Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phát triển các công cụ của thị trường tài chính việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.92 KB, 32 trang )

Lời nói đầu
A.

Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang từng bước đổi mới. Những thay đổi tích cực và toàn diện
trong đường lối đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Thị trường tài
chính ra đời, hoạt động có hiệu quả đã khẳng định được vị trí của nó trong nền
kinh tế ngày nay. Khi nói về quá trình ra đời, phát triển của thị trường tài chính
thì phải kể đến thị trường các công cụ, ở đó chúng ta sẽ biết đầy đủ về việc làm
cách nào thị trường tài chính thực hiện được vai trò quan trọng của mình.
Đối với một nền kinh tế như ở nước ta hiện nay tăng cường và phát triển nền
kinh tế đồng nghĩa với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Vì
thế những hiểu biết về nhu cầu vốn trong nền kinh tế là cần thiết, đặc biệt là các
phương thức về lưu chuyển vốn mà điển hình là các công cụ của thị trường tài
chính. Nghiên cứu về các công cụ này giúp cho các cá nhân, tổ chức kinh tế
nắm bắt được những thông tin, tình hình số liệu cụ thể, mặt tích cực, mặt hạn
chế của từng công cụ từ đó mà đưa ra những biện pháp, phương hướng, kiến
nghị cần thiết để hoàn thiện hệ thống các công cụ đó, nâng cao tính hiệu quả,
vai trò chủ yếu “ dẫn vốn ” của thị trường tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế...
Thực tế đó đã nói lên được tính cấp thiết của đề tài : “ Phát triển các công cụ
của thị trường tài chính Việt Nam”.
B.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Phân tích thực trạng phát triển các công cụ của thị trường tài chính ở Việt
Nam, dựa trên kỳ hạn của các công cụ mà xét chúng ở hai thị trường: thị
trường tiền tệ và thị trường vốn.
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các công cụ của thị trường tài chính


Việt Nam những năm tiếp theo.
C.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu: các công cụ thị trường tiền tệ và thị trường vốn của thị
1


trường tài chính Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu thực trạng phát triển các công cụ ở những
năm ra đời và giai đoạn năm 2010 đến cuối năm 2012.
D.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như : phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê…
E.

Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm 3 phần:
Phần 1. Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính và các công cụ
Phần 2. Thực trạng phát triển các công cụ của thị trường tài chính Việt Nam
Phần 3. Những giải pháp cho sự phát triển các công cụ của thị trường tài chính
Việt Nam

2



Chương 1. Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính và các công cụ của thị
trường tài chính
I.
1.

Tổng quan về thị trường tài chính
Khái niệm

Trong nền kinh tế, luôn phát sinh các nhu cầu về vốn của các chủ thể khác nhau.
Trong đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, còn những ngưòi
có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hay không biết đầu tư vào đâu. Từ đó
hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được
thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường,đó là thị trường tài chính.
Thị trường tài chính đã gắn kết những người đó với nhau bằng cách luân chuyển
vốn từ những người có dư vốn tới những người thiếu vốn. Những người thiếu vốn
huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu
… còn những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị
và nhà xưởng để sản xuất hàng hoá thì sẽ mua các công cụ tài chính được phát
hành bởi người huy động vốn.
Vậy thị trường tài chính có thể được hiểu là nơi diễn ra việc mua bán, trao đổi và
chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc và luật lệ đã được ấn định.
2.

Các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính

Chính phủ: tham gia chủ yếu với tư cách là người đi vay. Chính phủ phát hành
tín phiểu kho bạc, trái phiếu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước và
tham gia với tư cách là người cho vay mỗi khi có tiền nhàn rỗi.
Các hãng kinh doanh: các hãng kinh doanh tham gia thị trường tài chính chủ yếu

với tư cách là người đi vay, họ luôn có nhu cầu vốn cho việc sản xuất kinh doanh.

3


Dân cư (các gia đình): tham gia thị trường tài chính chủ yếu với tư cách là người
cho vay do dân cư thường có xu hướng tiết kiệm, chi tiêu ít hơn thu nhập, họ cũng
tham gia với tư cách là người đi vay để tài trợ cho việc tiêu dùng của mình.
Người nước ngoài: là công dân, các hãng kinh doanh hay Chính phủ nước ngoài,
tham gia với tư cách chủ yếu là người cho vay. Khi có tiền nhàn rỗi, họ đều tìm
cách làm sinh lời dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
3.

Chức năng của thị trường tài chính

Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ
những chủ thể thừa vốn tới những chủ thể cần vốn.
Tài chính trực tiếp: Là con đường mà những người cần vốn sẽ huy động trực
tiếp từ những người có vốn bằng cách phát hành và bán các công cụ tài chính như
cổ phiếu, tín phiếu …
Tài chính gián tiếp: Là con đường mà thông qua các trung gian tài chính, vốn sẽ
được dịch chuyển từ người dư vốn sang những người cần vốn.
Trung gian tài chính thực hiện điều này bằng cách vay vốn của người cho vay sau
đó cho người đi vay vay vốn.
4.

Vai trò của thị trường tài chính

Với chức năng dẫn vốn, thị trường tài chính đã thực hiện vai trò vô cùng quan
trọng trong việc thúc đẩy, phát triển và ổn định nền kinh tế.

4.1

Góp phần tạo lập vốn để đầu tư phát triển kinh tế.

Thông thường, ngân sách Nhà nước không đủ để đáp ứng toàn bộ các nhu cầu xây
dựng và chi tiêu bởi để có thể tiến hành xây dựng các công trình hạ tầng của Chính
phủ và chính quyền địa phương buộc phải đòi hỏi nhu cầu về tiền vốn với quy mô
rất lớn đồng thời phải huy động trong một thời gian ngắn. Thị trường tài chính sẽ
góp phần giải quyết khó khăn này qua việc thúc đẩy việc tích luỹ và tập trung vốn,
tạo nên nguồn vốn cần thiết phục vụ cho việc đầu tư của Chính phủ.
4.2

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
4


Những người có vốn nhàn rỗi: có thêm cơ hội đầu tư, giúp họ có thể làm sinh lời
trên đồng tiền của họ qua việc gửi tiết kiệm hoặc mua cổ phần.
Những người đi vay: giúp họ có ý thức sử dụng đồng vốn vay một cách hợp lý và
hiệu quả. Như vậy mới có thể hoàn trả khoản vay, trả lãi và tạo một phần thu nhập
cho bản thân.
4.3 Là môi trường để thực hiện các điều tiết vĩ mô của nền kinh tế
Chính phủ là cơ quan quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng cách sử dụng chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương có thể
căn cứ vào nhu cầu của từng thời kỳ để điều tiết hoạt động thị trường mở để khống
chế sự co dãn của cung - cầu tiền tệ, tiến tới khống chế quy mô và hướng đầu tư tín
dụng tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển, kiểm soát lạm phát và ổn
định giá trị đồng tiền. Ngân hàng Trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp Chính phủ
ổn định tỷ giá hối đoái.

