Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTW

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.71 KB, 28 trang )

LỜI MỞĐẦU
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua, người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu,quy luật giá trị để xác định số lượng và giá cả của hàng
hóa,dịch vụ trên thị trường. Chính vì vậy, kinh tế thị trường có liên quan mật thiết hay
chính là nền kinh tế tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường đó, chính sách tiền tệ luôn giữ
một vai trò quan trọng, nó có ảnh hưởng chi phối tới các hoạt động vĩ mô nền kinh tế , đó
là một trong những công cụ quản lí kinh tế vĩ mô có hiệu quả của nhà nước bên cạnh các
chính sách khác như chính sách tài khóa,chính sách thu nhập và chính sách kinh tế đối
ngoại.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước, được độc quyền phát hành giấy bạc và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, vơí mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền,
duy trì sự ổn định trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Do đặc thù như vậy, nên
NHTW nắm giữ một trong những công cụ quan trọng nhất để quản lí nền kinh tế vĩ mô, đó
là chính sách tiền tệ. NHTW sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt
chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ,để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc
làm của quốc gia đến mức mong muốn. Ban hành chính sách tiền tệ là công việc cơ
bản,chủ yếu của NHTW. Bên cạnh đó NHTW còn sử dụng các công cụ khác của chính
sách tiền tệ để thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra của chính sách tiền tệ,kiểm soát nền kinh tế
vĩ mô. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam,chính sách tiền tệ có ảnh hưởng
đến con đường phát triển của nền kinh tế.
Vậy việc nghiên cứu chính sách tiền tệ và các công cụ của nó trong giai đoạn hiện
nay là hết sưc cần thiết. Trong bài viết này, em xin được thể hiện hiểu biết của mình về
chính sách tiền tệ,các công cụ của nó, thực trạng sử dụng các công cụ đó của NHTW và
đưa ra một vài giải pháp để thực hiện tốt mục tiêu cuả chính sách tiền tệ.


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Quá trình hình thành và đặc thù của Ngân Hàng Trung Ương


1.1.1 Quá trình hình thành Ngân Hàng Trung Ương
Ngân hàng được hình thành và phát triển qua một quá trình dài của lịch sử kinh tế-xã
hội, trải qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử loại người. Mầm mống của ngân
hàng xuất hiện từ thời kì trung cổ.Bước sang giai đoạn từ thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 20, hoạt
động trao đổi hàng hóa diễn ra trên phạm vi rộng. Kèm theo đó là sự phát triển nhanh
chóng của các ngân hàng trong việc phát hành nhiều loại giấy bạc khác nhau,điều đó đã
làm cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế đòi hỏi sự can thiệp của Nhà
nước vào hoạt động của các ngân hàng. Các nhà nước đã đề ra đạo luật hạn chế số lượng
các ngân hàng có quyền được phát hành giấy bạc.Lúc đó hệ thống ngân hàng được chia
làm hai nhóm.Nhóm thứ nhất được quyền phát hành các giấy bạc ngân hàng được gọi là
các ngân hàng phát hành.Nhóm thứ hai là các ngân hàng còn lại không phát hành tiền gọi
là các ngân hàng trung gian.
Đầu thế kỉ 20,hầu hết các ngân hàng đều thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền
phát hành tiền. Song ngân hàng đó vẫn còn thuộc độc quyền tư nhân. Sau khi xảy ra cuộc
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã bắt buộc nhà nước tăng cường hơn nữa việc can thiệp
vào nền kinh tế.Xuất phát từ yêu cầu đó nhà nước nhanh chóng nắm lấy ngân hàng phát
hành để điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách quốc hữu hóa các ngân hàng phát
hành, hay tổ chức ngân hàng phát hành thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên vẫn có một số
các ngân hàng phát hành không hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà nước nhưng về cơ bản các
hoạt động của ngân hàng phát hành vẫn được kiểm soát bởi nhà nước do nhà nước bổ
nhiệm các vị trí điều hành cao nhất của ngân hàng phát hành. Đến giữa thế kỉ 20, quá trình
cải biến các ngân hàng phát hành thành NHTW, kể từ ấy hệ thống ngân hàng chia làm 2
cấp: ngân hàng trung ương và các ngân hàng trung gian. NHTW không chỉ thực hiện chức
năng phát hành tiền tệ vào lưu thông, mà còn thực hiện chức năng quản lí nhà nước về mặt
tiền tệ, tín dụng ngân hàng.
1.1.2 Đặc thù của Ngân Hàng Trung Ương


