng lên toàn cầu.
 Một giả thuyết mới đây cho thấy, trong hơn nửa thế kỷ qua, tầng ozone có thể

sẽ cung cấp những thông tin tốt với làn da của bạn, nhưng điều này cũng có thể kìm
hãm những luồng gió với tốc độ chuyển động nhanh, hơn nữa điều này làm gia tăng sự
nóng lên của vỏ trái đất.
 Tầng ozone giữ vai trò rất quan trọng. Nó bảo vệ cư dân trái đất khỏi các tia tử

ngoại độc hại có thể gây ung thư da ở người cùng với những biến đổi trong cơ thể.
Tầng ozone này nằm ở phần thấp của tầng bình lưu, tầng khí quyển phía trên tầng đối
lưu, nơi diễn ra những ảnh hưởng của khí hậu trái đất. Ozone hấp thu ánh sáng cực
tím ở đây trước khi nó có thể di chuyển tới bề mặt của hành tinh.

15


 Một lỗ thủng trong tầng ozone đã được phát hiện vào năm 1985 dẫn đến những

dấu hiệu xảy đến ở Montreal Protocol năm 1987, trong đó xuất hiện một vài chất độc
hại như chlorofluorcarbons (CFCs) làm phá hủy không khí sạch của tầng bình lưu.
 Một nghiên cứu mới đây đăng trên tạp chí Science số ra ngày 13/6 cho biết, đối
chiếu với kiểu khí hậu gần đây do đài truyền hình quốc tế về sự thay đổi khí hậu, khả
năng khí hậu toàn cầu sẽ nóng lên trong một thời gian khá dài do những phản ứng hóa
học xuất hiện trên tầng bình lưu.
 Đứng đầu cuộc nghiên cứu, ông S-W. Son thuộc trường đại học Columbia (New

York) và một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã tìm thấy các mẫu IPCC bị hỏng
tương ứng với những mẫu ozone vừa được tìm lại. Có thể đây chính là hậu quả của
nó. Ở một vài thí nghiệm khác, các nhà khoa học cho biết, những vết rạn trên tầng
ozone sẽ làm tầng bình lưu ấm lên, phá vỡ nhánh gió tây quan trọng gần hơn với bề
mặt trái đất.

 Các tác giả của cuộc nghiên cứu cho biết, Nhánh gió này sẽ chuyển hướng
chậm lại về phía cực Nam. Nó có thể ảnh hưởng đến nhiệt độ bề mặt trái đất, băng
tan, xuất hiện hạn hán, lũ lụt, gió đại dương ở vùng bán cầu Nam.
 Một nghiên cứu khác đăng trên tạp chí Geophysical Reseach Letters ra ngày 26/4

cho thấy, một lỗ thủng trên tầng ozone tại Nam cực sẽ khiến bầu khí quyển nóng lên,
nhất là vùng lục địa cực nam, nơi sẽ tiếp nhận nhiều nhất ảnh hưởng từ sự nóng lên
của vỏ trái đất.
 Hàn gắn lỗ thủng tầng ozone gây ảnh hưởng tới khí hậu toàn cầu.
 Tầng ozone của trái đất nằm ở tầng bình lưu thấp, ngay phía trên tầng đối lưu