4.4

Tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại

Thông qua thị trường tài chính, các công ty và Chính phủ có thể bán cổ phần, phát
hành trái phiếu ra nước ngoài, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường tài chính rất nhạy cảm với các hoạt động kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển đồng thời nhìn vào sự phát triển của thị trường tài chính của một quốc
gia có thể đo được hiệu quả các hoạt động kinh tế của quốc gia đó.
5.
5.1

Cấu trúc của thị trường tài chính
Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần

Dựa vào căn cứ: doanh nghiệp sẽ tài trợ cho vốn của mình như thế nào?
Thị trường nợ là thị trường tại đó diễn ra hoạt động mua bán và trao đổi các
công cụ nợ.

5


Công cụ nợ (debt instruments) là các thoả thuận mang tính chất hợp đồng giữa
chủ thể đi vay và chủ thể cho vay. Với sự thoả thuận về số lượng tiền vay, lãi suất
vay, phương thức, thời điểm thanh toán và thời hạn vay.
Căn cứ vào kỳ hạn nợ: công cụ nợ dưới 1 năm; công cụ nợ ngắn hạn.
Công cụ nợ trên 1 năm: công cụ nợ trung và dài hạn.
Thị trường vốn cổ phần là thị trường mà tại đó diễn ra các hoạt động mua bán
cổ phiếu (có thể là những cổ phiếu phát hành lần đầu hoặc được bán lại).
Cổ phiếu (share certificate): là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp

pháp đối với thu nhập ròng và tài sản của doanh nghiệp.
5.2

Thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Căn cứ: dựa vào thời hạn thanh toán của các công cụ tài chính.
Thị trường tiền tệ là thị trường tại đó diễn ra các hoạt động mua bán và trao
đổi các công cụ nợ ngắn hạn.
Các chủ thể tham gia: ngân hàng Trung ương, ngân hàng thương mại, các tổ chức
trung gian phi ngân hàng, doanh nghiệp và dân cư.
Thị trường tiền tệ gồm: thị trường tín dụng, thị trường liên ngân hàng, thị trường
ngoại hối và thị trường chứng khoán ngắn hạn..
Thị trường tiền tệ làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính, hỗ trợ
vốn lưu động cho doanh nghiệp và tài trợ ngắn hạn cho ngân sách Nhà nước, cung
cấp lãi suất tham chiếu cho thị trường vốn và tăng khả năng kiểm soát, cung ứng
tiền của ngân hàng Trung ương.
Thị trường vốn là thị trường tài chính tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ
nợ dài hạn và cổ phiếu của các công ty cổ phần
Các chủ thể tham gia : Ngân hàng Trung ương, ngân hàng thương mại, các tổ chức
trung gian phi ngân hàng.

6


Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ các khoản đầu tư dài hạn
cho chính phủ, các doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn, nhất là thị trường
chứng khoán phát triển còn được xem là thước đo“sức khoẻ” của nền kinh tế.
5.3

Thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2


Căn cứ vào quá trình phát hành và lưu thông
Thị trường cấp 1 (primary market) là thị trường tài chính diễn ra sự phát hành
lần đầu của các chứng khoán.
Phạm vi hoạt động hẹp, thông thường chỉ có 2 chủ thể tham gia gồm chủ thể phát
hành là các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ, kho bạc nhà nước, ngân hàng
thương mại và những người mua đầu tiên là các chủ thể kinh doanh và đầu tư. Quy
mô nhỏ và gắn với vốn chủ phát hành.
Thị trường cấp 2 (secondary market) là thị trường tài chính diễn ra các hoạt
động mua, bán, trao đổi các công cụ tài chính đã được phát hành trên thị trường
cấp 1. Bao gồm thị trường hối đoái, thị trường tài chính kỳ hạn: futures markets và
thị trường chọn lựa: options.
Hai thị trường này có tác động tương hỗ lẫn nhau. Thị trường cấp 1 sản xuất ra
công cụ tài chính còn thị trường cấp 2 khẳng định tính thanh khoản của các công
cụ này.
5.4

Thị trường chính thức và không chính thức

Căn cứ vào sự can thiệp của nhà nước
Thị trường chính thức là thị trường mà tuân thủ 100% quy định của Nhà nước.
VD: các ngân hàng thương mại. Thị trường này có quy mô lớn và khá an toàn.
Thị trường không chính thức là thị trường mà không tuân theo hoàn toàn các
quy định của Nhà nước.
Trên thực tế, cả hai thị trường này cùng song song tồn tại vì thị trường chính thức
vẫn chưa thể đáp ứng hết nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế, việc tiếp cận

7



với thị trường chính thức còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy mà thị trường không
chính thức tồn tại bên cạnh, gắn liền với thị trường chính thức như một sự bổ xung.
II.
1.

Các công cụ của thị trường tài chính
Khái niệm

Để hiểu đầy đủ về việc làm cách nào để thị trường tài chính thực hiện được vai
trò quan trọng trong việc dẫn vốn từ người cho vay- người tiết kiệm tới người vayngười chi tiêu, chúng ta cần nghiên cứu các loại chứng khoán được mua bán trong
thị trường tài chính. Dựa vào kì hạn của các công cụ mà xem xét công cụ của thị
trường tài chính ở hai khía cạnh là công cụ của thị trường tiền tệ và công cụ của thị
trường vốn.
2.

