Phần I : Mở đầu.
ổn định tiền tệ, tăng trởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. luôn là mục
tiêu của bất kỳ quốc gia nào (dù là nớc đà đang hay kếm phát triển). Để đạt
đợc mục tiêu đó, mỗi quốc gia phải thực hiện các chính sách kinh tế Vĩ mô
phù hợp với hoàn cảnh của mình- đặc biệt là chính sách tiền tệ.
Việt Nam cũng vậy, sau hơn 10 năm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết
của nhà nớc, cùng với việc thực hiện chính sách mở cửa hợp tác quốc tế và
chính sách tiền tệ một cách đúng đắn đà đạt đợc những kết quả đáng khích lệ
(nh giải quyết đợc nhiều công ăn việc làm , giữ cho đồng tiền ổn định, kiềm
chế đợc lạm phát, nền kinh tế luôn tăng trởng ở mức cao). Đồng thời với sự
chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp
(23/5/1990) Ngân hàng trung ơng cũng có sự thay đổi về cách thức tổ chức
và phơng thức hoạt động để phát huy tốt chức năng, vai trò của mình nhằm
đạt đợc các mục tiêu, đa nền kinh tể phát triển đúng hớng trong điều kiện
mới.
Để điều hành tốt chính sách tiền tệ thì việc lựa chọn và sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ là rất quan trọng. Đó là quá trình diên ra trong
nhiều năm và tuỳ vào điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà phải sửa
đổi, thay đổi hay loại bỏ. ở nớc ta những năm đầu thập niên 90 Ngân hàng
trung ơng đà sử dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ và đạt đợc một số kết quả khả quan. Nhng vào cuối những năm 90 đầu năm 2000 khi
mà tốc độ hội nhập quốc tế khu vực và quốc tế nhanh hơn , những cuộc
khủng hoảng tài chính kinh tế diễn ra liên tiếp, cạnh tranh giữa các nớc tăng
thì các công cụ này đà bộc lộ những hạn chế. Vì vậy, Ngân hàng nhà nớc đÃ
chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp, một hớng đi đúng đắn phù hợp với
điều kiện khách quan và quy luật phát triển. Tuy hạn chế đựoc những nhợc
điểm của công cụ trợc tiếp và bớc đầu đạt đợc kết quả nhng bên cạnh đó cßn
1
có những bất cập cần phải điều chỉnh để sử dụng linh hoạt hơn. Từ việc nhận
thức đợc thực trạng và tầm quan trọng của chính sách tiền tệ cũng nh việc sử
dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ em xin đợc nghiên cứu đề
tài Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân
hàng nhà nớc Việt Nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỉ 21 qua đó
em muốn hiểu sâu hơn về chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ơng và việc
sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ, từ đó có thể bàn luận, đóng góp một
số ý kiến của bản thân nhằm sử dụng tốt các công cụ gián tiếp của chính sách
tiền tệ.
Bố cục bài viết gồm 3 chơng.
Chơng 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ và công cụ của chính sách tiền
tệ.
Chơng 2: Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
ở Việt Nam từ đầu năm 90 đến nay.
Chơng 3: Một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Dù rất cố gắng nghiên cứu sách và các tài liệu khác nhng do kiến thức
thực tế còn quá ít ỏi hạn chế, khả năng nhận thức vấn đề còn cha sâu nên bài
viết này không tránh khỏi những thiếu sót và ý kiến chủ quan của bản thân.
Vì vậy em mong các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng tài chính xem xét
giúp đỡ chỉ bảo để em hoàn thiện bài viết đợc tốt hơn. Đặc biệt em xin chân
thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Tài đà giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
2
Phần II: Nội dung
Chơng 1
Tổng quan về chính sách tiền tệ và các công cụ
của Chính sách tiền tệ.
1.1 Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó ngân hàng
sử dụng các công cụ của mình, để điều tiết và kiểm soát khối lợng tiền
trong lu thông, nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy
sự tăng trởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.
Ngân hàng trung ơng (NHTW) thực hiên chính sách tiền tệ (CSTT),
là quá trình NHTW kiểm soát tiền tệ, sao cho khối lợng tiền tệ cân đối với
mức tăng trởng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đói giữa tổng
cung và cầu về tiền tệ. Một CSTT đúng đắn phải hớng vào việc kiểm soát
nguồn gốc, làm tăng hoặc giảm lợng tiỊn cung øng trong nỊn kinh tÕ.
ChÝnh s¸ch tiỊn tƯ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động, của
bất cứ NHTW của nớc nào. Một CSTT phù hợp với tình hình kinh tế, chính
trị, xà hội của mỗi nớc sẽ giúp quốc gia đó nhanh chóng đi vào ổn định và
tạo đà đi lên, trên con đờng phát triĨn. Khi nỊn kinh tÕ cã dÊu hiƯu suy
tho¸i NHTW sẽ quyết định CSTT theo hớng mở rộng cung ứng tiền tệ, để
tạo điều kiện khuyến khích đầu t, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm,
khi nền kinh tế co dấu hiệu lạm phát cao, NHTW phải vận dụng CSTT,
theo hớng thu hẹp lợng tiền cung ứng, hạn chế đầu t, hạn chế sự phát triển
quá đà của nền kinh tế.
1.1.2 Mục tiêu của CSTT
CSTT một mặt cung cấp phơng tiện thanh toán cho nền kinh tế, mặt
khác phải giữ ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thúc đẩy tăng trởng
3
kinh tế, vì thế mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ luôn nhất quán với
các chính sách kinh tế vĩ mô.
1.1.2.1 ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát.
Trong điều kiện lu thông tiền giáy không tự do chuyển đổi ra vàng,
lạm phát luôn là khả năng tiềm Èn, thËm trÝ khã tr¸nh khái ë c¸c níc. Vi
vËy việc ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của CSTT và là mục tiêu dài
hạn..
Thông qua CSTT, NHTW có thể góp phần quan trọng kiểm soát lạm
phát. Khi NHTW thùc hiƯn chÝnh s¸ch, nh»m më réng cung øng tiền tệ,
dẫn đến giá cả tăng, lạm phát tăng, khi NHTW thực hiện chính sách nhằm
thắt chặt cung ứng tiền tệ, giá cả giảm, lạm phát giảm.
Kiểm soát lạm phát của NHTW đợc biểu hiện một mặt NHTW góp
phần cân đối giữa tổng cung và tổng cầu của toàn xà hội. Qua ổn định sức
mua đối nội của dòng tiền quốc gia. Giá trị đối nội của dòng tiền quốc gia,
là sức mua của nó đối với hàng hoá dịch vụ trên thị trờng trong nớc. Muốn
ổn định sức mua, chính sách tiền tệ phải đảm bảo giữ mức giá chung đợc
ổn định. Vì sức mua của đồng tiền vận động ngợc chiều với sự vận động
của giá cả hàng hoá. dịch vụ, khi đó sẽ kiểm soát đợc lạm phát.