(bắt đầu từ bề mặt trái đất lên cao khoảng 12 km) đón nhận các tia cực tím có hại từ
mặt trời. Cho đến cuối thế kỉ trước, việc sử dụng trên diện rộng các dụng cụ gia đình
và bình phun thương mại có chứa chlorofluorocarbons (CFC) – loại hợp chất không
bền được đưa vào tầng bình lưu – khiến cho tầng ô-zôn bị hủy hoại nhanh chóng.
Theo Hiệp ước Montreal với sự tham gia của 191 quốc gia, các sản phẩm thải CFC đã
bị loại bỏ vào năm 1996 trên toàn thế giới.Quan sát trong vài năm vừa qua cho thấy sự
suy thoái tầng ô-zôn đã bị ngăn chặn trên diện rộng có khả năng phục hồi hoàn toàn.
Theo nghiên cứu mới, biến đổi khí hậu ở bán cầu nam cũng sẽ có khả năng phục hồi.
Đây là kết quả hiển nhiên của Hiệp ước Montreal – hiệp ước quốc tế được coi là
thành công nhất cho đến nay, đồng thời chứng minh rằng các hiệp định quốc tế có thể
mang lại những thay đổi tích cực tới hệ thống khí hậu toàn cầu.
 Nhóm gồm 10 nhà khoa học đã tiến hành so sánh kết quả từ hai nhóm mô hình
khí hậu được Cơ quan khí tượng thế giới xuất bản năm 2006. Nhóm mô hình đầu tiên
được Báo cáo đánh giá thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ về Thay đổi khí hậu
(Intergovernmental Panel on Climate Change – IPCC) sử dụng, nhóm thứ hai từ Đánh
giá khoa học về Suy giảm tầng ô-zôn. Tuy nhiên mô hình khí hậu hóa học sử dụng
trong dự án Đánh giá tầng ô-zôn năm 2006 lại dự đoán rằng lỗ thủng tầng ô-zôn sẽ
16


được hồi phục hoàn toàn vào nửa sau của thế kỉ 21; điều này có thể gây ra tác động
lớn đối với các luồng gió trên bề mặt trái đất, xét theo khía cạnh khác của khí hậu trái
đất, tác động này bao hàm cả nhiệt độ bề mặt, vị trí cơn bão, phạm vi các vùng khô
hạn, lượng băng trên biển và cả chu trình đại dương.
 Trong mấy thập kỉ vừa qua, luồng gió tầng đối lưu ở bán cầu Nam thổi gần hơn

về cực nam của trái đất do tác động của lượng khí nhà kính tăng lên cũng như tầng ôzôn suy giảm.Thay đổi này có tác động trên diện rộng đối với khí hậu của trái đất. Mô
hình IPCC dự đoán ảnh hưởng sẽ còn tiếp tục mặc dù diễn ra với nhịp độ chậm.
Ngược lại, mô hình khí hậu hóa học lại cho rằng việc hồi phục tầng ô-zôn vốn bị mô
hình IPCC phớt lờ - sẽ khiến luồng gió đối lưu tại bán cầu Nam thổi chậm lại ở vĩ độ

cao, chuyển hướng tới xích đạo có khả năng làm đảo ngược chiều hướng biến đổi khí
hậu tại đây.
 Lorenzo M. Polvani – chuyên viên điều tra chính đồng thời là giáo sư vật lý và

toán học ứng dụng tại SEAS – cho biết: “Chúng tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện thấy
việc hàn gắn lỗ thủng tầng ô-zôn dự định tiến hành vào khoảng 50 năm nữa lại có tác
động lớn đối với khí hậu toàn cầu. Đó là vì tầng ô-zôn bình lưu chưa được tính toán
đến với vai trò chủ đạo trong hệ thống khí hậu”.
 Polvani và Son nói rõ cần phải thực hiện thêm nhiều nghiên cứu để minh chứng

cho kết quả của họ và để hiểu đầy đủ về tác động của việc phục hồi hoàn toàn tầng
ô-zôn đến thay đổi khí hậu trên hành tinh chúng ta. Trong khi các nghiên cứu trước cho
thấy phục hồi lỗ thủng tầng ô-zôn có thể làm nhiệt độ ở Nam Cực tăng lên, hiện tại
vẫn còn nhiều việc cần phải tiến hành. Ví dụ, mô hình khí hậu hóa học sử dụng trong
Báo cáo đánh giá tầng ô-zôn năm 2006 không bao hàm chu trình đại dương đầy đủ có
ảnh hưởng đến nhiệt độ bề mặt trái đất. Mối liên quan giữa lỗ thủng tầng ô-zôn được
phục hồi, lượng khí nhà kính phát thải tăng lên, các dòng chảy đại dương cùng các
thành phần khác của hệ thống khí hậu vẫn cần phải được nghiên cứu để hiểu rõ hơn
về thay đổi khí hậu trái đất trong tương lai.
3. Lỗ thủng tầng ozon... đang nhỏ lại:

Năm nay, lỗ thủng tầng ozone hình thành sớm hơn
so với những năm trước đây.
17


 Tổ chức khí tượng thế giới (WWO) dự báo lỗ thủng tầng ozon ở Nam cực, trong
năm nay, nhiều khả năng sẽ nhỏ hơn so với lỗ thủng trong năm 2008.
 "Những điều kiện khí hậu, được thống kê cho tới thời điểm này, cho thấy rằng
lỗ thủng tầng ozon năm 2009 sẽ có thể nhỏ hơn lỗ thủng trong năm 2006 và 2008”, Cơ

quan Liên Hiệp Quốc cho biết.
 Lỗ thủng tầng ozon ở Nam cực được phát hiện vào những năm 1980. Lỗ thủng
này thường bắt đầu hình thành vào tháng 8 hàng năm và đạt độ rộng tối đa vào cuối
tháng 9 hoặc đầu tháng 10, trước khi nó biết mất vào tháng 12. Diện tích lỗ thủng tầng
ozon phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết từng năm.
 Geir Braathen, chuyên gia về tầng ozon của WMO cho biết, năm nay lỗ thủng
tầng ozon xuất hiện sớm hơn thường lệ. Diện tích lỗ thủng đo được vào ngày 16/9, là
14 triệu km2. Trong khi đó, độ rộng tối đa của lỗ thủng đo được trong năm 2008, là 27
triệu km2 và năm 2007 là 25 triệu km2.
 Các chuyên gia cũng cảnh báo rằng lỗ thủng tầng ozon ở Nam cực chỉ hoàn toàn
được hàn gắn, sớm nhất là vào năm 2075.
 Tầng ozon có vai trò rất quan trọng với sự sống trên Trái Đất, nó giúp chúng ta
tránh được tác hại của những tia cực tím từ Mặt Trời. Tiếp xúc trực tiếp với tia cực
tím có thể khiến bạn bị cháy da, ung thư da. Ngoài ra, tia cực tím còn gây hại cho cây
cối...
 Các chất khí như carbon (CFC) được dùng trong các thiết bị hiện đại như máy

điều hoà không khí, tủ lạnh, bình chữa cháy v.v… chính là nguyên nhân tạo ra các lỗ
thủng của tầng ozon. Năm 1987, Nghị định thư Montreal Protocol đã quyết định loại
chất khí gây hại cho tầng ozon, ra khỏi ngành sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, tác
hại của nó với môi trường sẽ kéo dài trong nhiều năm nữa. (Theo Pháp luật TPHCM )
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA TẦNG ÔZÔN
1. Tới môi trường :
 Sự suy giảm tầng ozone sẽ làm cho khí hậu ấm dần lên. Gia tăng bức xạ tia cực

tím sẽ ảnh hưởng đến sự sinh ra và mất đi của CO2, là khí gây hiệu ứng nhà kính. Từ
đó gây ra các ảnh hưởng sau:

18



Một đoạn đường ray bị biến dạng do lớp băng vĩnh cửu của Trái Đất tan chảy.
Ảnh: Livescience.
 Nhiệt độ tăng, băng tan chảy, mực nước biển dâng lên trong tương lai gần chỉ là

một phần trong vũ điệu của hiệu ứng nhà kính. Nó có thể bẻ cong đường ray, thay đổi
nhịp sinh học của động vật, làm các hồ biến mất và khiến bạn hắt hơi nhiều hơn.
 Con người hắt hơi nhiều hơn.Chứng hắt hơi sổ mũi và ngứa mắt vốn hành hạ