Các công cụ của thị trường tiền tệ

Do có kì hạn thanh toán ngắn, những công cụ vay nợ được mua bán trên thị trường
tiền tệ chịu mức giao động giá tối thiểu và nó là loại đầu tư ít rủi ro nhất.
2.1

Tín phiếu kho bạc Nhà nước

Là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ, nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách tạm
thời.
Tín phiếu Kho bạc Nhà nước có những đặc điểm sau : Là công cụ vay nợ ngắn
hạn có tính lỏng cao nhất, tính lỏng dựa trên thời gian chuyển đổi nhanh; chi phí
cho việc chuyển đổi phù hợp, được mua bán ráo riết nhất;
Độ an toàn cao : do kỳ hạn thanh toán ngắn nên tín phiếu kho bạc chịu mức giao
động giá tối thiểu, và do đó ít rủi ro. Cùng với việc chính phủ đảm bảo chi trả :

chính phủ tăng thuế hoặc vay tiếp hoặc phát hành tiền để trả nợ.
Bởi hai đặc điểm trên mà tín phiếu kho bạc có lãi suất là thấp nhất trong hệ
thống các công cụ vay nợ ngắn hạn.
Được phát hành ra dưới nhiều hình thức khác nhau để lựa chọn người mua cho
phù hợp : lọai tín phiếu kho bạc có lợi tức được trả trước, loại tín phiếu kho bạc
có lợi tức được trả sau, loại tín phiếu kho bạc không ghi phần lãi mà là chênh
8


lệch giữa giá mua và giá bán bằng lợi tức....
Chủ thể nắm giữ chủ yếu là ngân hàng thương mại với hai mục đích khi mua :
thu lợi tức từ tín phiếu kho bạc và nắm giữ để đảm bảo khả năng thanh khoản.
Ngân hàng Trung ương mua tín phiếu kho bạc để điều chỉnh lượng tiền cung ứng
trong nền kinh tế là công cụ quan trọng nhất trong hoạt động thị trường mở.
2.2

Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng

Là giấy chứng nhận cho việc gửi tiền của các cá nhân hay tổ chức vào ngân hàng
thương mại hoặc các tổ chức tín dụng khác, chiếm một tỷ lệ khá lớn trong số các
loại tiền gửi ngân hàng.
Chứng chỉ tiền gửi được mua đi bán lại ở thị trường thứ cấp tuỳ thuộc vào quy
định của ngân hàng, điều kiện của các nước. Đến khi tăng khả năng cạnh tranh
về việc huy động vốn các ngân hàng cho phép mua bán lại nó làm tăng tính lỏng.
Chúng được mua đi bán lại vì trong thị trường có nhu cầu : khách hàng muốn bán
lại mua vào phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau như tiêu dùng, sản xuất.
Chứng chỉ tiền gửi được phát sinh bởi các ngân hàng thương mại, tổ chức tài
chính khác và do các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế gửi tiền
vào ngân hàng thương mại gửi vào các tổ chức tài chính khác nắm giữ.
2.3


Thương phiếu

Thương phiếu là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi
tiếng phát hành. Bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
2.3.1

Hối phiếu

Là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện do người sản xuất, người bán, người
cung ứng dịch vụ... ký phát đòi tiền người nhập khẩu, người mua, người nhận
cung ứng, và yêu cầu người này phải trả một số tiền nhất định, tại một địa điểm
nhất định, trong một thời gian nhất định cho người hưởng lợi quy định trong hối
phiếu, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác. Hối phiếu có những đặc
9


điểm :
Tính trựu tượng của hối phiếu : không cần phải ghi nội dung quan hệ kinh tế,
mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả là bao nhiêu và trả cho ai, người nào sẽ thanh
toán, thời gian thanh toán khi nào...
Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: người trả tiền của hối phiếu phải trả tiền
đầy đủ, đúng theo yêu cầu của tờ hối phiếu, không được viện lý do riêng của
bản thân đối với người ký phát hối phiếu trừ trường hợp hối phiếu không còn
phù hợp với đạo luật chi phối nó.
Tính lưu thông của hối phiếu: nó có thể chuyển nhượng từ người này sang
người khác trong thời hạn của nó, người trả tiền sẽ thanh toán cho người cầm
hối phiếu cho dù hợp đồng mua bán có thể không thực hiện hoàn chỉnh.
Bản chất của hối phiếu: là một loại thương phiếu, nó không những là một
phương tiện để thanh toán, mà còn là công cụ tín dụng, nó cho phép người chủ

nợ huy động được khoản đã vay ở một ngân hàng trước khi đến hạn thanh toán
hối phiếu. Ngày nay hối phiếu chủ yếu làm căn cứ cho nghiệp vụ tín dụng ngân
hàng. Trong trường hợp hối phiếu là công cụ thanh toán, nó được các thương
nhân sử dụng để thanh toán khoản trái quyền của họ, lúc đó hối phiếu đóng vai
trò tương tự như tiền tệ. Nhưng việc sử dụng hối phiếu với chức năng duy nhất
này ngày nay đã chấm dứt, vì người ta hay dùng séc hơn.
Hối phiếu luôn luôn là một chức từ thương mại, ngay cả khi những người ký
trên phiếu không phải là thương nhân.
Việc thanh toán hối phiếu : kỳ hạn trả tiền của hối phiếu có hai dạng trả tiền
ngay và trả tiền sau. Ngày nay có xu hướng mới trong việc chuyển dịch các
thương phiếu là việc tăng cường sử dụng các công cụ phi vật chất ( như hối
phiếu trên băng từ...)
2.3.2

Lệnh phiếu

Là một giấy tờ nợ do người mua kí phát trao cho người bán, trong đó người mua
10


cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn thanh toán cho người thụ hưởng lệnh
phiếu. Thương phiếu có những đặc điểm: trả một số tiền nhất định một cách vô
điều kiện và ghi rõ tên người thụ hưởng. Có thể sử dụng nó để làm phương tiện
thanh toán, phương tiện để tất toán những khoản nợ của mình. Dùng nó để vay
tiền ngân hàng, họ vay tiền ngân hàng dưới hình thức chiết khấu và cho vay tái
chiết khấu.
2.4 Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận
Là một hối phiếu ngân hàng, do một công ty phát hành được thanh toán trong thời
hạn sắp tới và được ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng
đóng dấu : “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Hối phiếu của công ty sẽ được tăng