NHTW là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân
hàng và thực hiện chức năng quản lí nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng,

với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền, duy trì sự ổn định và an toàn trong hoạt
động của hệ thống ngân hàng. Do tính chất đó, NHTW nắm giữ một trong những công cụ
quan trọng nhất để quản lí nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ. Bởi vậy,NHTWcó
vị trí đặc thù trong bộ máy quản lí và điều hành vĩ mô của nhà nước. Cho đến nay trên thế
giới có hai mô hình tổ chức và quản lí của NHTW:
• NHTW trực thuộc quốc hội,tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước quốc
hội. Theo mô hình này, Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của
NHTW, đặc biệt là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô hình này
được xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực thi chính sách tài
chính quốc gia, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Với mô hình này NHTW được
độc lập với chính phủ. Nếu NHTW trực thuộc chính phủ sẽ dễ bị chính phủ lạm dụng
công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước,dẫn đến lạm
phát.Vào lúc đó,NHTW không thể chủ động trong việc thực thi chính sách tiền tệ.với
mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.Mô hình này có ngân hàng dự trữ liên bang Hoa
Kì,Ngân hàng dự trữ liên bang của cộng hòa liên bang Đức...
• NHTW trực thuộc chính phủ, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước
chính phủ. Theo mô hình này, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với NHTW thông
qua việc bổ nhiệm các thành viên của bộ máy quản trị và điều hành NHTW, thậm chí
Chính phủ còn can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Mô
hình này được xây dựng trên quan điểm cho rằng: Chính phủ là người thực hiện chức
năng quản lý nhà nước, thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô, do đó chính phủ phải
nắm và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô. Vì vậy,để thực hiện các chức năng của
mình,chính phủ cần nắm lấy NHTW và thông qua NHTW để tác động lên chính sách
tiền tệ.Theo mô hình này có ngân hàng Anh Quốc, Ngân hàng nhà nước Việt Nam...
1.2 Chức năng của Ngân Hàng Trung Ương
1.2.1 Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng
Khi NHTW ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành giấy bạc ngân hàng được
tập trung vào NHTW theo chế độ nhà nước độc quyền phát hành tiền. NHTW trở thành
trung tâm phát hành tiền của đất nước.Tiền này có hiệu lực sử dụng bắt buộc trong toàn



quốc gia như là phương tiện trao đổi.Vì tiền mặt được xem là loại tiền mạnh nhất trong hệ
thống tiền tệ,hơn nữa,thông qua nó tiền gửi có kì hạn và không kì hạn được hình thành,cho
nên hoạt động cung ứng tiền của NHTW tác động một cách trực tiếp đến độ tăng, giảm của
tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế,qua đó ảnh hưởng đến cả sản xuất và tiêu dùng.
Giấy bạc ngân hành do NHTW phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp,làm
chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó,việc phát hành tiền của
NHTW có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước.Để cho giá trị
đồng tiền được ổn định,nó đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo các nguyên tắc
nghiêm ngặt. Các nguyên tắc cơ bản cho việc phát hành tiền tệ đã từng được đặt ra là:
• Nguyên tắc phát hành tiền phải có vàng đảm bảo. Nguyên tắc này quy định việc
phát hành giấy bạc ngân hành vào lưu thông phải được đảm bảo bằng trữ kim hiện
hữu trong kho của NHTW.NHTW phải đảm bảo việc tự do đổi giấy bạc ra vàng
theo luật định khi người có giấy bạc yêu cầu.
• Nguyên tắc phát hành giấy bạc ngân hàng thông qua cơ chế tín dụng,được bảo đảm
bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ. Theo cơ chế này, việc phát hành giấy bạc không
nhất thiết phải có vàng đảm bảo, mà phát hành thông qua cơ chế tín dụng ngắn
hạn,trên cơ sở có bảo đảm bằng giá trị hàng hóa, công tác dịch vụ, thể hiện trên kì
phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác có khả năng hoán chuyển thành tiền theo
luật định
Ngày nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra
vàng theo luật định, các nước trên thế giới đều đổi sang chế độ phát hành thông qua cơ chế
tín dụng.Đồng thời trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, NHTW thực hiện việc kiểm soát
khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các NHTM,bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất
chiết khấu...Như vậy NHTW không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ mà còn quản lí và điều
tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá trị đối nội và
giá trị đối ngoại của đồng bản tệ.
1.2.2 Là ngân hàng của các ngân hàng
Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, NHTW thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh
tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm soát quá trình tạo tiền

của các ngân hàng trung gian – khách hàng của ngân hàng trung ương.


Thứ nhất,NHTW mở tài khoản tiền gửi và bảo quản dự trữ tiền tệ cho các ngân hàng và tổ
chức tín dụng.Trong hoạt động kinh doanh của mình,các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng đều phải mở tài khoản tiền gửi và gửi tiền vào NHTW. Tiền gửi đó gồm 2 loại sau:
• Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW nhằm đảm
bảo nhu cầu chi trả trong thanh toán giữa các ngân hàng và cho khách hàng. Bên
cạnh đó, các ngân hàng trung gian mở tài khoản thanh toán tại NHTW còn giúp
NHTW có thể tận dụng nguồn vốn tạm thời dư thừa của các ngân hàng trung gian
để thực hiện các chức năng của mình.
• Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Khoản tiền dự trữ này áp dụng đối với các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ cao hay thấp
tùy theo quy định của NHTW trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách tiền tệ.
Mục đích của việc bắt buộc dự trữ này là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà ngân
hàng trung gian có thể cung cấp, tránh trường hợp các ngân hàng trung gian huy
động được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến mất khả năng thanh toán, ảnh
hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền và nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc tập trung
dự trữ của ngân hàng trung gian tại NHTW còn là một phương tiện để ngân hàng
trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, thực thi chính sách
tiền tệ.
Thứ hai,NHTW còn đóng vai trò cho vay đối với các tổ chức tín dụng:
• NHTW cấp tín dụng cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo cho nền
kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết cho từng thời kì nhất định. Mặt khác,
thông qua việc cấp vốn và lãi suất tín dụng để điều tiết lượng tiền cung ứng trong
nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ.
• Trong quá trình hoạt động của mình, các NHTM và các tổ chức tín dụng sử dụng
vốn tập trung, huy động được để cho vay với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu tiền
làm phương tiện thanh toán, các ngân hàng này được NHTW cấp tín dụng theo các
điều kiện nhất định, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ. Như vậy về thực chất là