Mặt khác, NHTW tác động mạnh mẽ tới việc cung cầu ngoại tệ để
giữ vững tỷ giá, góp phần ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Tức là
ổn định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là đại lợng so sánh giữa giá trị
đồng tiền trong nớc và đồng tiền nớc ngoài, nó cho thấy sức mua của đồng
tiền nội tệ trên thị trờng quốc tế. Tỷ giá là phạm trù kinh tế phức tạp và nó
liên quan đến nhiều yếu tố: Tỷ lệ lạm phát, thực trạng cán cân thanh toán
quốc tế, tình hình cung ứng tiền tệ, thị trờng hối đoái, mức chênh lệch lÃi
suất giữa các nớc, tác động của các hoạt động đầu t ngoại tệ.
ổn định đồng tiền quốc gia không có nghĩa là cố định nó. Sức mua
đối nội và sức mua đối ngoại, có thể biến động trong một thời kỳ nào đó,
4
nhng sự biến động cần đợc duy trì và kiểm soát ở mức độ hợp lí cho phát
triển.
ổn định giá trị có tầm quan trọng đặc biệt, định hớng phát triển kinh
tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi
trờng kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế có mức lạm phát thấp, ổn định sẽ tạo
môi trờng đầu t, mở rộng sản xuất phân phối thu nhập một cách hiệu quả.
Nhng nếu tỷ lệ lạm phát cao, những thông tin thu đợc từ nền kinh tế méo
mó vì vậy định hớng phát triển đề ra sẽ không phù hợp, và dẫn đến hậu
quả lớn đến nền kinh tế, phân phối lại không dân chủ các nguồn lực kinh
tế, xà hội trong nhóm dân c. Vì vậy NHTW phải góp phần thúc đảy nền
kinh tế tăng trởng liên tục và ổn định, triệt tiêu những nhân tố làm tăng cầu
giả tạo hoặc đẩy chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này l·i st vµ cung
øng tiỊn tƯ lµ hai vị khÝ lợi hại nhất.
Tuy nhiên kinh nghiệm một số nớc cho thấy một tỉ lệ lạm phát vừa đủ
thờng là một con số, là cần thiết cho sự phát triển kinh tế xà hội song phải
chống lại lạm phát phi mÃ.
1.1.2.2 Tạo việc làm.
Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân nói riêng và các
nớc nói chung. Có việc làm, có thu nhập sẽ làm tăng mức sống của mỗi
ngời, mỗi quốc gia sẽ giàu mạnh. Nhng nếu tỉ lệ thất nghiệp cao, nó không
những ảnh hởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hởng đến xà hội do Nhàn c
vi bất thiện. Nhiều tội ác tăng lên, thất nghiệp làm tăng lÃng phí các
nguồn lực: những ngời lao động ngồi không tăng, nhà máy không sản
xuất, tổng sản phẩm quốc dân giảm.
Nh vậy việc làm là ®iỊu ai cịng mong mn. Th«ng qua CSTT,
NHTW cã biƯn pháp tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiêp. Nếu chÝnh
CSTT cđa NHTW nh»m më réng cung øng tiỊn tƯ, tạo điều kiện đầu t sản
xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, vậy tỉ lệ
thất nghiệp thấp. Ngợc lại nếu CSTT nhằm giảm cung ứng tiền tệ, các
doanh nghiệp & nhà nớc cần ít lao động dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp tăng.
5
Tuy nhiên đảm bảo việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỉ lệ thất
nghiệp bằng không mà ở mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Nhìn chung, việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc
vào tình hình tăng trởng kinh tế. Tuy nhiên khi tăng trởng kinh tế đạt đợc
do kết quả của cải tiến kỹ thuật việc làm có xu hớng giảm, dẫn
đến
thất nghiệp tăng. Do đó cần phải chấp nhận thực tế thất nghiệp là căn
bệnh kinh niên đối với tất cả các xà hội nơi mà sức lao động đợc coi là
hàng hóa.
Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các
công cụ của mình góp phần tăng cờng đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc chống suy thoái theo chu kỳ, tạo
ra sự tăng trởng kinh tế liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp
không quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
1.1.2.3 Tăng trởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Sự tăng
trởng phải đợc hiểu cả về số và chất lợng. Chất lợng của tăng trởng kinh tÕ
cđa mét qc gia biĨu hiƯn ë mét c¬ cÊu kinh tế cân đối và khả năng cạnh
tranh của hàng hoá tăng lên. Với t cách là trung tâm tiền tƯ, tÝn dơng,
thanh to¸n trong nỊn KTQD, NHTW cã vai trò quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu này.
Muốn tăng trởng kinh tế phải gia tăng đầu t, mở rộng sản xuất. Muốn
gia tăng đầu t, bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân sách nhà nớc, ngời ta chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu t tín dụng của hệ thống dới
sự tác động của NHTW.
Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lÃi suất tín dụng giảm,
sẽ khuyến khích đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhà nớc và doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn nhiều hơn, làm tăng sản lợng, tăng trởng
kinh tế. Ngợc lại khi cung ứng tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lÃi suất sẽ tăng
lên hạn chế sự đầu t, hu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhµ níc vµ
6
doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lợng giảm, tăng trởng
kinh tế chậm lại.
Qua sự phân tích trên ta thấy giữa việc tăng giảm lọng tiền cung ứng
và việc tăng trởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng. Vì vậy NHTW cần
bằng mọi phong thức để huy động hầu hết cac nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong nớc và vay nớc ngoài để đạt đợc mục tiêu tăng trởng kinh tế hàng
năm 9-10 %.
1.1.2.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu.
Trong dài hạn đờng cong Philíp trở lên thẳng đứng ngụ ý rằng các
mục tiêu của chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và
thúc đẩy nhau. Điều này cho thấy rằng trong quá trình thực thi chính sách
tiền tệ không thể tuyệt đối hoá mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục
tiêu độc lập. Tuy nhiên trong ngắn hạn hình dạng của đờng cong Philíp thể
hiện sẽ mâu thuẫn giữa ổn định giá cả, tăng trởng và thất nghiệp:
Việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện một chính
sách tiền tệ thắt chặt, lÃi suất tăng, làm giảm các nhân tố cấu thành tổng
cầu do đó ảnh hởng đến tổng cầu của nền kinh tế. Vì thế thất nghiệp có xu
hóng tăng lên. Mặt khác, viƯc duy tr× mét tû lƯ thÊt nghiƯp thÊp thêng kéo
theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá.
Bằng việc hạ giá đồng bản tệ các nghành công nghiệp xuất khẩu có
khả năng mở rộng. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm kèm theo sự tăng lên của
mức giá chung. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
cách xử lí mâu thuẫn trên:
ã Có quan điểm cho rằng, cần chấp nhận một tỉ lệ lạm phát vừa phải, tức
là lạm phát ở mức một con số để đạt đợc mức độ tăng trởng vừa phải và
một tỉ lệ thất nghiệp có thể chấp nhận đợc. Trong khi đó một số nhà kinh
tế học cho rằng cần phải đa mục tiêu chống lạm phát lên hàng đầu.
ã Riêng đối với NHTW thì trong ngắn hạn NHTW không thể đạt đợc tất
cả mục tiêu trên. Phần lớn NHTW các nớcc có sự ổn định giá cả lµ mơc
7
tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Nhng trong ngắn hạn, đôi
khi họ phải từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp
cao, đột ngột hoặc các ảnh hởng của các cú sốc cung đối với sản lợng.