thêm khả năng chấp nhận khi mua hàng hoá bởi đã có sự bảo đảm về việc thanh
toán, ngay cả khi công ty phá sản thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh toán đầy
đủ. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận thường được bán lại trên thị trường thứ
cấp với giá thấp hơn, và như vậy có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc.
Công ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc vào tài khoản của mình tại
ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu.
Công ty phát hành hối phiếu có thêm khả năng được chấp nhận khi mua hàng hóa
ở nước ngoài.
2.5 Các công cụ khác
2.5.1 Hợp đồng mua lại
Là loại giao dịch mua bán trong đó khoán dịch viên huy động tiền mặt bằng
cách tìm một người mua tạm thời một số chứng khoán của khoán dịch viên
khác và ký hợp đồng với bên mua là anh ta sẽ mua lại số chứng khoán đó vào thời
điểm sau này, hợp đồng này gọi là thoả thuận mua lại, là thoả thuận giữa người
mua và người bán, ở đây người bán đồng ý mua lại số chứng khoán ( đã bán cho
người mua ) theo giá đã thoả thuận và theo thời điểm đã định.
Thoả thuận mua lại được dùng cho hai cách : huy động vốn ngắn hạn và
11


là công cụ của chính sách tiền tệ của Nhà nước. Thành viên tham gia vào thoả
thuận mua lại là : người mua bán trái phiếu nhà nước, trái phiếu đô thị, dùng
chúng để tài trợ cho ngân sách, ngân hàng thương mại dùng chúng để huy động
ngân hàng quỹ ngắn hạn, nhà nước dùng chúng để tác động làm thay đổi ngắn
hạn số dự trữ trong các ngân hàng thành viên ( điều chỉnh nguồn cung tiền tệ ).
II.5.2

Các khoản vay ngắn hạn ở nước ngoài

Là các khoản vay ngắn hạn có tính lỏng cao, có thể mang với tiền mặt.

3.

Các công cụ của thị trường vốn

Là các công cụ nợ và cổ phiếu với kỳ hạn trên một năm hay vô hạn, có độ lệch
tiêu chuẩn lớn nên mức độ rủi ro lớn và lợi tức thường cao
3.1

Cổ phiếu công ty

Là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty. Là một loại
chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở
hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Là một chứng khoán có giá, có
quyền nhận lãi và hoa hồng. Cổ phiếu có thể dùng mua bán và thế chấp, trở
thành một trong những phương tiện tín dụng dài hạn chủ yếu của thị trường tiền
vốn.
Tính tất yếu khách quan phát hành cổ phiếu trong điều kiện XHCN : thứ nhất
là nhu cầu tiền vốn trong cạnh tranh thị trường buộc các công ty phải đổi mới kỉ
thuật thiết bị, hai là xem xét việc cung cấp tiền vốn từ lâu đã hình thành thói
quen cấp phát hoặc ngân hàng cho vay và thể hiện yêu cầu quy luật vận động
của tiền vốn trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, phần nào giải quyết được
mâu thuẫn cung cầu tiền vốn.
Đặc điểm của cổ phiếu: Có tính quyết sách, người có cổ phiếu phổ thông có quyền
tham gia đại hội cổ đông, bầu cử ban quản trị tham gia quyết sách quản lý kinh
doanh xí nghiệp, quyền lợi lớn hay nhỏ tuỳ theo số lượng cổ phiếu. Có thể đổi tiền
12


mặt, cổ phiếu có thể chuyển nhượng bất kỳ lúc nào giao dịch ở thị trường, biến
thành tiền giấy. Giá cả và giá trị mặt phiếu không khớp nhau. Cổ phiếu là đối

tượng giao dịch, giống như hàng hoá, có loại giá cả này chịu ảnh hưởng tình
hình kinh doanh và chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, luôn
luôn thay đổi, tăng giảm lớn, không khớp với giá trị mặt cổ phiếu. Rủi ro, cổ
phiếu đã mua không thể trả lại vốn cũ. Người đầu cơ cổ phiếu có thể nhận được
thù lao dự kiến hay không hoàn toàn phụ thuộc vào doanh lợi của xí nghiệp
quyết định.Vì vậy, người đầu cơ cổ phiếu thường chịu rủi ro nhất định.
Cổ phiếu có thể chia làm hai loại:
Cổ phiếu thông thường là loại cổ phiếu có thu nhập không ổn định,lợi tức biến
động tùy theo sự biến động của công ty.Thị giá cổ phiếu nhạy cảm,thông thường
phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế nói chung và biến động theo chiều nghịch với
biến động theo lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ.
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một
tỷ lệ lãi suất nhất định, thị giá cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái
phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.
3.2 Trái phiếu
Là một loại chứng khoán có giá là một giấy chứng nhận nợ của người vay
vốn muốn thu góp vốn và đảm bảo trả lãi với lãi suất, thời hạn nhất định, và trả
vốn gốc trong thời hạn nhất định. Trái phiếu thường chỉ loại trái phiếu có thời
hạn trung dài hạn trên một năm.
Đặc điểm của trái phiếu: có thể trong cùng một điều kiện, một thời gian thu góp
số vốn lớn của nhiều người đầu tư; sau một thời hạn nhất định trả lại vốn và lãi
theo định kỳ; chủ nợ xem xét tình hình thực tế thị trường tự do chuyển nhượng
trái phiếu của họ.
Các loại trái phiếu
Khi căn cứ vào mục đích phát hành và người phát hành thì gồm trái phiếu chính
13


phủ và trái phiếu công ty
Trái phiếu chính phủ : là một công cụ vay nợ trung và dài hạn của chính phủ,