NHTW thực hiện cung ứng tiền tệ theo nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, thông qua
việc tái cấp vốn cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác bằng nghiệp vụ chiết
khấu và tái chiết khấu.
Thứ ba,NHTW là trung tâm thanh toán của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng.Gắn với nghiệp vụ phát hành tiền, nghiệp vụ gửi tiền và cho vay đối với các ngân
hàng trung gian, NHTW là đầu mối thanh toán tiền ngân hàng, giúp cho các ngân hàng


trung gian thực hiện thông suốt trong quan hệ thanh toán với nhau xuất phát từ sự phát
triển dịch vụ thanh toán phục vụ khách hàng của họ. Hoạt động của trung tâm thanh toán
gắn liền với sự phát triển dịch vụ thanh toán của các ngân hàng trung gian, tạo lập mạng
lưới thanh toán liên hoàn trong phạm vi cả nước, cùng với việc cải tiến, hiện đại hóa công
nghệ thanh toán có ý nghĩa quyết định cho việc tập trung các luồng chu chuyển tiền tệ vận
động qua ngân hàng.
1.2.3 Là ngân hàng của nhà nước
NHTW vừa thực hiện chức năng quản lí về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng, vừa thực hiện chức năng là ngân hàng của nhà nước. Ở đây, NHTW thực hiện các
nghiệp vụ chủ yếu sau:
• NHTW là cơ quan quản lí về mặt nhà nước các hoạt động của hệ thống ngân hàng
bằng pháp luật.
• Xem xét,cấp và thu hồi giấy phép hoạt động cho các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng.
• Kiểm soát tín dụng thông qua cơ chế tái cấp vốn và tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
• Quy định nghiệp vụ,các hệ số an toàn trong quá trình hoạt động cho các ngân hàng
và tổ chức tín dụng.
• Thanh tra và kiểm soát các hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng.
• Quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng và tổ chức tín
dụng có sai phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó,NHTW còn có trách nhiệm với kho bạc nhà nước thể hiện qua việc thực
hiện các nghiệp vụ sau:

• Mở tài khoản,nhận và trả tiền gửi của kho bạc nhà nước.


Tổ chức thanh toán cho kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán cho các ngân
hàng.

• Làm đại lí cho kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ. Bảo quản quốc gia về
ngoại hối,các chứng từ có giá.
• Cho ngân sách nhà nước vay khi cần thiết.
• NHTW thay mặt ngân hàng nhà nước trong quan hệ với nước ngoài trên lĩnh vực
tiền tệ,tín dụng và ngân hàng.
• Kí kết các hiệp định về tiền tệ,tín dụng và ngân hàng với nước ngoài.


• Đại diện cho nhà nước tại các tổ chức tài chính quốc tế mà nước đó là thành viên
như IMF,WB,ADB,…
1.3 Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.3.1 Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ
1.3.1.1 Tiền tệ là gì? Vai trò của tiền tệ.
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là
một phát minh vĩ đại của loại người thúc đẩy sự phát triển của quá trình trao đổi và buôn
bán hàng hóa và dịch vụ,làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của loài người. Tuy tiền tệ là
một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội nhưng lại không có một câu trả
lời rõ ràng,thống nhất cho câu hỏi “tiền tệ là gì?”.Theo Mác,tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc
biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả
các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất
giữa những người sản xuất hàng hóa.Còn theo các nhà kinh tế học hiện đại: “Tiền được
định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá,
dịch vụ hoặc trong việc trả nợ”.Tầm quan trong của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể
hiện ở ba vai trò chủ yếu của tiền. Đó là:

Thứ nhất,tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng
hóa.C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta không thể tiến hành sản xuất hàng hóa nếu như không
có tiền và sự vận động của nó.Tiền tệ là công cụ duy nhất và không thể thiếu để thực hiện
yêu cầu quy luật giá trị.Vì vậy, nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát
triển nền kinh tế hàng hóa.
Thứ hai,tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Trong điều
kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ
không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia
mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.Cùng
với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của
mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế, nhất là
đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển
làm cho xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp
tác khoa học kỹ thuật giữa các nước.