NHTW đợc coi là có quyền lực làm việc này vì nó nắm trong tay các công
cụ điều chỉnh lợng tiền cung ứng. Có thể nói NHTW theo đuổi một mục
tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn. Để đạt đợc mục tiêu
này, NHTW cần sử dụng và điều hành CSTT một cách linh hoạt và có hiệu
quả, phù hợp với tình hình thực tế.
1.1.3. Công cụ của CSTT.
Trong phạm vi bài viết, chỉ nghiên cứu ba công cụ chính, thờng đợc
sử dụng trong thời gian gần đây đó là: nghiệp vụ thị trờng mở, chính sách
chiết khấu và dự trữ bắt buộc.
1.1.3.1 Nghiệp vụ thị trờng mở.
Là hoạt động NHTW mua bán các chứng khoán trên trên thị trờng
mở với mục đích tác động tới thị trờng tiền tệ, điều hoà cung cầu tiền tệ về
giấy tờ có giá, gây ảnh hởng đến khối lợng dự trữ của các NHTM tại
NHTW và ảnh hởng gián tiếp đến các múc lÃi suất, từ đó ảnh hởng đến
khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng này, làm thay đổi mức
cung tiền.
Trên thÞ trêng më, NHTW chđ u mua tÝn phiÕu kho bạc nhà nớc.
Bằng cách mua chứng khoán, NHTW làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm
tăng lọng tiền cung ứng. Ngợc lại bằng cách bán chứng khoán trên thị trờng mở cho bất cứ đối tợng nào. NHTW sẽ thu hút tiền vào làm giảm khối
lợng tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của NHTM tại NHTW bị giảm, từ đó
hạn chế khối lợng cấp phát tín dụng.
Nếu sự mua bán trái phiếu không có NHTW tham gia, mà chỉ có các
NHTM với nhau thì khối lọng tiền tệ không thay thay đổi, đó chỉ là sự
dịch chuyển trái phiếu từ NHTM này sang NHTM khác và một sự di
chuyển ngợc lại từ một phần dự trữ thặng d của ngân hàng thừa vào dự trữ
của ngân hàng thiÕu.
8
Thị trờng mở là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều
tiết lợng tiền cung ứng, nó là yếu tố quyết định quan trọng đối với những
thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây lên những biến động
trong cung ứng tiền tệ.
Có hai loại nghiệp vụ thị trờng mở, là nghiệp vụ thị trờng mở chủ
động, nhằm thay đổi mức dự trữ cơ số tiền và nghiệp vụ thị trờng mở thụ
động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác, đà làm ảnh hởng đến cở số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trờng mở có u điểm là:
ã Nghiệp vụ thị trờng mở linh động, chính xác có thể sử dụng ở bất kỳ
mức độ nào.
ã NHTW dễ dàng đảo ngợc đợc tình thế của mình. Khi có một sai lầm
xảy ra khi tiến hành nghiệp vụ thị trờng mở, NHTW có thể lập tức đảo ngợc việc sử dụng công cơ ®ã. NÕu NHTW thÊy r»ng cung øng tiỊn tƯ tăng
quá nhanh do mua quá nhiều chứng khoán trên thị trờng mở, thì lập tức nó
có thể chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán.
ã Nghiệp vụ thị trờng mở có thể đợc hoàn thành nhanh chóng không gây
những chậm trễ về mặt hành chính. Khi NHTW muốn thay đổi cơ số tiền
tệ hoặc dự trữ, nó chỉ việc ra lệnh cho ngời kinh doanh chứng khoán và
việc mua bán đợc thực hiện ngay tức khắc .
ã NHTW có thể kiểm soát đợc hoàn toàn lợng nghiệp vụ thị trờng tự do.
Bên cạnh đó công cụ này có một số nhợc điểm là đòi hỏi quốc gia đó
phải có thị trờng chứng khoán phát triển và chỉ có thể áp dụng trong điều
kiện mà hầu hết tiền trong lu thông đều nằm ở tài khoản của ngân hàng.
1.1.3.2. Chính sách chiết khấu.
Là công cụ của NHTW trong việc thi hành chính sách tiền tệ bằng
cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh (NHKD). Khi
NHTW cho vay các NHKD làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân
hàng, từ đó tăng thêm lợng tiền cung øng.
9
Th«ng qua l·i st chiÕt khÊu, NHTW cã thĨ khun khích giảm
hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng
thời giảm hoặc tăng mức cung tiền.
Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ NHTW sẽ nâng lÃi suất
chiết khấu tái cấp vốn lên. Khi đó các NHTM sẽ nâng lÃi suất cho vay
hoặc hạn chế bớt các cơ hội cho vay. Và ngợc lại khi thực hiện chính sách
nới lỏng tiền tệ, NHTW hạ thấp lÃi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn.
NHTM trong trờng hợp này đi vay rẻ nên có khuynh hớng giảm bớt lÃi
suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay gia tăng.
Ngoài ra chính sách tái chiết khấu, tái cấp vốn còn là công cụ đắc lực
trong định hớng phát triển kinh tế. Khi cần khuyến khích xuất khẩu,
NHTW sẽ u tiên tái chiết khấu các thơng phiếu xuất khẩu hoặc nâng mức
tái chiết khấu đối với thơng phiếu đó.
Chính sách chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nó giúp cho các NHTM
tránh khỏi những cơn hoảng loạn tài chính. Bởi vì nghiệp vụ của NHTM là
kinh doanh tiỊn tƯ tøc lµ nhËn tiỊn gưi vµ cho vay phần lớn tiền gửi đó. Nhng không phải hoạt động của nó lúc nào cũng thuận lợi. Có những lúc
những ngời gửi tiền trong ngân hàng đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng mất
khả năng thanh toán. Nếu không có NHTW thì NHTM rất dẽ rơi vào tình
trạng phá sản. Khi đó NHTW sẽ lập tức huy động tiền dự trữ bắt buộc đến
ngân hàng nào cần tiền hơn cả. NHTW sử dụng công cụ chiết khấu để
tránh những cơn sụp đổ về tài chính bằng cách thực hiện vai trò ngời vay
cuối cùng, là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền
tệ thành công.
Tuy nhiên khi chấp nhận tái chiết khấu là NHTW đà tăng khối lợng
tiền cung ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên NHTW chỉ có thể chấp
nhận chiết khấu theo ba điều kiện sau:
ã NHTM đó phải còn hạn møc tÝn dơng cha sư dơng hÕt.
10
ã Khối lợng tiền cung ứng bằng con đờng tín dụng tức chỉ tiêu tín dụng
cho nền kinh tế còn đợc phép cung ứng thêm
Bản thân các NHTM đem thơng phiếu để tái chiết khấu phải là những
thơng phiếu tốt.
Ưu điểm của biện pháp này là các khoản cho vay của NHTM đợc
thực hiện trên cơ sở các giấy tờ có giá. Do đó, nó có khả năng thanh toán
cao.