người đứng ra vay nợ là chính phủ với một mục đích huy động vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để bù đắp thâm hụt ngân sách triền miên đồng thời giúp chính phủ có
nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng... loại trái phiếu này có tín nhiệm cao, người
có trái phiếu sau một thời gian thu lại vốn theo kim ngạch ghi trên mặt phiếu và
nhận được tiền thù lao nhất định. Với những trái phiếu chính quyền trung ương
thì có mức độ an toàn hơn là trái phiếu chí địa phương nhưng lại có lãi suất cao
hơn vì không bị đánh thuế thu nhập,lãi suất của trái phiếu chính phủ là thấp. Với
nhiều kỳ hạn khác nhau, trái phiếu chính phủ có thể có kỳ hạn là 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng, 1 năm đến 2, 3 năm... bên cạnh độ rủi ro là không cao
Trái phiếu công ty : là công cụ vay nợ trung, dài hạn của công ty, huy động
vốn cho sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty bảo đảm sẽ trả vốn trái phiếu
trong thời hạn nhất định và trả lãi suất trái phiếu theo thời hạn ước định và lãi
suất quy định. Có loại trái phiếu được phát hành thấp hơn giá trị mặt phiếu, còn
có thể trả vốn gốc trước thời hạn. Nếu có trái phiếu công ty có đảm bảo cần ghi
rõ hai chữ “đảm bảo” được cơ quan chủ quản cho phép và phép kiểm chứng.
Khi căn cứ vào phương thức thanh toán các khoản vay vốn gốc và lãi cho trái
phiếu ta có:
Trái phiếu vay đơn : trái phiếu mà toàn bộ tiền vốn gốc và lãi sẽ được
thanh toán một lần đến thời kỳ đáo hạn.
Trái phiếu vay trả cố định : loại trái phiếu mà người mua trái phiếu sẽ được
thanh toán một khoản cố định đều nhau trong suốt kỳ hạn của trái phiếu đó.
Trái phiếu Coupon : tiền lãi của trái phiếu được trả hàng năm, tiền vốn gốc
được trả vào ngày đáo hạn.
Trái phiếu chiết khấu : là trái phiếu mà ở đó người mua trái phiếu sẽ trả cho
14


người bán với giá mua thấp hơn mệnh giá nhưng đến ngày đáo hạn người mua
được thanh toán trả lại theo mệnh giá. Khoản chênh lệch đó chính là lãi suất.
Trái phiếu vĩnh cửu : là loại trái phiếu mà ở đó người mua nó không bao giờ

được thanh toán tiền gốc.
3.3 Các món vay thế chấp
Vay thế chấp là các món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để
đầu tư vào những công trình kiến trúc, đất đai được dùng làm vật thế chấp các
món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các công ty.
Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm là người cho vay hàng đầu, các tổ chức này
cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp bằng cách bán trái khoán và dùng tiền để
mua các món thế chấp.
3.4 Các chứng chỉ quỹ
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư với một phần vốn góp
của quỹ đại chúng.
Đặc điểm: do công ty quản lý quỹ phát hành, xác nhận việc góp vốn của nhà đầu
tư vào quỹ, người sở hữu nó không có quyền tham gia ứng cử, bầu cử, tùy mỗi
loại quỹ mà nhà đầu tư có thể rút vốn trực tiếp hay qua thị trường chứng khoán.
Chương II. Thực trạng phát triển các công cụ của thị trường tài chính Việt
Nam
I.

Sự hình thành của thị trường tài chính Việt Nam

Củng như các quốc gia chậm phát triển khác, thị trường tài chính Việt Nam cho
đến nay chưa thực sự phát triển. Hoạt động của thị trường tài chính chỉ tập trung ở
hoạt động của trung gian tài chính- các ngân hàng thương mại. Để thúc đẩy quá
trình phát triển thị trường tài chính, Chính phủ đã thành lập Ủy ban chứng khoán
quốc gia vào năm 1998, ủy ban này hiện hàng loạt các hoạt động tạo điều kiện cho
việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Tháng 7/1998 trung tâm
15


giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, đây là bước đi

tiến tới thành lập sở giao dịch chứng khoán ở Việt Nam.
II.
1.
1.1

Thực trạng các công cụ của thị trường tài chính Việt Nam
Các công cụ của thị trường tiền tệ
Tín phiếu kho bạc Nhà nước

Ngày 1 - 4 - 1990 ở Việt Nam mới hình thành Kho bạc Nhà nước. Khi đó
chính phủ giao cho kho bạc nhiệm vụ phát hành tín phiếu với thời gian 3 tháng.
Nhưng ngân sách vẫn mất cân đối Chính phủ đã phải phát hành tiếp có đợt số
thuế mới phục vụ cho trả nợ cũ chiếm tới 60 - 75%. Hiện tại trái phiếu kho bạc
Nhà nước Việt Nam vẫn là một công cụ vay nợ ngắn hạn với chính phủ để bù
đắp thâm hụt ngân sách tạm thời. Trong thời gian đầu khi kho bạc phát hành trái
phiếu kho bạc dân chúng chưa biết nhiều, họ vẫn quen gửi tiết kiệm vì vậy để hấp
dẫn dân chúng thì lãi suất trái phiếu tăng lên. Mặt khác lúc đó nhu cầu vay của
chính phủ lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách. Hiện nay thì trái phiếu kho bạc có
lãi suất nhỏ hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Những năm tiếp theo thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc có nhiều mới mẻ.
Đến tháng 10/2000 đã có 47 thành viên tham gia thị trường. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, các đợt đấu thầu vẫn còn kém sôi động.
Những năm gần đây trên thị trường phi tập trung OTC, tín phiếu Kho bạc được
mua bán vào bất cứ lúc nào.Các nhà kinh doanh tín phiếu kho bạc chính là các nhà
tạo thị trường, còn các nhà môi giới đóng vai trò trung gian cho khách hàng của
mình. Các tín phiếu kho bạc thường được trao đổi với khối lượng lớn giữa các nhà
đầu tư chuyên nghiệp. Vì tín phiếu kho bạc có những ưu điểm vượt trội hơn hẳn
các loại chứng khoán khác. Do đó, đây là kênh các Tổ chức tín dụng và các tổ
chức trung gian tài chính khác đầu tư vốn khả dụng của mình, hưởng lãi, khi cần
đem giao dịch trên thị trường mở đáp ứng nhu cầu vốn của mình.Điều đó đã cho ta