Thứ ba, tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng.Trong
điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã
hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan đều không thể thoát ly khỏi các
quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực vạn năng xử lý
và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không những trong phạm vi
quốc gia mà còn phạm vi quốc tế.
1.3.1.2 Khái niệm về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW khởi thảo và thực thi,
thông qua các công cụ và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền,tạo
công ăn việc làm,tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều
hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các
nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế trên cơ sở đó
ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo
sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng

trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát(nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều 2, luật Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam quy
định: “chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế-tài chính của Nhà
Nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.”
1.3.1.3 Đặc trưng của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia:
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông
tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính
sách tài khóa,chính sách thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.Và trong đó chính sách
tiền tệ đóng vai trò trung tâm gắn kết các chính sách khác trong tổng thể các chính sách
kinh tế-tài chính.
Chính sách tiền tệ là công cụ kinh tế vĩ mô:Để đạt được các mục tiêu kinh tế đã
hoạch định, chính phủ cần sử dụng một hệ thống công cụ. Trong chính sách kinh tế có 4
chính sách thông dụng được sử dụng là: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách
kinh tế đối ngoại và chính sách thu nhập.Chính sách tiền tệ dùng để thay đổi lượng tiền


cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất, tác động đến đầu tư và ảnh hưởng
đến sản xuất, lưu thông hàng hóa, và do vậy chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm
vĩ mô.
NHTW là cơ quan đề ra và vận hành chính sách tiền tệ:Do chính sách tiền tệ luôn
hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát
hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ thì chính chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực
thi chính sách tiền tệ.Chủ thể đó không ai khác là NHTW.Đối với Việt Nam, mặc dù thẩm
quyền quyết định dự án chính sách tiền tệ là Quốc Hội, nhưng NHTW có trách nhiệm xây
dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để chính phủ xem xét trình Quốc Hội và là cơ quan
trực tiếp tổ chức thực hiện dự án chính sách tiền tệ sau khi được phê duyệt
Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần

thực hiện một số mục tiêu kinh tế vĩ mô khác: Bất kì một nền kinh tế nào, vai trò ổn định
của tiền tệ và nâng cao sức mua của đồng tiền trong nước cũng luôn được coi là mục tiêu
có tính chất dài hạn. Trên cơ sở thực thi chính sách tiền tệ, nhằm tác động đến lượng tiền
cung ứng để từ đó tác động đến hàng loạt các yếu tố khác trong nền kinh tế như lãi suất,
lạm phát, đầu tư, việc làm...ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trọng tâm của chính sách
tiền tệ. Có ổn định được tiền tệ thì mới khuyến khích tiết kiệm, có tiết kiệm mới có đầu tư,
và có đầu tư mới có tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp..
1.3.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.3.2.1 Ổn định giá trị đồng tiền:
Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hay tiền giấy tự do đổi ra vàng, thì giá trị tiền tệ
luôn được ổn định, do cơ chế tự phát của tiền vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy
không được tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng, thậm chí khó
tránh khỏi. Lúc này với chức năng của mình, NHTW luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn
định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ.ổn định giá cả là điều
luôn được mong muốn, bởi lẽ, nếu giá cả tăng sẽ gây tình trạng khó khăn trong cuộc sống
cho một bộ phận người lao động, mất ổn định nền kinh tế - xã hội. Tình trạng đó gây khó
khăn cho việc hoạch định các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, gây ra sự xung đột quyền
lợi giữa một số nhóm dân cư. Trong các chính sách kinh tếvĩ mô của nhà nước, không thể
có được một sự ổn định giá trị đồng tiền, khi nền kinh tế đang có một tỉ lệ thất nghiệp quá
cao.


1.3.2.2 Kiềm chế lạm phát:
Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ là tiền đề cho phát triển
kinh tế lâu dài, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động. Thông qua chính sách tiền
tệ, NHTW có thể góp phần quan trọng trong kiểm soát lạm phát. Nếu chính sách tiền tệ
của NHTW nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, tất
yếu dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, chính sách tiền tệ NHTW nhằm thắt chặt
lượng tiền cung ứng sẽ hạn chế khả năng lạm phát.Kiểm soát lạm phát được biểu hiện
trước hết ở việc ổn định giá trị đối nội của động tiền, tức là sức mua của nó đối với hàng

hóa, dịch vụ trong thị trường trong nước. Mặt khác, nó còn được biểu hiện sự ổn định giá
trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỉ giá hối đoái thả nổi.Trong nền kinh tế mở,
cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỉ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm của
các quốc gia, chính vì một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu. Ngược lại giá trị đồng bản tệ giảm
xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu...Giá trị đối nội và
đối ngoại của đồng bản tệ có quan hệ mật thiết với nhau.Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn
định giá trị đồng tiền cũng không đồng nghĩa với tỉ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, trong
thực tế, để giảm được tỉ lệ lạm phát thì thường phải chấp nhận một tỉ lệ thất nghiệp gia
tăng nhất định nào đó.
1.3.2.3 Hạn chế thất nghiệp:
Việc làm cho người lao động luôn là một vần đề quan trọng đối với bất kì quốc gia
nào trên thế giới. Nếu có thất nghiệp sẽ đẩy người lao động và gia đình của họ đến khó
khăn về tài chính, và sẽ là nguyên nhân gây nên tệ nạn xã hội, không những thế, còn dẫn
đến việc lãng phí tài nguyên như nhà máy thiết bị...và làm cho GDP giảm xuống. Thông
qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến việc làm, tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu
chính sách tiền tệ của NHTW nhằm mở rộng lượng tiền cung ứng sẽ tạo điều kiện mở rộng
đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm
cao, tỉ lệ thất nghiệp thấp và ngược lại.Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao
không đồng nghĩa với mức tỉ lệ thất nghiệp bằng không mà ở mức tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Mặt khác, thông thường để có một tỉ lệ thất nghiệp thấp thì phải chấp nhận một tỉ lệ
lạm phát gia tăng nhất định, hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực hiện
chính sách tiền tệ.
1.3.2.4 Tăng trưởng kinh tế:


Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ
có thể tác động đồng thời đến 2 mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn
hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhà nước
và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng

trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế
đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp sẽ cần ít lao
động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
1.3.3 Nội dung của chính sách tiền tệ:
Kiểm soát cung ứng tiền tệ và điều hòa lưu thông tiền tệ: Việc xây dựng và thực thi
chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kì nhất
định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ
trong thời kì đó. Tuy nhiên, khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi chỉ là tiền định
lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả
và tỉ giá hối đoái, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, về mức độ hoạt động thanh toán
bằng tiền mặt trong nền kinh tế...Từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối
lượng tiền tệ tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc thiếu phương tiện thanh toán
cho nền kinh tế.
Kiểm soát hoạt động tín dụng: Khối lượng tín dụng mà NHTM cung ứng cho nền
kinh tế chủ yếu từ 3 nguồn sau: vốn tự có của ngân hàng, vốn huy động từ các nguồn nhàn
rỗi trong nền kinh tế, vay tái cấp vốn tại NHTW. Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn
ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng
tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng một số công cụ như lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở…khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, NHTW sẽ giành chủ
yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có dự tính đến
tỉ lệ lạm phát.NHTW luôn đóng vai trò là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với hệ
thống NHTM, nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, kiểm soát các nguồn tiền
gửi của các NHTM và tổ chức tín dụng.
Kiểm soát ngoại hối: Ngoại hối bao gồm ngoại tệ(thường là các ngoại tệ mạnh), vàng
tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ tiền tệ khác. Để ổn định
giá trị đồng bản tệ, NHTW thực hiện các giao dịch về tài chính - tiền tệ và sử dụng một số
chính sách để tác động đến khối lượng tiền tệ trên các phương diện.


Chính sách với Ngân sách Nhà Nước: Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn,chính

sách tiền tệ cần xử lí mối quan hệ của nó với chính sách tài khóa, trước hết là chính sách
thu chi ngân sách. Cách xử sự của chính sách tiền tệ với ngân sách tùy thuộc vào tình trạng
cán cân ngân sách có cân bằng không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế
nào vào lưu thông tiền tệ.


CHƯƠNG 2:
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐÓ
2.1 Công cụ tái cấp vốn
Theo luật số 46/2010/QH12 luật ngân hàng nhà nước năm 2010 đã quy định tại điều 11:
“Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng”
2.1.1 Cơ chế tác động
Với công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết
khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó
làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông.Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho
lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM
đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng
lên. Ngược lại, khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái
cấp vốn lên.Lúc này, một mặt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM có ý
định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết
định vay.
Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn
để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.Cụ thể, khi NHTW
tăng tổng hạn mức tái cấp vốn, điều đó có nghĩa là các NHTM có thể được vay ở NHTW
nhiều hơn. Điều này sẽ làm tăng vốn khả dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của
hệ thống ngân hàng. Nhưng tác động trên sẽ hoàn toàn ngược lại nếu NHTW giảm hạn
mức tái cấp vốn xuống.
Hiện thực trạng cho vay tái chấp vốn của NHNN vẫn tồn tại một số hạn chế:

Thứ nhất là tên gọi công cụ “tái cấp vốn” đã gây nhầm lẫn cho nhiều người đọc, nhất
là các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách nước ngoài thuộc các tổ chức tài chính


quốc tế. Thuật ngữ “tái cấp vốn” được hiểu là NHNN cấp/bổ sung vốn hoạt động cho các
ngân hàng, nhất là các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Trong khi thực tế, hoạt động tái cấp
vốn của NHTW chỉ hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng và quan hệ tái cấp vốn ngày là quan hệ vay trả có thời hạn.Điều này làm
giảm tính minh bạch trong hoạt động tái cấp vốn củaNHTW.
Thứ hai là hiệu lực can thiệp của công cụ này đến thị trường tiền tệ chưa cao và mối
liên hệ giữa công cụ tái cấp vốn và tổng phương tiện thanh toán chưa rõ ràng.
Thứ ba là thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố giấy tờ cấp vốn (GTCG)
của NHTW còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các NH có trụ sở chính tại Hà Nội thì
thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm
việc, nhưng đối với các NH không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị
kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc.
Thứ tư là sự quan tâm và hiểu biết của hệ thống NHTM tới các nghiệp vụ tái cấp vốn
không đồng đều và nhìn chung chưa cao. Các ngân hàng thường xuyên tiếp cận với nguồn
vốn này chỉ là 4 NHTM Nhà nước có trụ sở tại Hà Nội.
2.1.2 Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng
của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm
phát hoặc kích thích tăng trường kinh tế. Đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay
để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì
với số tiền NHTW cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả
năng sẵn sàng thanh toán.
* Nhược điểm:
NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết.Trong trường hợp này, quyền
lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau.NHTW có quyền cho vay và để khuyến

khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống.Nhưng NHTM lại có quyền quyết định vay
hoặc không vay và nếu NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn
không thực hiện được.
2.2 Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Trong hoạt động cho vay của ngân hàng,tình trạng tiền cho vay chưa thu về được nhưng
khách hàng gửi tiền đã có nhu cầu rút về là một hiện tượng rất dễ xảy ra và nó gây ra rủi ro


thanh khoản của NHTM. Khi rủi ro thanh khoản xảy ra, ngân hàng mất khả năng thanh
toán - các khoản tiền gửi ở các ngân hàng sẽ nhanh chóng “bay hơi”, không những thế nó
còn làm “bay hơi” giá trị tài sản và các khoản dự trữ của ngân hàng đó và theo phản ứng
dây chuyền thì rủi ro này sẽ làm chấn động toàn hệ thống ngân hàng. Vì thế, như một kết
quả cần phải có, các nhà phân tích đã chỉ ra rằng các NHTM phải để dự trữ bắt buộc vì đây
chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời kỳ hoảng loạn.Vào
những năm 30 của thế kỷ 20, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc dần được sử dụng phổ biến ở các nước.Và lúc này, người ta nhìn nhận dự trữ bắt
buộc trong một vai trò khác - dự trữ bắt buộc là công cụ để NHTW các nước sử dụng để
điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế.Theo luật ngân hàng nhà nước 2010 tại điều 14 đã quy
định: “Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.”
2.2.1 Cơ chế tác động
Dự trữ bắt buộc tác dụng đến tiềm năng tín dụng của các ngân hàng: Khi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi ngân hàng. Với
tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì phần chênh lệch
còn lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân
hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng
nào đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới
cho một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ
thống ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên
nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua

đó cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng.
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên
lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các ngân
hàng ở NHTW không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi dự trữ bắt buộc tăng
lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các NHTM.
Điều này được các ngân hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị
trường tín dụng.


Do lãi suất là “món quà” cho người gửi tiền nhưng đồng thời cũng là chi phí cho những
người đi vay nên việc thay đổi lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định cho vay
và đi vay vì thế nó có ảnh hưởng không nhỏ đến lượng vốn huy động cũng như lượng vốn
khả dụng của NHTM.Và điều đó tác động ngược trở lại lên cung tiền của nền kinh tế như
đã trình bày trong mục ảnh hưởng của dự trữ bắt buộc đối với tiềm năng tín dụng của ngân
hàng.
Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng:Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết
quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng tín dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng
là mục tiêu cuối cùng mà NHTW muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc sẽ được nâng lên nếu NHTW thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục
tiêu kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở
rộng sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTW sẽ hạ tỷ lệ dự trữ
bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể
hiện qua công thức tính hệ số nhân tiền:

Hệ số tạo tiền

Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong nền kinh tế

là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô, khối lượng tín dụng mà
cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn giản chỉ làm tăng hay giảm đơn
thuần mà làm thay đổi theo số lần về tiền trong lưu thông.
NHTW các nước thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là công cụ điều hành
chính sách tiền tệ, giúp NHTW kiểm soát hệ số nhân tiền và trên cơ sở đó kiểm soát khối
lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ mà tỷ lệ
dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau. Điều này được chứng minh rất rõ ở nước ta
trong thời gian qua
Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc (VND)
Văn bản
11%1- 5%2
187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%1- 4%2
2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
1
2
8% - 2%
2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
1
2
6% - 2%
2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
1
2
5% - 1%
3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
1
2
3% - 1%
379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009

1
( ): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng


(2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
Bảng 1: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam
từ tháng 1/2008 đến tháng 1/2011
Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều
chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền
tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho
vay, kích thích các NHTM đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền
kinh tế.Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang muốn điều
chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho
ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó
còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.Những căn cứ cụ thể sau thường được sử
dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà nghĩa vụ
dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định càng cao và
độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi này
thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô của
các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ
tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau nên
NHTW có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác nhau.
Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền
gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ
dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân
hàng cũng được quan tâm.Điều đó được thể hiện qua việc ban hành Quyết định số
379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN

áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại hình tổ chức
tín dụng.Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày
08/12/2010, NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc áp dụng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp và nông
thôn cao theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo đó, Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/20 so với tỷ lệ dự


trữ bắt buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long, NHTM cổ phần Mê Kông
được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường.
(www.sbv.gov.vn). Với quy định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư
của các NHTM.
2.2.2 Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
* Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
* Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và
tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện.
* Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM giúp NHTM tránh được rủi ro do mất
khả năng thanh toán.
Nhược điểm:
* Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ
trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
* Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với
một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
* Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho
các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hàng đó khó
khăn hơn.