bạn vào mùa xuân bỗng xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây? Nếu
đúng thế, thủ phạm có thể là hiệu ứng nhà kính. Trong suốt vài thập kỷ qua, số người
mắc các bệnh dị ứng theo mùa và hen suyễn ngày càng tăng lên.
 Mặc dù những thay đổi trong lối sống và tình trạng ô nhiễm khiến con người trở
nên dễ tổn thương hơn trước những tác nhân gây dị ứng trong không khí, song một số
nghiên cứu đã khẳng định một nguyên nhân khác nữa: Lượng carbon dioxide trong khí
quyển và nhiệt độ cao là nhân tố quan trọng khiến thực vật nở hoa sớm và tạo ra
nhiều phấn hơn. Phấn hoa là một trong những tác nhân gây dị ứng hàng đầu.
 Lỗ thủng tầng ozon là một trong số những nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu

trên trái đất.

 Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển,

thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân
tự nhiên và nhân tạo. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng
các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các
bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ
và đất liền khác.
 Các biểu hiện của sự biến đổi khí hậu trái đất gồm:
 Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.

 Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của
con người và các sinh vật trên trái đất. - Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn
tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
19


Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái
và hoạt động của con người.


 Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần
của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển. Các quốc gia trên thế giới đã họp tại New
York ngày 9/5/1992 và đã thông qua Công ước Khung về Biến đổi khí hậu của Liên
Hợp Quốc. Công ước này đặt ra mục tiêu ổn định các nồng độ khí quyển ở mức có thể
ngăn ngừa được sự can thiệp của con người đối với hệ thống khí hậu. Mức phải đạt
nằm trong một khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với
sự thay đổi khí hậu, bảo đảm việc sản xuất lương thực không bị đe doạ và tạo khả
năng cho sự phát triển kinh tế một cách bền vững.


 Sự biến mất của các hồ
 125 hồ ở Bắc Cực đã biến mất trong vài thập kỷ qua. Điều này càng khiến
người ta tin rằng hiệu ứng nhà kính đã tác động tới hai địa cực của Trái Đất. Các
nghiên cứu chỉ ra rằng các hồ biến mất vì tầng băng vĩnh cửu bên dưới chúng đã tan
chảy. Khi lớp băng dưới hồ - vốn đã tồn tại từ hàng triệu năm - tan chảy, nước sẽ
thấm qua đất, khiến hồ cạn đi. Khi các hồ biến mất, các hệ sinh thái phụ thuộc vào
chúng cũng biến mất theo.

 Nhiều công trình biến dạng

 Hiệu ứng nhà kính không chỉ làm tan chảy băng ở địa cực, mà dường như còn
làm biến mất lớp băng vĩnh cửu bên dưới bề mặt Trái Đất. Tình trạng này khiến cho
hiện tượng co rút của mặt đất xảy ra thường xuyên hơn, tạo ra nhiều vết nứt và làm
20


biến dạng nhiều công trình cơ sở hạ tầng như đường sắt, đường cao tốc và nhà cửa.
Những tác động của hiện tượng tan chảy lớp băng vĩnh cửu dưới lòng đất có thể gây
lở đá và sạt đất ở trên đồi, núi.
 Nhịp sinh học của động vật thay đổi.

 Hiệu ứng nhà kính khiến mùa xuân bắt đầu sớm hơn nên chim có thể sẽ không
có sâu mà bắt. Do thực vật nở hoa sớm hơn, những động vật ăn cây cỏ, dưới tác động
của nhịp sinh học, sẽ không kịp sinh con vào thời gian mà lượng thức ăn dồi dào. Chỉ
những loài điều chỉnh được nhịp sinh học để bắt nhịp với chu kỳ sinh sản của cây cối
mới có cơ hội duy trì nòi giống và truyền thông tin di truyền cho thế hệ sau.
 Vệ tinh quay nhanh hơn
 Những tác động của khí carbon dioxide - nguyên nhân chính gây hiệu ứng nhà