thấy được tính hấp dẫn của nó trong việc đầu tư kiếm lợi. Chính vì vậy mà tín
16


phiếu Kho bạc chủ yếu do các ngân hàng thương mại nắm giữ.
Sau hơn 17 năm phát hành sơ cấp, từ ngày 24/8/2012 lần đầu tiên tín phiếu kho bạc
phát hành theo phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước sẽ được đăng ký,
lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam và được niêm yết giao dịch
trên thị trường trái phiếu chuyên biệt tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Thành
công này tạo tính thanh khoản cho tín phiếu Kho bạc đồng thời thể hiện sự liên
thông chặt chẽ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên vẩn còn một số tồn tại như thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu vẫn là
các ngân hàng thương mại Nhà nước, số lượng các ngân hàng TMCP và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tham gia rất ít. Nguyên nhân chủ yếu là các ngân hàng
TMCP chưa thực sự quan tâm tới thị trường này do lãi suất chưa thực sự hấp dẫn
so với các loại trái phiếu phát hành qua Uỷ Ban chứng khoán. Mặt khác, lượng vốn
khả dụng dư thừa để đầu tư vào trái phiếu Kho bạc của các ngân hàng TMCP vẫn
còn hạn chế.
Sang năm 2013 ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có thông báo kế hoạch tổ chức
phát hành tín phiếu kho bạc theo phương thức đấu thầu qua Sở Giao dịch ngân
hàng Nhà nước, theo đó mỗi tháng Sở giao dịch sẽ tổ chức 2 đợt đấu thầu, ngày
phát hành và thanh toán là T+1. Trong trường hợp cần thiết, Kho bạc Nhà nước có
thể bổ sung các đợt phát hành tín phiếu kho bạc và dự kiến sẽ có 24 đợt phát hành
tín phiếu kho bạc trong năm nay.

1.2

Chứng chỉ tiền gửi

Những năm đầu ra đời vì chưa có một thị trường thứ cấp phát triển nên mặc dù

chứng chỉ tiền gửi ngân hàng đã có nhưng chưa phát triển. Nhưng những năm
17


gần đây việc có tiền đề là có một thị trường thứ cấp khá phát triển giúp chứng chỉ
tiền gửi bước sang một giai đoạn mới. Trong các năm 2009- 2012 là cuộc chạy đua
phát hành chứng chỉ tiền gửi của các Ngân hàng thương mại, đặc biêt là sự đa dạng
kỳ hạn chứng chỉ tiền gửi. Chứng chỉ tiền gửi được phát hành cho các tổ chức, cá
nhân người Việt Nam và tổ chức, cá nhân người nước ngoài đang sinh sống và
hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Trong năm 2012 ngân hàng TMCP Công thương Vietin Bank đã phát hành 5 đợt
chứng chỉ tiền gửi ghi danh. Đặc biệt chứng chỉ tiền gửi ghi danh đợt V/2012 có
mệnh giá tối thiểu từ 100.000 đồng/100USD/ 100EUR. Kỳ hạn phát hành đối với
loại ngắn hạn là 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng (áp dụng với VND, USD, EUR). Chứng
chỉ tiền gửi ghi danh dài hạn áp dụng kỳ hạn 12 tháng với VND. Tại ngân hàng
TMCP đầu tư và phát triển BIDV kỳ hạn chứng chỉ tiền gửi khá linh hoạt, kết hợp
cả kỳ hạn ngắn và trung hạn với các mốc 4 tháng, 7 tháng và 13 tháng. Khách hàng
tham gia mua chứng chỉ tiền gửi của BIDV có cơ hội nhận được mức lãi suất hấp
dẫn, từ 9,3%/năm trở lên và mức cao nhất lên tới 9,99%/năm.

1.3

Thương phiếu

Ở Việt Nam đã ra đời kỳ phiếu thương mại, phát triển theo luật lệ nhà nước nhưng
chưa ở mức độ phổ biến rộng rãi. Để tạo môi trường cho sự tồn tại và phát triển
của thương phiếu trong điện hoạt ngân hàng còn sơ khai vốn tự có của nền sản
xuất thấp, từ năm 1995 việc soạn thảo pháp lệnh thương phiếu đã được đề cập
đến nhưng phải đến tháng 6/1999 dự thảo pháp lệnh thương phiếu mới được trình
lên để Ủy ban Quốc hội thông qua. Sự ra đời của Luật các công cụ chuyển

nhượng 2005 đánh giấu mốc quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị
trường thương phiếu nước ta.
18


Những tồn tại tích cực trong khi lưu hành thương phiếu là một phương tiện
thanh toán, thương phiếu có tác dụng không thể phủ nhận là thúc đẩy kinh doanh,
mở rộng sản xuất trong nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là khan hiếm
tiền tệ. Hạn chế sự lệch pha giữa nhu cầu và khả năng thanh khoản cũng như
giúp giảm sự hạn chế về khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng của các
đơn vị kinh tế.
Đi cùng với sự ra đời, phát triển của thương phiếu cũng là sự xuất hiện và phát
triển của thị trường thứ cấp, thị trường chiết khấu củ và thị trường tái chiết khấu
của các ngân hàng với các thương phiếu. Thương phiếu giúp chủ sở hữu nó và
các tác nhân trong nền kinh tế thực hiện được mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh
tế thị trường, bằng cách giao dịch mua bán thương phiếu trên thị trường cấp 2.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành giao dịch thông qua các ngân hàng
thương mại. Tỷ lệ doanh số thanh toán có sử dụng thương phiếu gồm thanh toán
bằng L/C và nhờ thu chiếm đa phần, trên 80% doanh số thanh toán quốc tế ở hầu
hết các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên thương phiếu còn chưa phát triển rộng
rãi trong thương mại nội địa mà mới chỉ sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc
tế cho nên chủ thể tham gia thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở
nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ngân hàng thương mại.
Ở Việt Nam, thương phiếu (chủ yếu là hối phiếu) được sử dụng làm phương tiện
thanh toán và tín dụng quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương, nghiệp vụ kinh doanh
thương phiếu của các ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc
độ quay vòng vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.4

Kỳ phiếu ngân hàng


Ở Việt Nam ngân hàng Nhà nước đã có quy chế phát hành kỳ phiếu ngân hàng
ngày 23/10/1999. Chúng thực chất là một công cụ vay nợ ngắn hạn của ngân
hàng thương mại để thu hút vốn phục vụ kinh doanh ngắn hạn của mình, vay
19


mang tính chất chủ động của. Hiện nay ở Việt Nam mệnh giá lớn tối thiểu là
100 triệu đồng kỳ phiếu ngân hàng. Chúng được mua bán trên cơ sở tự nguyện
trong trường hợp cần thiết thì hệ thống ngân hàng Nhà nước bắt buộc phát hành
cho ngân hàng thương mại để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Hiện nay, thị trường kỳ phiếu chủ yếu do các ngân hàng thương mại phát hành và
chủ yếu phát hành với thời hạn ngắn nhằm huy động tiền gửi của người dân, ít
dùng trong thương mại.
2.
2.1