Nhợc điểm của biện pháp này là NHTW bị thụ động trong việc điều
tiết lợng tiền cung ứng. Bơỉ vì NHTW chỉ có thể thay đổi lÃi suất chiết
khấu nhng không thể bắt buộc các NHTM vay chiết khấu ở NHTW.
1.1.3.3. Dự trữ bắt buộc.
Ngân hàng TW đợc giao quyền bắt buộc các NHTM phải kí gửi tại
NHTW một phần trong tổng số tiền gửi mà NHTM nhận từ dân c và các
thành phần kinh tế theo tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ phần trăm mà NHTW
qui định nh trên gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc. NHTW sử dụng dự trữ bắt
buộc tác động đến lợng tiền cung ứng trên hai phơng diện.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tạo tiền của NHTM.
Theo thuyết tao tiền, từ lợng tiền ban đầu NHTM có thể tạo ra lợng tiền
lớn gấp nhiều lần.
Ta có công thức:
Tiền gửi mới đợc tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu*(1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc)
(1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc) : là hệ số nhân tiền tệ.
Với các giả thiết:
ã Các NHTM không có tiền dù tr÷ d thõa so víi tØ lƯ dù tr÷ bắt buộc mà
NHTW yêu cầu.
ã Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều đợc giữ lại trong hệ thống
ngân hàng.
11
ã Vậy việc tăng hoặc giảm lợng dự trữ bắt buộc có ảnh hởng rất lớn đến
lợng tiền đợc tạo ra. Ti lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lÃi suất cho vay của
hệ thống NHTM. Mỗi NHTM phải mở tài khoản tiền dự trữ bắt buộc ở
NHTW và không đợc hởng lÃi, trong khi đó NHTM vẫn phải trả lÃi cho
khoản tiền đó. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên đòi hỏi NHTM phải tăng lÃi
suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả năng cho
vay của NHTM giảm xuống và theo đó lợng tiền cung ứng cũng giảm
xuống. Ngợc lại khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, các NHTM có cơ hội giảm
lÃi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả
năng cho vay của NHTM vì thế lợng tiền cung ứng tăng.
Mục đích thực hiện dự trữ bắt buộc nhằm:
ã Giới hạn khả năng thơng mại của ngân hàng trung gian, tránh đợc việc
ngân hàng này quá ham lợi nhuận mà cho vay quá mức có thể phơng hại
đến quyền lợi ngời gửi tiền tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách
hàng.
ã Duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng trung gian trong những trờng hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh đợc
tình trạng khủng hoảng.
ã Việc tập chung dự trù của ngân hàng trung gian ở NHTW còn là một
phơng tiện để NHTW có thêm quyền lực để điều khiển hệ thống ngân
hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM với NHTW.
Lợng dự trữ bắt buộc mà NHTW qui định đối với NHTM có ảnh hởng rất lớn đến lợi nhuận mà NHTM thu đợc. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc
tăng, khả năng cho vay của NHTM giảm nh vậy lợi nhuận thu đợc sẽ
giảm. Ngợc lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, lợng tiền NHTM có khả năng
cho vay lớn, lợi nhuận sẽ tăng, vì thế khi quyết định thay đổi tỉ lệ dự trữ
bắt buộc NHTW đòi hỏi phải nghiên cứu một cách kỹ lỡng để NHTW
không bị lỗ và cộng tác với NHTM, trong việc thực thi chính sách tiền tệ.
NHTW có thể trả lÃi cho mức dự trữ thặng d nào đó của NHTM, kèm theo
một chính sách lÃi suất thích hợp. Thêm vào đó NHTW cã thĨ vËn dơng
12
mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn bằng cách phân biệt mức
dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi,
NHTW có thể qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao
hơn tỉ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn.
Điểm lợi chính của việc sử dụng dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động
tới tất cả các ngân hàng nh nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung
ứng tiền tệ. Nhng hạn chế của nó là sự thay đổi nhỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ
tạo ra một sự thay đổi lớn của lợng tiền cung ứng và nó có thể tạo ra một
cú sốc với nỊn kinh tÕ.
Khi bÞ “ lì tay “ trong viƯc qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì NHTW
không kịp bổ sung.
Đặc biệt với những nớc có lợng tiền mặt lớn trong lu thông nh ở Việt
Nam thì tỉ lệ dự trữ bắt buộc cha có tác động mạnh đến lợng tiền cung ứng.
Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần phải thực hiên một cách thận
trọng và muốn có hiệu quả phải đi kèm với các biện pháp khác, cần phải
có nhà hoạch định chính sách có khả năng.
CHƯƠNG 2.
Thực trạng của việc sử dụng các công cơ chÝnh
S¸ch tiỊn tƯ cđa NHNN ViƯt nam,trong thËp kû 90
và những năm đầu thế kỷ 21
2.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nớc việt nam
Từ những năm 1976 đến 1985 hệ thống Ngân hàng Việt Nam
(NHVN) đà tập trung vào việc xây dựng một hệ thống ngân hàng XHCN
thống nhất trong cả nớc, củng cố tiền tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng
phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đồng thời hệ thống ngân hàng
Việt Nam đà mở rộng quan hệ với các ngân hàng trong khối XHCN và các
nớc khác.
13
Trong gia đoạn hơn 10 năm thực hiện công cuộc ®ỉi míi ®Êt níc hƯ
thèng NHVN ®· thùc sù chun mình, góp phần nhất định vào việc
chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Bộ
mặt kinh tế Việt Nam cũng có những thay đổi ®¸ng ghi nhËn. Víi sù ra ®êi
cđa hai ph¸p lƯnh ngân hàng, sự chuyển đổi hệ thống ngân hàng đà trả lại
đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ cho từng hệ thống ngân hàng.
Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng , hệ
thống các côn cụ chính sách tiền tệ cũng đợc hình thành và phát triển.
Trong điều kiện thị trờng tiền tệ và thị trờng tài chính cha phát triển,
NHNNVN thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ
trực tiếp: ấn định khung lÃi suất tiền gửi cho vay, ấn định hạn mức tín
dụng, cung ứng tiền mặt pháp định, kết hợp với công cụ gián tiếp: dự trữ
bắt bc, l·i st chiÕt khÊu, nghiƯp vơ thÞ trêng më và từng bớc đổi mới
chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp phù hợp
với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nớc. Các công
cụ chính sach tiền tệ đà phát huy tác dụng góp phần vào thành tựu hoạt
động ngân hàng trong những năm qua. Trong giới hạn của đề án để tập
trung đi sâu vào nghiên cứu nên trong phần này em tập trung vào nghiên
cứu hai công cụ của chính sách tiền tệ: Nghiệp vụ thị trờng mở và công cụ
dự trữ bắt buộc. Trên thực tế, để đạt đợc những mục tiêu của chính sach
tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ đà đợc NHNN VN sử dụng nh sau.
2.1.1 Nghiệp vụ thị trờng mở.
Đối với các nớc có nền kinh tế phát triển lâu đời thì công cụ thị trờng
mở đợc xem nh là một trong những công cụ linh hoạt nhất và lợi hại nhất,
song ở Việt Nam lại mới đợc vận hành còn ở mức hết sức mới mẻ và sơ
khai.