kính - đã bắt đầu vươn tới không gian bên ngoài Trái Đất. Không khí ở tầng ngoài
cùng hành tinh xanh rất mỏng, nhưng những phân tử khí vẫn tạo ra lực cản khiến cho
các vệ tinh nhân tạo giảm tốc độ. Tình trạng đó khiến các kỹ sư phải thường xuyên tác
động để đưa chúng về đúng quỹ đạo ban đầu.
 Nhưng lượng carbon dioxide ở tầng ngoài cùng của khí quyển đang tăng lên
từng ngày, khiến cho không khí trở nên lạnh hơn và ổn định hơn. Khi khí quyển ổn
định hơn thì lực cản mà chúng tạo ra sẽ giảm đi, khiến cho các vệ tinh quay nhanh
hơn.
 Chiều cao của các dãy núi tăng lên


 Những người leo núi có thể không để ý, nhưng dãy Alps và nhiều dãy núi khác
đã cao dần lên trong suốt một thập kỷ qua nhờ sự tan chảy của những lớp băng trên
đỉnh của chúng. Trong suốt 4.000 năm qua, sức nặng của những lớp băng này tác động
xuống bề mặt Trái Đất, khiến các dãy núi lún xuống. Khi chúng tan chảy, sức nặng đó
được dỡ bỏ, và vùng đất bên dưới đã nhô lên. Sự ấm lên của khí hậu làm tăng tốc độ
tan chảy của những lớp băng trên đỉnh, nên các dãy núi cũng đang vươn lên với tốc độ
nhanh hơn.
 Các kỳ quan đứng trước nguy cơ bị hủy diệt.
21


 Trên khắp thế giới, đền chùa, kỳ quan thiên nhiên, các công trình cổ - từ trước
tới nay luôn được coi là biểu tượng của sự trường tồn - đang phải chịu đựng những thử
thách của thời gian. Nhưng những tác động trực tiếp của hiệu ứng nhà kính có thể phá
hủy chúng với tốc độ nhanh khủng khiếp.
 Sự dâng cao của mực nước biển và sự khắc nghiệt của thời tiết có thể gây thiệt
hại nghiêm trọng đối với những địa điểm được cho là không thể thay thế. Những trận
lũ đã phá hỏng Sukhothai, một thành phố 600 tuổi và từng là kinh đô của vương quốc
Thái Lan.
 Cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn

 Hiệu ứng nhà kính cũng làm tăng số vụ cháy rừng ở khắp nơi trên thế giới, đặc
biệt là Mỹ. Các nhà khoa học cho rằng sự tăng lên của nhiệt độ và tình trạng tan sớm
của tuyết là nguyên nhân chính khiến lửa dễ xuất hiện và lan ra các khu rừng. Mùa
xuân đến sớm khiến tuyết tan sớm, làm cho tình trạng khô hanh ở các khu rừng ngày
càng trầm trọng, khiến chúng dễ bắt lửa hơn.
 Nắng nóng do bê tông hóa