Các công cụ của thị trường vốn
Cổ phiếu

Các công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có quyền phát hành
cổ phiếu theo quy định của luật công ty và luật doanh nghiệp Nhà nước ngày
17/9/1994, chính phủ ban hành quy chế tạm thời về phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Sự non yếu trong thị trường vốn, sự thiếu vốn đầu tư trong một số công ty
và cho các dự án lớn dẫn đến phải phát hành cổ phiếu để tạo ra vốn cho sản
xuất kinh doanh, cho các dự án quốc gia.
Hiện nay có thể nói cổ phiếu là loại trái khoán mạnh nhất trên thị trường các công
cụ tài chính. Không chỉ ngân hàng, công ty chứng khoán mà hầu hết các tổ chức
niêm yết, hàng loạt các công ty cổ phần lớn nhỏ đã không ngần ngại xem tăng
vốn, phát hành cổ phiếu như một kênh huy động vốn tiện lợi... Hàng loạt ngân

hàng thương mại cổ phần như ACB, Sacombank, Đông Á, Eximbank, Phương
Đông... thi nhau tăng vốn hoặc phát hành thêm cổ phiếu. Theo sau là các công ty
chứng khoán từ lớn đến nhỏ như SSI, SBS, BVSC, Đại Việt... và ít có doanh
nghiệp nào chịu tăng vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu ít hơn 100 tỷ.
Năm 2011 là một năm đầy khó khăn của nền kinh tế. Đặc biệt chứng khoán lao đao
khi thị trường chứng khoán tụt điểm liên tục với nhiều cổ phiếu mà giá trị của nó rất
thấp. Điển hình như công ty cổ phần nhựa Tân Hóa, mã VKP là cổ phiếu đầu tiên
có giá dưới 1.000 đồng trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Chốt phiên
20


22/11/2011 cổ phiếu này chỉ còn 700 đồng. Tuy đối mặt với nhiều khó khăn nhưng
trước áp lực cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước và hoàn thiện bộ máy của
các doanh nghiệp thì thị trường huy động vốn bằng cổ phiếu vẩn diễn ra khá sôi
động. Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, dịch vụ tiêu
dùng đều có hoạt động trên thị trường vốn cổ phiếu.
Năm 2012, trong 6 tháng đầu năm thị trường chứng khoán huy động được 84.000 tỷ
đồng nhưng vốn huy động bằng cổ phiếu giảm 50% so với cùng kì năm 2011. Quý
I/2012 có đến 54 công ty lỗ, đặc biệt sự kiện bầu Kiên bị bắt làm cho cổ phiếu của
ngân hàng Á Châu ACB tục dốc thê thảm, tại sàn HNX cổ phiếu của ACB giảm
kịch sàn. Theo thống kê năm 2012 có 187 đợt phát hành cổ phiếu trong đó khoảng
30% là phát hành có thu tiền, tổng số tiền thu về của các doanh nghiệp là 8.3 nghìn
tỷ đồng.
Trong kế hoạch được xây dựng cho năm nay, rất ít ngân hàng bỏ sót việc phát hành
thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, vốn tăng thêm chủ yếu được các ngân hàng dành
cho cổ đông hiện hữu. Nhưng trong tình hình thị trường chứng khoán còn khó khăn,
giá cổ phiếu ngân hàng khó có thể được cải thiện sớm thì giá phát hành bằng mệnh
giá ( 10.000 đồng/cổ phiếu) củng khó làm hài lòng cổ đông hiện hữu. Trong khi
việc tìm kiếm đối tác chiến lược trong và ngoài nước để phát hành riêng lẻ lúc này
củng không còn dễ như trước đây.

2.2 Trái phiếu
2.2.1 Trái phiếu

Chính phủ

Tháng 3/1991 Bộ Tài chính quyết định phát hành các loại tín phiếu và trái phiếu
kho bạc để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Đây
là thời điểm đánh giấu sự ra đời của thị trường trái phiếu Chính phủ.
Tháng 10/2005 lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ Việt Nam được phát hành ra thị
trường vốn quốc tế với 750 triệu USD trái phiếu đã được các nhà đầu tư mua hết
ngay sau khi phát hành. Một kết quả khó có thể khả quan hơn và đợt trái phiếu này
21


sẽ được mua bán lại trên tất cả các thị trường thứ cấp lớn như Hongkong,
Singapore, London, New York.. liên tục đến năm 2016.
Hiện nay trái phiếu Chính phủ có những đặc điểm chủ yếu sau : mệnh giá trái
phiếu là 100.000 đồng và bội số của 100.000 đồng, Bộ Tài chính là chủ thể phát
hành trái phiếu. Bộ Tài chính ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước tổ chức phát hành
trái phiếu theo quy định, tín phiếu kho bạc có kỳ hạn là 13 tuần, 26 tuần và 52 tuần
còn trái phiếu kho bạc và công trái xây dựng tổ quốc có kỳ hạn là 2 năm, 3 năm, 5
năm, 10 năm, 15 năm và 30 năm. Về thanh toán lãi, gốc trái phiếu, đối với trái
phiếu phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tiền lãi trái
phiếu được thanh toán sau theo định kỳ 6 tháng một lần hoặc 12 tháng một lần kể
từ ngày phát hành trái phiếu, và tiền gốc trái phiếu được thanh toán một lần vào
ngày trái phiếu đáo hạn, đối với trái phiếu phát hành theo phương thức đại lý phát
hành và bán lẻ thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, tiền lãi và gốc trái phiếu
được thanh toán định kỳ hoặc một lần khi đến hạn hoặc thanh toán trước hạn.
Năm 2012 được coi là năm dấu ấn của thị trường trái phiếu Chính phủ : Không chỉ
góp phần bình ổn thị trường tài chính, mở rộng quy mô và tăng thanh khoản cho

thị trường nợ mà thị trường trái phiếu đã góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác
trọng yếu là điều hành ngân sách nhà nước. Trong ba năm qua, Kho bạc Nhà nước
đã tổ chức đầu thầu thành công các loại trái phiếu Chính phủ trên sàn HNX đạt
hơn 224,7 ngàn tỷ đồng thì chỉ riêng 9 tháng đầu năm 2012, Chính phủ huy động
thành công đã được tổng cộng 147,458 ngàn tỷ đồng. Cơ cấu thị trường trái phiếu
Việt Nam cho đến nay có tỷ lệ trái phiếu chính phủ lớn hơn 90% tổng lượng trái
phiếu được phát hành.
Theo thống kê của sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, các ngân hàng thương mại
chiếm hơn 80% lượng trái phiếu Chính phủ trúng thầu trong quý I/2013. Tổng huy
động trái phiếu Chính phủ qua kênh đấu thầu tại sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội trong quý I đạt gần 63.000 tỷ đồng, tăng hơn 11.000 tỷ đồng so với cùng kỳ
22


năm ngoái. Các ngân hàng thương mại trong nước chiếm tỷ trọng trúng thầu cao
nhất với 80,12%, tiếp theo là các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính và một
phần nhỏ công ty chứng khoán.
2.2.2