Trên thực tế, để có thể sử dụng linh hoạt công cụ thị trờng mở điều
cần thiết đặt ra là phải có một thị trờng giấy tờ có giá trị tồn tại và đợc vận
hành trong guồng máy kinh tế. Mặt khác, thị trờng mở đợc xem là bộ phận
hoạt động của thị trờng tiền tệ đà phát triển ở giai đoạn cao.
14
Đến tháng 7 năm 1993 thị trờng nội tệ liên ngân hàng đà đợc đa vào
hoạt động. Song thị trờng này mới mua, bán bằng lÃi suất chứ cha sử dụng
nghiệp vụ thị trờng mở. Bên cạnh đó, các bộ phận quan trọng cấu thành
thị trờng vốn nh thị trờng hối đoái, thị trờng chứng khoán thì mới ở dạng
manh nha buổi ban đầu thiết lập.
Tình hình hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc NHNN mới chỉ hoạt
động một chiều, kể cả sau đó NHTM và công chúng chuyển nhợng cho
nhau thì cũng không thể vì thế mà làm thay đổi cơ số tiền tệ trong lu
thông. Trên thực tế, cũng có trờng hợp một NHTM mang số trái phiếu
đang nắm giữ đến thế chấp vào Ngân hàng Nhà nớc xin vay chiết khấu nhng đó chỉ là hoạt động cá biệt quan hệ tay đôi ngẫu nhiên để giải quyết
tình huống đột xuất chứ không phải là một nghiệp vụ chủ động điều chỉnh
cơ số tiền tệ trong lu thông nh chính sách thị trờng mở các nớc đang áp
dụng.
Nh vậy, do thị trờng chứng khoán ở nớc ta còn sơ khai nên nghiệp vụ thị
trờng mở cha phát triển mạnh .
Tuy nhiên sau một quá trình nỗ lực chuẩn bị ngày 12/7/2000 nghiệp vụ
thị trờng mở do Ngân hàng Nhà nớc chủ trì đà mở phiên giao dịch đầu tiên
đánh dấu một bớc phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ
của NHTW. Trong thời gian qua, việc điều hành đà diễn ra theo đúng quy
định và luôn bám sát tình hình thực tế, diễn biến của thị trờng tiền tệ. Từ đó,
đa ra những quyết định về hình thức, khối lợng và thời gian giao dịch. Nghiệp
vụ thị trờng mở đà hoạt động nhịp nhàng và đạt đợc những mục tiêu đà đề ra.
Ngân hàng Nhà nớc bớc đầu đà sử dụng thành công một công cụ mới để điều
hành chính sách tiền tệ.
Sau hơn một năm hoạt động, tính đến cuối năm 2001, thị trờng mở đÃ
có 21 thành viên trong đó có 4 Ngân hàng Thơng mại Quốc doanh, 10 Ngân
hàng Thơng mại cổ phần, 4 chi nhánh Ngân hàng ở nớc ngoài, 1 Ngân hàng
liên doanh, quỹ tín dụng Trung ơng và 1 Công ty Tài chính. Số thành viên
tham gia cha đông bởi vì họ còn thăm dò hoạt động của thị trờng còn mới mẻ
15
này. Mặt khác, hàng hoá giao dịch trên thị trờng chỉ có tín phiếu kho bạc và
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc mà những loại hàng hoá này lại do một số ít
Ngân hàng nắm giữ. Trong số 21 thành viên này, chỉ có 4 Ngân hàng Thơng
mại Quốc doanh thờng xuyên giao dịch, do các Ngân hàng này nắm hơn 70%
lợng hàng hoá chính thức đủ điều kiện để giao dịch trên thị trờng mở.
Trong các tháng cuối năm 2000, bình quân 10 ngày Ngân hàng Nhà nớc
tổ chức một phiên giao dịch thị trờng mở. Trong thời gian này Ngân hàng
Nhà nớc áp dụng phơng thức đấu thầu lÃi suất, chỉ duy nhất 4 phiên đầu tiên
áp dụng phơng thức đấu thầu khối lợng. LÃi suất đăng ký dao động trong
khoảng 4,00%/năm đến 5,58%/năm. Nhìn chung lÃi suất này đà phần nào
phản ánh đợc diến biến tình hình lÃi suất của thị trờng. Bởi vì trong những
phơng thức đấu thầu lÃi suất Ngân hàng Nhà nớc đà không quy định lÃi suất
chỉ đạo xét thầu.
Trong tháng 8/2000, do lợng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng có
d thừa nên Ngân hàng Nhà nớc đà tiến hành bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nớc nhằm thu hút số vốn này, đồng thời có thể tạo thêm lợng hàng hoá cho thị
trờng mở. Trong ba phiên liên tiếp của tháng 8/2000, Ngân hàng Nhà nớc đÃ
bán hẳn 550 tỷ đồng đạt kết quả 100% so với dự kiến. Từ tháng 9 đến cuối
tháng 12 năm 2000 do có sự hạn chế của Ngân hàng Nhà nớc ở cửa số chiết
khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành nghiệp vụ thị trờng mở
mới ra đời) và nhu cầu tín dụng đồng Việt Nam tăng nhanh (do vay ngoại tệ
chịu rủi ro lớn tỉ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng
chậm có sự chuyển dịch cơ cấu huy động giữa ngoại tệ và nội tệ do lÃi suất
huy động ngoại tệ tăng, dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong các tổ chức
tài chính, Ngân hàng Nhà nớc đà sử dụng giao dịch đảo chiều, mua giấy tờ có
giá trị trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỉ đồng.
Từ đầu năm 2001, Ban điều hành nghiệp vụ thị trờng mở quyết định tiến
hành giao dịch thờng xuyên hàng tuần vào thứ 4 nhằm làm cho các thành
viên kịp thời theo dõi, nắm bắt kịp thời các thông tin vỊ thÞ trêng.
16
Từ 10/1/2001 đến 15/2/2001, lợng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do
nhu cầu tiền mặt tăng, Ngân hàng Nhà nớc tiếp tục mua vào giấy tờ có giá
chủ yếu là mua có kì hạn do tính đến yếu tố lợng vốn khả dụng có thể tăng
lên sau tết. Từ ngày 21/2 đến ngày 14/3/2001, lợng vốn khả dụng có biểu
hiện d thừa, để rút bớt phơng tiện thanh toán khỏi hệ thống tổ chức tín dụng,
Ngân hàng Nhà nớc thực hiện bán hẳn lợng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỉ
đồng. Từ 21/3 đến 30/5/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, Ngân hàng Nhà
nớc thực hiện mua có kì hạn giấy tờ có giá trị với tổng giá trị 745 tỉ đồng.