22



 Hiện tượng nắng nóng xuất hiện còn có nhiều nguyên nhân như: do Trái đất
ngày càng nóng lên, băng tan, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tầng ozon ngày
càng mỏng. Nắng nóng thường làm người dân ở các đô thị cảm thấy khó chịu, nóng
bức hơn ở nông thôn vì không khí ở đô thị bị ô nhiễm, nhiều nhà cao tầng gây hiệu ứng
bê tông, trong khi cây xanh ngày càng ít, các khu vui chơi, công viên, bể bơi thì ít và
quá tải, nhà cửa chật chội, không lưu không khí.
 Sự oi bức thể hiện rõ nhất vào buổi chiều tối PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, khoa
Môi trường, Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội chỉ ra "thủ phạm" đó là hiện tượng nghịch
nhiệt. Theo đó, khi mặt đất bê tông hóa bị đốt nóng dữ dội lúc ban ngày phát ra bức xạ
hồng ngoại về ban đêm làm cho nó lạnh hơn lớp không khí phía trên. Điều này làm
cản trở sự phát tán nhiệt độ lên không trung, khiến chúng quanh quẩn (chỉ tầm ở độ
cao 150m), gây ra sự oi bức. Song PGS Hòe cảnh báo, nguy hiểm hơn, hiện tượng này
còn cản trở các chất ô nhiễm. Chúng cứ tích tụ lại sát mặt đất làm cho ô nhiễm gia
tăng nhanh chóng sau chập tối.
 Bê tông hóa cả cuộc sống
 Điều dễ nhận thấy là bên cạnh các tòa nhà cao tầng ngày càng bành trướng thì
không gian cây xanh lại thu hẹp theo tỷ lệ nghịch. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Bảo vệ môi trường, tại 2 đô thị lớn nhất nước ta là Hà Nội và PHCM, diện tích cây
xanh bình quân đầu người chưa tới 1m2. Cùng với đó là ô nhiễm bởi khói bụi, tiếng
ồn... khiến người dân đô thị đành lui về ẩn trong bốn bức tường chật hẹp.
 Và một trong những giải pháp người dân thành thị chọn là chiếc máy điều hòa.
Có thể thấy, văn hóa điều hòa len lỏi đến từng ngóc ngách của cuộc sống. Hàng trăm
nghìn chiếc máy điều hòa bật lên để làm mát một khoảng không gian bé nhỏ nhưng
thay vào đó chúng thải thêm một lượng nhiệt cho những phần không gian còn lại.
"Người ta tìm mọi cách để đối phó với nắng nóng nhưng chỉ là thụ động. Đúng là một
vòng luẩn quẩn. Đây cũng là cảnh báo nhãn tiền về hiện tượng nóng lên toàn cầu,
biến đổi khí hậu", TS Hòe nhận định.
23



 "Không thể trách người dân mà cần phải có những quy hoạch mang tính quốc

gia mới mong cải thiện được tình hình này", TS Hòe nói. Hãy nhìn vào con số mà cơ
quan khí tượng thủy văn đưa ra, trong vòng 50 năm trở lại đây, nhiệt độ trung bình
năm ở nước ta đã tăng 0,7oC. Đây là những con số biết nói. Hiện tượng nóng lên toàn
cầu, biến đổi khí hậu không ở đâu xa, nó đang ở rất gần.
2. Tới con người

 Gây ung thư da
 Lỗ thủng ở tầng ozone sẽ cho phép lượng bức xạ tia cực tím (UV) đến trái đất
nhiều hơn. Theo ước tính của cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, lượng tia cực tím (UVB)
tăng 2% sẽ làm gia tăng 2-6% các ca ung thư da lành tính.

 Có một thành phố ở Nam Mỹ nơi tỷ lệ ung thư da cao gấp ba lần so với những
nơi khác trên thế giới. Nguyên nhân là họ sống dưới lỗ thủng tầng ozone.
 Cách đây 20 năm, các nhà khoa học thuộc Cơ quan khảo sát Nam Cực của Anh
đã có một trong những khám phá lớn về môi trường: một lỗ thủng khổng lồ đã xuất
hiện trong tầng ozone bảo vệ trái đất khỏi bức xạ tử ngoại mặt trời. Phát hiện này
cùng với sự khẳng định sau đó của các nhà khoa học Mỹ đã thúc đẩy cộng đồng quốc
tế hạn chế CFCs - loại khí thải nhà kính được cho là gây suyMặc dù Nghị định thư
Montreal đã cấm CFCs song tác động của những loại khí ổn định và tồn tại lâu này sẽ
kéo dài ít nhất là 40 năm nữa. Mỗi năm một lần vào mùa xuân ở Nam bán cầu, các
điều kiện khí quyển kết hợp với hoá chất CFCs bắt đầu làm suy giảm tầng ozone. Từ
tháng 9 cho tới tháng 11, một lỗ thủng với diện tích khổng lồ hình thành bên trên Nam
Cực. Sử dụng vệ tinh, các nhà khoa học có thể giám sát sự mở rộng của lỗ thủng khi
nó xoay chuyển cùng với các hệ thống thời tiết. Thỉnh thoảng lỗ thủng bao trùm cả
phần phía nam của Nam Mỹ. giảm tầng ozone.