2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng của chính sách tài khóa và hiện nay
đang được sử dụng nhiều ở các nước. Có thể hiểu đơn giản nghiệp vụ thị trường mở là việc
NHTW mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông
qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động
gián tiếp đến lãi suất thị trường.
2.3.1 Cơ chế tác động


Khi NHTW bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường như trái phiếu chính
phủ, những nơi khác mua, khi đó NHTW sẽ "thu tiền" về theo cơ chế sau: tài khoản vãng
lai của người mua trái phiếu chính phủ bị NHTM ghi nợ và NHTW sẽ ghi giảm tài khoản
tiền gửi dự trữ của các NHTM tại ngân hàng mình. Vì tỷ lệ tiền mặt dự trữ của NHTM
bằng tiền gửi dự trữ tại NHTWcộng với tiền mặt dự trữ tại két của họ nên khi tài khoản
tiền gửi dự trữ của các NHTM tại NHTW giảm xuống, cơ sở tiền tệ đã giảm đi làm giảm
cung tiền một lượng bằng giá trị của trái phiếu chính phủ bán ra nhân với số nhân tiền
tệ. NHTW sử dụng biên pháp này khi muốn thắt chặt tiền tệ và ngược lại. Khi NHTM bán
lại giấy tờ có giá của chính phủ cho NHTW thì NHTW trả tiền cho NHTM bằng cách ghi
tăng khoản tiền dự trữ của NHTM tại ngân hàng mình. Tiền của NHTM tăng làm cơ sở
dẫn đến cung tiền tăng (cung tiền = [tiền mặt + tiền dự trữ (tăng)] x số nhân tiền tệ .Việc
ghi tăng tài khoản dự trữ của các NHTM có thể dẫn đến NHTW phải in thêm tiền giấy nếu
các NHTM có nhu cầu lớn về tiền giấy và đến NHTW xin rút tiền giấy trong khi tiền giấy
của NHTW không đủ đáp ứng.Đây là hoạt động mở rộng tiền tệ của NHTW.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều
hành chính sách tiền tệ.Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù
vậy, việc triển khai NVTTM cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế,
chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp
các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời. NVTTM đang
dần trở thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông,

góp phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM.
Thực tiễn điều hành NVTTM thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các NHTM gia
tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường mở theo hướng chủ yếu là
chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày. Lãi suất qua kênh này cũng được
giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7 ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và tương đối ổn định
suốt thời gian qua. Lãi suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm.
Hoạt động thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối lượng trúng thầu (loạt
phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000 - 8.000 tỷ đồng, cao
hơn so với trước kia.
2.3.2 Ưu, nhược điểm
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác
của chính sách tiền tệ:


- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả
năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức
thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào,NHTW cũng có thể thực
hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết đinh sai lầm về việc sử dụng công
cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW thấy
rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở
thì nó có thể sửa chữa ngay được bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về
mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và
thực hiện ngay trong phiên giao dịch
2.4 Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông do đó nó
được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức
cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sự tăng , giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm

hãm sản xuất vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương , chính sách và giải pháp
cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng
trong từng thời kỳ nhất định.
2.4.1 Cơ chế tác động
* Cơ chế điều hành gián tiếp:
Thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có
giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất
cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW
chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay
cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và
cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh
tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị
trường.Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế,
phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua


việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác
động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng.Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất thị
trường tiền tệ ngân hàng.Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín
dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống
tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở lên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất
trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để
duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức,
NHTW Châu Âu, lãi suất tiền gửi liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ...
* Cơ chế điều hành trực tiếp:
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế , như
quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất , trần lãi suất cho vay,

biên độ chênh lệch lãi suất bình quân.Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay
tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi
lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp.
Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất
tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do
hoá, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý
trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý
trực tiếp này.
2.4.2 Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Nếu sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời
kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư
phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ
với cán cân thanh toán quốc tế.
* Nhược điểm:
Nếu sử dụng cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất sẽ
trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền kinh tế. Có thể nói lãi suất vừa là công cụ quản lý
vừa là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ.
2.5 Công cụ hạn mức tín dụng


Hạn mức tín dụng- một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành
chính của NHTW, là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tíndụng phải tuân thủ
khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của NHTM, NHTW
quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Mức dư nợ quy định cho từng ngân
hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó, trong định hướng cơ cấu kinh tế
tổng thể cà nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế
trong một khoảng thời gian nhất định.
2.5.1 Cơ chế tác động
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng qua đó khống chế tổng

lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của
NHTW đối với hệ thống ngân hàng.Qua sử dụng hạn mức tín dụng , NHTW nhằm điều
chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn
mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức
riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức
cho vay của hệ thống ngân hàng, NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng
hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của
các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
2.5.2 Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế
tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
* Nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế có một số
bất lợi sau:
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn bị giới hạn, không
thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM, có tính chất đánh
đồng các hoạt động tốt và hoạt động yếu. Bởi vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng
thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa nếu không sẽ gây đọng vốn và sẽ
thiệt hại cho ngân hàng.


- HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM bởi với hạn mức tín dụng được
NHTW quy định thì các NHTM sẽ tìm đến dự án đầu tư lớn, những lĩnh vực đầu tư dễ sinh
lợi nhuận gây ra khó khăn vốn trong các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng đến cơ cấu nền
kinh tế.
- Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho
các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ

trước. Bởi những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn
chế trong khi các NH không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức
đã được phân bổ cho chúng. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài
chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của NHTW. Kết quả
cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó
bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khỏi hạn mức đó.
2.6 Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nói cách khác,
tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một số lượng
đơn vị tiền tệ của nước khác.Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện
quan hệ cung cầu ngoại hối.
2.6.1 Cơ chế tác động
Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một
cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện
tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá
không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ
trong lưu thông.Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển
đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
2.6.2 Ưu, nhược điểm
*Ưu điểm: Sự biến đổi của tỷ giá có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế, từ hoạt
động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá
cả hàng hóa.
*Nhược điểm: Việc vận dụng công cụ này không phải là việc NHTW đẩy tỷ giá lên cao
hay kéo tỷ giá xuống thấp, mà là ổn định tỷ giá ở một mức độ nào đó được coi là hợp lý,
phù hợp với đặc điểm và điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn.


CHƯƠNG 3:
ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

3.1 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
3.1.1 Thành tựu
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của
Nhà nước. NHTW sử dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền kinh
tế, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Những cột mốc sau đây
nói rõ điều đó:
- Trước năm 1999, là quá trình vừa đổi mới, vừa điều chỉnh hoạt động thích ứng với cơ chế
thị trường. Quá trình phân phối nguồn lực của nền kinh tế đã từng bước căn bản sử dụng
công cụ thị trường - tiền tệ thay cho công cụ phân phối - hiện vật.
- Đến hết năm 1999, đã căn bản khắc phục xong hiệu ứng trễ của cuộc khủng hoảng tiền tệ
khu vực, góp phần kéo lạm phát từ mức 9,2% năm 1998 xuống còn 0,1% năm 1999. Tiếp
đó là quá trình chủ động kiềm chế và kiểm soát lạm phát (năm 1999: 0,1%; 2000: 0,6%;
2001: -0,2%; 2002: 4%; 2003: 3%; 2004: 9,5%).
- Bắt đầu từ năm 2000, đã đổi mới căn bản cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái từ chỗ công bố
tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối
dài sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ. Cơ chế
này hiện vẫn đang phát huy được tác dụng rất tích cực.
- Từ năm 2000, đã đẩy mạnh hơn quá trình tự do hoá lãi suất và đến 6/2002 đã thực hiện
cơ chế lãi suất thoả thuận và tự do hoá hoàn toàn lãi suất trên thị trường tín dụng thương
mại.
- Từ 2001 đến nay, đã xây dựng và triển khai mạnh mẽ đề án cơ cấu lại các NHTM nhà
nước (NHTMNN) - Theo đó, đã thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội tách ra khỏi
NHTMNN, đã căn bản cơ cấu lại tài chính, đang đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nghiệp vụ
và tiến tới từng bước cơ cấu lại sở hữu đối với các ngân hàng này.
- Từ 1999 đến 2003, về cơ bản đã thực hiện thành công việc điều hành một CSTT kích cầu
góp phần chống giảm phát và thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mức
bình quân trên 7,3%/năm trong 6 năm liền (1999 - 2004);
- Từ quí II/2004 đến nay, đã căn bản thành công trong việc điều hành một CSTT thận
trọng có kiểm soát. Nhờ đó, đã trực tiếp góp phần chống lại nguy cơ bùng nổ lạm phát vào
năm 2004 và những tháng đầu năm 2005.



3.1.2 Hạn chế
Chính sách tiền tệ của NHTW thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách
tiền tệ đang bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống
tài chính-tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó
có chính sách tiền tệ, đe dọa sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô đồng thời
đe dọa sự ổn định kinh tế về trung và dài hạn. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó
khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Có thể kể đến một số
hạn chế như sau:
Thứ nhất, các công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn ở dạng sơ khai, chưa được hoàn
chỉnh theo cơ chế thị trường. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan
chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lý tốt.
Thứ hai, kinh doanh của hầu hết các NHTm còn gò bó, thiếu chủ động, tự chủ.Phần lớn
các NHTM cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn
hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn phân tán, hiệu quả thấp. Rủi ro tín
dụng ngân hàng là đáng lo ngại và luôn luôn thường trực.
Thứ ba, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có những
điều kiện căn bản để từng bước tự do hóa lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái.Thị trường vốn
mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung cấp vốn đầu tư trung dài hạn cho nền kinh tế
còn rất yếu kém. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn
và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn. Đó là
những trở ngại lớn cho NHTW tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường nhằm đạt
được mục tiêu kinh tế của đất nước.
Thứ tư, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng từ nợ
nước ngoài cũng như gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía
đe dọa tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng
được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù
đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên nhân chính khiến đồng tiền Việt Nam bị quá cao, kích

thích tâm lý tích trữ dưới dạng ngoại tệ. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng
nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng sau đó một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát
xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu


×