Duy nhất có một phiên giao dịch 11/4/2001, do các tổ chức tín dụng bỏ thầu
không hợp lệ nên không có tổ chức nào trúng thầu mặc dù vẫn có nhu cầu về
vốn khả dụng. Hai phiên giao dịch tiếp theo Ngân hàng Nhà nớc thực hiện
giao dịch mua hẳn với tổng khối lợng trúng thầu đạt 60 tỉ đồng. Từ 20/6 đến
31/10/2001 Ngân hàng Nhà nớc lại tiến hành mua có kì hạn tín phiếu (kì hạn
15 - 30 ngày), tổng giá trị đạt 2308,81 tỉ đồng. Trong tháng 11/2001, do lợng
vốn khả dơng cđa c¸c tỉ chøc tÝn dơng vÉn ë møc cao nên 4 phiên giao dịch
liên tiếp không có thành viên nào tham gia giao dịch. Đầu tháng 12/2001 lần
đầu tiên kể từ khi khai trơng Ngân hàng Nhà nớc đà tiến hành giao dịch bán
với kỳ hạn 1 tháng, hai phiên đầu tháng khối lợng chào bán là 250 tỉ đồng
nhng khối lợng trúng thầu chỉ đạt 150 tỉ đồng.
Trong năm 2002, đến ngày 5/9 Ngân hàng Nhà nớc đà tổ chức 52 phiên
giao dịch. Tháng 5/2002 Ban điều hành nghiệp vụ thị trờng mở Ngân hàng
Nhà nớc quyết định tổ chức thờng xuyên hai phiên giao dịch mỗi tuần vào
thứ 3 và thứ 5. Trong 52 phiên giao dịch đó có 9 phiên thực hiện bán hẳn với
tổng khối lợng trúng thầu là 900 tỉ đồng trong tổng số 2500 tỉ dự kiến bán.
Còn 43 phiên giao dịch mua có 20 phiên không có tổ chức tín dụng nào trúng
thầu, đặc biệt sau khoảng thời gian từ 20/6 đến 15/8 tổng khối lợng trúng
thầu của các phiên giao dịch mua có kì hạn từ đầu năm đến 5/9/2002 là
5771.53 tỉ đồng. Nh vậy, kể từ khi khai trơng đến 5/9/2002 Ngân hàng Nhà
nớc đà tổ chức đợc 118 phiên giao dịch thị trờng mở với tổng khối lợng trúng
thầu đạt 7671,53 tỉ đồng. LÃi suất hình thành trên thị trờng mở đà bám sát lÃi
suất của các tổ chức tín dụng. Đặc biệt với việc cung ứng vốn th«ng qua
17
nghiệp vụ thị trờng mở đà góp phần thực hiện chủ trơng kích cầu của Chính
phủ.
Có thể nói, Ngân hàng Nhà nớc đà thành công trong việc đa một công
cụ mới vào chính sách điều hành tiền tệ. Nó góp phần quan trọng vào việc
điều hành vốn khả dụng trong nền kinh tế và còn là van an toàn để đảm
bảo khả năng thanh toán trong trờng hợp thị trờng có đột biết khiến các tổ
chức tín dụng lâm vào tình trạng thiếu vốn khả dụng.
2.1.2 Dự trữ bắt buộc.
ở Việt Nam, việc thực hiện dự trữ bắt buộc là một trong những điều
kiện cần thiết để tổ chức tín dụng đợc Ngân hàng Nhà nớc xem xét là đối tợng để Ngân hàng Nhà nớc tái cấp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nớc. Mà còn có tác dụng nâng cao an toàn khả năng chi trả của Ngân hàng và
các tổ chức tín dụng có hoạt ®éng nhËn tiỊn gưi cđa d©n c. Nh vËy, xÐt về mặt
nguyên tắc lâu dài, dự trữ bắt buộc vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của Ngân
hàng và các tổ chức tín dụng.
Công cụ dự trữ bắt buộc lần đầu tiên đợc pháp luật quy định trong pháp
lệnh về Ngân hàng Nhà nớc tháng 5/1990, trong đó Ngân hàng Nhà nớc quy
định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất 35% trên toàn bé
tiỊn gưi cđa c¸c tỉ chøc tÝn dơng. Song xÐt hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của
các Ngân hàng Thơng mại còn nhỏ bé và mức lạm phát đà đợc kiểm soát
đáng kể nên Ngân hàng Nhà nớc Viêt Nam quy định dự trữ bắt buộc ở trên dới 10% đối với từng loại tiền gửi vào các năm 1994.
Trớc sự phát triển của các tổ chức tín dụng và diễn biến của nền kinh tế
tăng trởng liên tục, lạm phát có xu hớng giảm dần, năm 1995, Ngân hàng
Nhà nớc Việt Nam đà thay đổi cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc cho phù hợp cụ thể
là:
Thống nhất một tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10% cho tiền gửi không kỳ hạn
thay cho 13% và 8% đối với tiền gửi có kỳ hạn nh trớc đây.
Dự trữ bắt buộc ®èi víi tiỊn gưi (tÝnh theo %)
18
Loại tiền gửi
Tỉ lệ dự trữ mức tối thiểu
1/3/1994
1/11/1994
1/10/1995
Tiền gửi không kỳ hạn
13
13
10
Tiết kiệm không kỳ hạn
13
13
10
Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng
7
8
10
Tiền gửi kỳ hạn 6 tháng
7
8
10
Kì phiếu có mục đích, tín phiếu
7
8
10
(Nguồn: vụ nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam)
Tuy nhiên tính đến năm 1995, công cụ dự trữ bắt buộc vẫn còn kém
hiệu quả do phơng thức thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt để thực hiện các
giao dịch thanh toán, giao dịch của nớc ta, nhiều Ngân hàng có mức dự trữ
rất cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Theo tính toán tỉ lệ dự trữ
của Ngân hàng Thơng mại quốc doanh khoảng 30%. Trong khi đó theo quy
định các Ngân hàng Thơng mại phải giữ mức dự trữ bắt buộc tối thiểu vào tài
khoản tại NHTW song trên thực tế các NHTM đà không thực hiện nghiêm
túc: theo điều tra chỉ có Ngân hàng Ngoại thơng đảm bảo đợc mức dự trữ bắt
buộc còn Ngân hàng Công thơng, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Đầu
t phát triển chỉ thực hiện ở mức 6-7%. Còn các Ngân hàng Thơng mại Quốc
doanh có tỉ lệ dự trữ bắt buộc 1%. Mặt khác chế độ xử phạt với các Ngân
hàng Thơng mại vi phạm không đợc nghiêm túc nên trong chừng mực nhất
định đà giảm hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ 1996 dến 1997 Ngân hàng Nhà nớc tiếp tục thực hiện cơ chế dự trữ
bắt buộc ban hành tháng 10/1995 nhằm tăng thêm hiệu lực của công cụ này
để kiểm soát sự tăng hệ số và tổng phơng tiện thanh toán của nền kinh tế. Tỉ
lệ dự trữ bắt buộc đợc áp dụng cho các tổ chức tín dụng trừ Quỹ tín dụng
nhân dân, Ngân hàng cổ phần Nông thôn, Hợp tác xà tín dụng. Tiền gửi dự
trữ bắt buộc đợc hợp nhất với tiền gửi thanh toán vào một tài khoản không kỳ
hạn tại Ngân hàng Nhà nớc. Tiền gửi dự trữ bắt buộc vợt mức đợc hởng lÃi
suất 0,1%/tháng, đồng thời các tổ chức tín dụng thiếu dự trữ bắt buộc bị phạt
theo lÃi suất phạt quy định. Những quy định này đà khuyến khích các Ngân
19
hàng Thơng mại chủ động trong hoạt động kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt
buộc phù hợp mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đó.