Trái phiếu công ty

Các doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn từ vốn tự có, điều này chỉ có thể tiến
hành đối với doanh nghiệp làm ăn tốt, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, coi
ngân hàng là bà đỡ cho sự phát triển của mình. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất ở
đây là bản thân doanh nghiệp phải có dự án kinh tế khả thi, mặt khác ngân hàng
phải thẩm định chắc chắn đối với người vay về tài sản tài chính, tình hình sản
xuất... và giám sát chặt chẽ trước và sau khi cho vay. Một số doanh nghiệp đã có
nhiều cách khác nhau để huy động vốn như huy động từ cán bộ công nhân viên,
làm đại lý.... nhưng phương thức đó gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó phát
hành trái phiếu là cần thiết và đ â y là những chứng khoán nợ chứng nhận một

nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng của doanh nghiệp đối với người sở hữu trái phiếu.
Hiện nay ở nước ta, nhà nước rất ưu ái trong việc phát hành trái phiếu doanh
nghiệp nên chỉ mất khoảng 6 đến 8 tuấn doanh nghiệp có thể hoàn tất hồ sơ phát
hành. Phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp huy động được lượng vốn lớn.
Nếu doanh nghiệp có nhu cầu vốn trên 1000 tỷ đồng thì họ có thể tiếp cận nguồn
vốn từ phát hành trái phiếu dễ dàng hơn so với đi vay và phát hành cổ phiếu.
Năm 2008 chỉ có 2 đến 3 doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng đến năm 2009
thì đã có 15 đợt doanh nghiệp phát hành trái phiếu, đặc biệt Vincom đã phát hành
thành công trái phiếu chuyể đổi quốc tế có giá 1 tỷ đồng/ 1 trái phiếu với tổng giá
trị lên đến 100 triệu USD trên thị trường Singapore. Tổng kết năm 2009 thị trường
trái phiếu Việt Nam đã có tổng các giao dịch lên đến gần 20.000 tỷ đồng. Năm
2010 trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 10% cơ cấu. Năm 2012 quy mô thị trường
trái phiếu Việt Nam chiếm 21,6% GDP trong đó thị trường trái phiếu doanh
nghiệp trong nước hiện còn rất nhỏ, chiếm 5,56% GDP, tập trung vào một số
23


doanh nghiệp lớn, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra hiện nay thị
trường trái phiếu doanh nghiệp còn thiếu nhiều yếu tố quan trọng trong hệ thống
cơ sở hạ tầng .
III.

Đánh giá thực trạng các công cụ của thị trường tài chính Việt Nam

1. Thuận lợi
Qua nhiều năm hình thành và phát triển thị trường các công cụ thị trường tài chính
Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định.
Đầu tiên, nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng của Việt Nam đã
có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức cao
và ổn định.

Tiếp theo phải kể đến đó là đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Sau khi
thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập thì việc đưa các công cụ lên sàn
Giao dịch cho phép mua bán trên thị trường thứ cấp là một bước đi cực kì quan
trọng, bên cạnh đó là luôn tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tài chính củng như
các công cụ phát triển. Các giải pháp Chính phủ đưa ra đã có tác dụng và tạo được
sự chủ động hơn trong ứng phó với những khó khăn.
Bản thân thị trường tài chính Việt Nam qua các thời kỳ khó khăn cũng đã có điều
chỉnh khá mạnh. Chính điều chỉnh như vậy, trước ảnh hưởng quốc tế, khả năng
chống đỡ sẽ tốt hơn với khó khăn.
Các yếu tố lạm phát, nhập siêu, dự trữ ngoại tệ... đã có những dấu hiệu tích cực.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã chủ động tái cấu trúc và tăng cường quản trị,
khai thác cơ hội giảm chi phí cần thiết, mở rộng mặt bằng kinh doanh, nắm bắt và
24


xử lý sớm thông tin, phản ứng nhanh nhạy và tiếp cận với các nguồn vốn, nguồn
cung cấp thiết bị, máy móc. Đồng thời tham gia ngày càng chặt chẽ, hiệu quả vào
quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.
Việc Việt Nam hội nhập quốc tế giúp cho việc đưa các chứng khoán ra thị trường
nước ngoài, đây là thị trường lớn có nhiều thuận lợi cho việc phát triển.
Năm 2013 sẽ hứa hẹn nhiều cơ hội mới cho thị trường các công cụ tài chính.

2. Khó khăn
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế
giới đang thực sự khó khăn, những nguy cơ bất ổn như biến động tỷ giá, lãi suất,
lạm phát, thâm hụt… ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2012 đã có 49000 doanh nghiệp phá sản và chờ
phá sản.
Trong thời gian qua củng có rất nhiều giải pháp đưa ra tuy nhiên hầu hết chỉ dừng
lại ở mức đề xuất, việc chậm triển khai đã gây ảnh hưởng đến thị trường và các nhà

đầu tư. Sự phối hợp giữa các ngành tài chính-ngân hàng để hổ trợ chưa được như
mong đợi.
Việc cho phép ra đời quá nhiều công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ trong
lúc thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé dẫn đến tình trạng vi phạm
nguyên tắc nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp.
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng hết sức nhạy
cảm và là thị trường của niềm tin nhưng mà do thông tin một chiều làm tâm lý nhà
đầu tư hoang mang, làm thị trường khó khăn hơn.
25


×