24


 Nhiều lần trong một năm, Punta Arenas ở Chilê - một trong những thành phố
cực nam trên thế giới - nằm ngay bên dưới lỗ thủng tầng ozone. Các cư dân nơi đó
chịu những tác động tồi tệ nhất mà bức xạ mặt trời gây ra, trong đó có nguy cơ ung thư
da gia tăng. TS Jaime Abaca, chuyên gia da liễu hàng đầu ở Punta Arenas, đã nghiên
cứu tỷ lệ ung thư da trong nhiều năm. Ông kết luận trong tổng số các ca ung thư da
được phát hiện, tỷ lệ người mắc u hắc tố - loại ung thư da nguy hiểm nhất - cao gấp
ba lần so với các vùng khác trên thế giới. ''Không nghi ngờ gì nữa chúng ta đang chứng
kiến các tác hại của lỗ thủng tầng ozone'', ông nói.
 Các quan sát cũng chỉ ra rằng bức xạ mặt trời chiếu xuống mặt đất ở Punta
Arenas có bước sóng cực kỳ nguy hại. Đứng ngoài trời trong hơn một phút, các nhà
nghiên cứu có cảm giác ngứa ran trên mặt.Thậm chí vào những ngày nhiều mây, họ
phải đứng trong bóng cây hoặc các con hẻm để tránh tia tử ngoại. Một trong những
nạn nhân là phát thanh viên Francisco Figueredo ở Punta Arenas. Gần đây anh đã được
điều trị ung thư da trên mắt, mũi và gò mà. Ngồi ở nhà để chuẩn bị chương trình nhạc
jazz cho buổi tối, anh giải thích rằng khi còn trẻ anh và những người khác không biết
gì về vấn đề này''.
 Giờ thì thành phố Punta Arenas đã dựng lên nhiều tín hiệu cảnh báo về tác hại
của tia tử ngoại. Tại một ngã tư ở trung tâm thành phố, những lá cờ có màu đặc thù
phất phới bay. Nếu cờ có màu da cam, điều đó có nghĩa là ''nguy cơ cao''. Các đài phát
thanh và truyền hình phát đi thông tin cảnh báo hàng ngày. Tuy nhiên, tại một cửa
hàng dược phẩm lớn ở trung tâm Punta Arenas, người quản lý thừa nhận doanh số kem
chống nắng của họ rất cao. Bà nói: ''Dường như phần lớn mọi người không hiểu nguy
cơ ung thư da''.
 Có rất nhiều trung tâm tắm nắng. Trung tâm Cecilia International có 50 khách
hàng mỗi ngày. Một khách hàng tên Evanalla cho biết: ''Tôi biết về nguy cơ ung thư
song tôi vẫn tắm nắng ba lần mỗi tuần Nước da rám nắng sẽ làm cho quần áo của bà
trông đẹp hơn. Đó là sự lựa chọn cá nhân''. Thế mới biết tầng ozone có thể yếu đi

song sức mạnh của thời trang vẫn rất mạnh.
 Ozone vừa hại phổi vừa làm suy yếu miễn dịch
 Theo các chuyên gia Mỹ, việc phơi nhiễm ozone không chỉ gây tổn thương phồi
mà còn làm giảm số lượng tế bào miễn dịch quan trọng, khiến cơ thể dễ bị tấn công
bởi các chất độc có trong không khí bị ô nhiễm, nhất là ở các khu đô thị.

25


×