Từ năm 1997 đến nay, do những yêu cầu mới về chính sách tiền tệ cũng
nh những yêu cầu mới của sự phát triển hệ thống tài chính tín dụng trong
điều kiện nền kinh tế sau một thơì gian tăng trởng mạnh nay đà có dấu hiệu
chững lại do ảnh hởng của nền kinh tế khu vực. Ngày 12/12/1997 Quốc hội
thông qua Luật Ngân hàng Nhà nớc và các Tổ chức tín dụng, đây là bớc
ngoặt quan trọng, nó tạo ra hành lang pháp lý hoàn thiện hơn đáp ứng những
đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trờng.
Quy chế dự trữ bắt buộc lần này đợc quy định cụ thể hơn, linh hoạt hơn
thể hiện ở việc quyết định tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nớc
chung cho các tổ chức tín dụng và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dới
12 tháng là 10%. Đối với Ngân hàng Nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân
tạm thời cha phải thực hiện dự trữ bắt buộc.
Ngân hàng Nhà nớc không trả lÃi suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, đối
với khoản tiền dự trữ vợt quá đợc hởng lÃi suất 0,2%/tháng đối với VNĐ và
hởng lÃi 4,86% /1 năm đối với ngoại tệ USD. Đồng thời, những tổ chức thiếu
dự trữ bắt buộc thì bị phạt ở mức 200% lÃi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân
hàng Nhà nớc (đối với dự trữ bằng VNĐ ) 200% trần lÃi suất cho vay bằng
USD do Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc quy định trong từng thời kỳ (đối với
dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ).
Mặc dù năm1998 là một năm đầy khó khăn đối với Việt Nam. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đà nhanh chóng lan ra và ảnh hởng
đến diện mạo của nền kinh tế, thiên tai liên tiếp xảy ra đe doạ nền sản xuất và
cuộc sống của hơn 76 triệu ngời. Song có thể thấy Ngân hàng Nhà nớc đà cố
gắng bằng mọi biện pháp đồng bộ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trên
cơ sở thực hiện đúng tinh thần của Luật Ngân hàng Nhà nớc và Luật các tổ
chức tín dụng mới ban hành.
Kết quả là cơ cấu tổng phơng tiện thanh toán đà cã sù thay ®ỉi theo híng tÝch cùc. TØ träng tiền mặt tính đến 31/12/1998 là 26,6% giảm mạnh so
20
với tỉ trọng 30,8% năm 1997. Tỉ trọng tiền gửi tăng cao trong đó tỉ trọng tiền
gửi có kỳ hạn đang ở mức 41% năm 1997 đà tăng lên ở mức 50,6% năm
1998.
Nh vậy, từ đầu thập kỷ 90 cho đến năm 1998 Ngân hàng Nhà Nớc đều
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát
ở mức phù hợp với điều kiện tăng trởng kinh tế và trên thực tế chúng ta đà đạt
đợc điều ấy. Tuy nhiên bớc vào năm 1999, tốc độ tăng trởng kinh tế chậm
lại, sức mua trên thị trờng giảm mạnh. Trong tháng 8 giá cả liên tiếp xuống.
Để tháo gỡ khó khăn này, kích thích tăng trởng kinh tế một trong những biện
pháp quan trọng là kích cầu mà trớc hết là nới lỏng chính sách tiền tệ.
Ngày 10/2/1999 Thống đốc Ngân hàng Nhà Nớc đà ban hành quy chế
dự trữ bắt buộc kèm theo quyết định số 51/1999/QĐ - NHNN1 và có hiệu lực
thi hành từ kì duy trì dự trữ bắt buộc tháng 3/1999. Về cơ bản nội dung và kĩ
thuật tính toán vẫn đợc thực hiện nh quy chế dự trữ bắt buộc ban hành kèm
theo quyết định 396/1998/QĐ - NHNN1 ngày 1/12/1998 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà Nớc và bổ sung một số điều cho phù hợp với Luật Ngân hàng
Nhà Nớc nh sau:
ã Đối tợng áp dụng mở rộng thêm Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng
HT, Hợp tác xà tín dụng.
ã Quy định tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại Ngân hàng Nhà Nớc để thực
hiện chính sách tiền tệ Quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền dự trữ
bắt buộc gồm 70% gửi tại Ngân hàng Nhà Nớc và 30% tiền mặt ngân
phiếu có thời hạn thanh toán.
ã Quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại hình tổ chức tín dụng, từng
loại tiền gửi.
ã Quy định tỉ lệ 0% đối với trờng hợp miễn và cha phải dự trữ bắt buộc trớc
đây.
ã Việc trả lại tiền dự trữ bắt buộc do Chính phủ quy định.
21
Trong năm 1999 để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu,
tạo đà phát triển kinh tế, Ngân hàng Nhà Nớc đà 2 lần điều chỉnh giảm tỉ lệ
dự trữ bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng trong tổng số d tiền gửi có kì
hạn dới 12 tháng đối với Ngân hàng Thơng Mại quốc doanh, Ngân hàng Thơng Mại cổ phần đô thị, chi nhánh Ngân hàng nớc ngoài, Ngân hàng liên
doanh và công ty TC, từ 5% xuống 1% đối với các Ngân hàng Thơng Mại cổ
phần nông thôn, Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng trung ơng, Quỹ tín dụng
khu vực.
Việc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng đà góp
phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt động, tăng khả
năng sinh lời của Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên những khó khăn về cơ cấu
kinh tế và thời gian điều chỉnh còn ngắn nên tác động tích cực của công cụ
này cha đợc thể hiện rõ.
Rõ ràng, các biện pháp của Ngân hàng Trung ơng đa ra trên cơ sở phân
tích thực trạng kinh tế phù hợp với nhu cầu thực tiễn và xu hớng chung của
khu vực (Thái Lan, Malaixia, Singapone, Indonexia, Philipin và Nhật Bản
đều trong thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng.)
Năm 2000, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đà đợc khắc phục và
nền kinh tÕ ViƯt Nam cịng nh c¸c níc cã dÊu hiệu phục hồi thì chính sách
dự trữ bắt buộc cũng có một số thay đổi.
Trong năm 2000, việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các Tổ chức tín
dụng tiếp tục căn cứ theo quy chế dự trữ bắt buộc ban hành theo quyết định
số 51/1999/QD NHNN1 ngày 10/2/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
Nớc.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VNĐ tiếp tục áp dụng nh năm
1999 là 5% đối với các Ngân hàng Thơng Mại quốc doanh, Ngân hàng Thơng Mại cổ phần đô thị, chi nhánh Ngân hàng nớc ngoài, Ngân hàng liên
doanh, công ty tài chính, 1% đối với Ngân hàng Thơng Mại cổ phần nông
thôn, Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng Trung Ương, Quỹ tín dụng khu vực,
22
0% đối với quỹ tín dụng cơ sở, Hợp tác xà tín dụng, Ngân hàng phục vụ ngời
nghèo.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi bằng ngoại tệ, để tạo tín hiệu
hạn chế các Tổ chức tín dụng huy động tiền gửi bằng ngoại tệ gửi ra nớc
ngoài. Ngày 10/10/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà Nớc Việt Nam điều
chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kì hạn và có
kì hạn của Ngân hàng Thơng Mại quốc doanh, Ngân hàng Thơng Mại cổ
phần đô thị, Ngân hàng Thơng Mại cổ phần nông thôn, Ngân hàng hợp tác,
chi nhánh Ngân hàng nớc ngoài, Ngân hàng liên doanh, Công ty Tài chính
Quỹ tín dụng Trung ơng và Quỹ tín dụng đô thị từ 5% - 8% kể từ kì duy trì
dự trữ bắt buộc 11/2000. Sau đó tiếp tục nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
bằng ngoại tệ không kì hạn và có kì hạn dới 12 tháng lên 12% áp dụng từ kì
duy trì dự trữ bắt buộc 12/2000 việc Ngân hàng Nhà Nớc điều chỉnh tỉ lệ dự
trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có tác động nhất định đến việc hạn
chế dòng tiền chuyển đổi từ VNĐ sang USD góp phần thúc đẩy huy động
tiền gửi bằng VNĐ của các Tổ chức tín dụng.
Vào những tháng cuối năm 2001, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trên
đà tăng trởng và theo lệnh dự trữ bắt buộc vẫn đợc duy trì nh cuối năm 2000.
Điều đó cho thấy Chính sách tiền tệ phần nào ổn định từ sau cuộc khủng
hoảng.
2.2. Những kết quả đạt đợc.
2.2.1 Đối với hoạt động thị trờng mở
Hoạt động thị trờng mở năm qua đà đạt những kết qủa sau:
ã Một là: Góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lí của Ngân hàng Nhà
Nớc trong nền kinh tÕ tiỊn tƯ phï hỵp víi xu híng héi nhËp và toàn cầu
hoá.
ã Hai là: Nghiệp vụ tiền tệ mở tơng đối linh hoạt giải quyết đợc nhu cầu
vốn khả dụng cũng nh giải quyết đợc vấn đề d thừa vèn trong mét sè thêi
23
kì. Góp phần đạt đợc mục tiêu của các Ngân hàng Nhà Nớc đặt ra ổn định
thị trờng tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
ã Thứ 3: Bằng cách bơm tiền ra lu thông, nghiệp vụ thị trờng mở đà góp
phần thúc đẩy sản xuất nâng cao sức mua của xà hội và thực hiện đúng
chủ trơng kích cầu cđa ChÝnh phđ trong ®iỊu kiƯn nỊn kinh tÕ cã dấu hiệu
giảm phát.
ã Thứ 4: Việc hoàn thiện các văn bản pháp lí cho hoạt động nghiệp vụ thị
trờng mở phù hợp với thực tiễn đà góp phần cho hoạt động thị trờng mở
thông suốt. Việc lắp đặt trang thiết bị thiết kế các chơng trình phần mềm
phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ thị trờng mở đà đợc thực hiện khẩn trơng, tạo điều kiện cho các giao dịch diễn ra trôi chảy, đảm bảo đúng quy
chế, quy trình an toàn.
ã Thứ 5: Công tác điều hành, tổ chức nghiệp vụ thị trờng mở luôn thực hiện
đúng quy định, an toàn và dần bám sát đợc tình hình, diễn biến thị trờng
về vốn khả dụng và lÃi suất.
ã Thứ 6: Mặc dù là công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới và đợc vận
hành lần đầu tiên ở Việt Nam nhng nghiệp vụ thị trờng mở đà thu hút đợc
đông đảo ngời tham gia, thông qua việc tham gia thị trờng này, các thành
viên đà sử dụng nguồn vốn của mình một cách linh hoạt và hiệu quả hơn.
ã Thứ 7: Doanh số hoạt động của thị trờng mở không ngừng tăng lên, điều
này thể hiện tính u viƯt cđa thÞ trêng më trong viƯc sư dơng vèn của các
Tổ chức tín dụng.
ã Thứ 8 : Trong thời gian qua các thành viên tham gia và trúng thầu chủ
yếu là các Ngân hàng Thơng Mại quốc doanh nhng lÃi suất tại các phiên
giao dịch phần nào phản ánh đợc lÃi suất trên thị trờng.
ã Chín : Công tác thông tin, tuyên truyền tập luyện và nghiệp vụ thị trờng
mở Ngân hàng Nhà Nớc về phổ biến nghiệp vụ thị trờng mở trên các phơng tiện thông tin đại chúng bớc đầu đà có những chuyển động tốt, giúp
24
các Tổ chức tín dụng hiểu thêm về lợi ích và ngày càng quan tâm tới hoạt
động của nghiệp vụ thị trờng mở.
2.2.2 Đối với dự trữ bắt buộc
Sau hơn 10 năm áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc ( 1995 đến nay) vào
quá trình thực thi chính sách tiền tệ, chúng ta đà thu đợc những thành tựu
đáng kể. Bằng việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc Ngân hàng Nhà Nớc đÃ
chủ động trong việc thực thi chính sách tiền tệ của mình. Đặc biệt khi Ngân
hàng Nhà Nớc sử dụng công cụ này có tính cỡng chế, hành chính cao. Do đó
chính sách mà Ngân hàng Nhà Nớc đa ra đợc thực hiện với tinh thần cao góp
phần không nhỏ đa chính sách tiền tệ đến với thành công. Chính điều đó đÃ
duy trì đợc sự tăng trởng bình quân 8,6%/năm. Mức lạm phát ở một con số,
trong khi chúng ta bị ảnh hởng bởi cuộc khủng hoảng Châu á đặc biệt là
những bạn hàng xóm của chúng ta lao đao vì khủng hoảng: Thái Lan,
Indonexia, Malaixia....
Việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc đà đem đến cho hệ thống Ngân
hàng Nhà Nớc Việt Nam một sự an toàn hơn trong hoạt động. Chính điều đó
đà tạo lòng tin cho nhân dân vào hệ thống Ngân hàng và từ đó nguồn tiền
nhàn rỗi đợc thu hót nhiỊu h¬n cho nỊn kinh tÕ.
Sau h¬n 10 năm Ngân hàng Nhà Nớc Việt Nam sử dụng công cụ dự trữ
bắt buộc đà thu đợc những kết quả tốt. Tuy nhiên nó còn một số hạn chế.
2.3. Những khó khăn và tồn tại.
2.3.1. Thị trờng mở
Hoạt động nghiệp vụ thị trờng mở nên một số Tổ chức tín dụng vẫn còn
bỡ ngỡ khi tham gia. Nghiệp vụ thị trêng më ra ®êi trong ®iỊu kiƯn nỊn kinh
tÕ ®ang ở trình độ phát triển thấp, cha ổn định. Thị trờng tài chính và thị trờng tiền tệ cha phát triển, nền kinh tế thế giới lại không ngừng biến động,
môi trờng hoạt động của các Tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro.
Hoạt động Thơng Mại còn cha sôi động, mỗi phiên giao dịch chỉ có 1
đến 4 thành viên tham gia, chiếm tỉ lệ tơng đối thấp so với tổng số các thành
25