Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tỷ giá hối đoái và một số vấn đề về chính sách tỷ giá hối đoái tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.02 KB, 35 trang )

Cơ chế tỷ giá hối đoái từ lâu đã được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất
của việc điều hành chính sách tiền tệ. Đối với các quốc gia đang phát triển, chính sách tỷ
giá chính là biến số trọng yếu để ổn định tình hình kinh tế bởi tác động của nó đã vượt ra
ngoài khuôn khổ thương mại và đầu tư thuần túy, lan tỏa đến cả hệ thống tiền tệ, đến toàn
bộ nền kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính. Hơn thế nữa, tỷ giá hối đoái cũng góp phần là
nguyên nhân các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu. Mục tiêu căn bản của
chính sách tỷ giá là hạn chế những tiêu cực từ bên ngoài và hỗ trợ cho các hoạt động
thương mại nhằm tối thiểu hóa và phòng ngừa các rủi ro cho nền kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập và chịu tác động đa chiều hiện nay, đặc biệt khi phải đối
mặt với các khủng hoảng tài chính – tiền tệ, chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh của Việt
Nam dù đã có nhiều thành tựu trong quá khứ nhưng lại đang tỏ ra ngày càng thiếu phù
hợp trong tương lai khi nền kinh tế có độ mở cao. Ngoài ra, các luồng vốn chu chuyển
ngày càng biến động mạnh mẽ, sự phát triển đa dạng của các tổ chức tài chính và công cụ
tài chính khiến cho các chính sách quản lý tỷ giá trở nên phức tạp và khó kiểm soát. Một
cơ chế tỷ giá được điều chỉnh hợp lý, linh hoạt là yếu tố hết sức quan trọng trong thời
điểm hiện nay, nhằm giúp kiểm soát lạm phát, kiềm chế tình trạng đô la hóa, duy trì khả
năng cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã quyết định nghiên cứu đề tài “Tỷ giá hối đoái và một
số vấn đề về chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam” với mục tiêu đánh giá thực nội
dung, thực trạng và giải pháp cho chính sách tỷ giá hiện nay

1


CHƯƠNG I:

TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ HÌNH THÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI


1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái
1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái:
-Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai
đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi là tỷ giá hối đoái của đồng tiền này
tính bằng giá của một đồng tiền khác.
-Khái quát: Thông thường tỷ giá được biểu hiện thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị
đồng tiền nước này bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia. Ví dụ:Tỷ giá hối đoái giữa
đồng Việt Nam và dollar Mỹ là 20870 VND/USD hay giữa dollar Mỹ và EUR là 1. 3191
USD/EUR, giữa đồng yên Nhật và dollar Mỹ là 81, 09JPY/USD. Trong đó đồng tiền để ở
số lượng một đơn vị trong các tỷ lệ như những ví dụ trên gọi là “đồng tiền định danh” hay
“đồng tiền cơ sở”, vì thế khi cần thể hiện một cách nghiêm ngặt và chính xác người ta
thường nói “ Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam và dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối
định danh là 20870 đồng Việt Nam bằng 1 dollar Mỹ
1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái:
a) Tỷ giá danh nghĩa song phương:
-Tỷ giá danh nghĩa song phương là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông
qua một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ
giữa chúng. Khi tỷ giá tăng, đồng tiền yết giá sẽ đổi được nhiều đồng tiền định giá hơn,
nên gọi là lên giá, đồng tiền định giá trở nên đổi được ít đồng tiền yết giá hơn, nên gọi là
2


giảm giá. Khi tỷ giá giảm, đồng tiền yết giá trở nên đổi được ít đồng tiền định giá hơn,
nên gọi là giảm giá, đồng tiền định giá sẽ đổi được nhiều đồng tiền yết giá hơn nên gọi là
lên giá.
b) Tỷ giá danh nghĩa đa phương:
-Vì mỗi đồng tiền đều có tỷ giá với đồng tiền khác, nên một đồng tiền có thể lên
giá với đồng tiền này, nhưng lại giảm giá với đồng tiền khác. Để xác định một đồng tiền
là lên giá hay giảm giá với tất cả các đồng tiền còn lại ta dùng phương pháp tỷ giá danh

nghĩa trung bình(NEER)
Thực chất NEER không phải là tỷ giá mà chỉ là chỉ số. Nếu NEER tăng(NEER>1
tương đương với CPI>1) thì VND được coi là giảm giá so với các đồng còn lại , ngược
lại nếu NEER giảm (NEER<1 tương đương với CPI<1) thì VND được coi là lên giá so
với các đồng còn lại.
Vì tỷ giá danh nghĩa chưa đề cập đến tương quan sức mua giữa hai đồng tiền , do
đó đối với mỗi quốc gia khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải đồng
nghĩa với việc tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia này. Để đo
sự thay đổi sức cạnh tranh thương mại quốc tế, người ta sử dụng khái niệm tỷ giá thực.
c) Tỷ giá thực song phương:
-Tỷ giá thực bằng tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa
trong nước và nước ngoài, do đó nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và
ngoại tệ.
Tỷ giá thực tăng làm sức mua đối ngoại của VND giảm nên ta nói rằng VND giảm
giá thực. Như vậy một đồng tiền giảm giá thực khi sức mua đối ngoại của nó giảm từ thời
điểm này sang thời điểm khác. Sức mua đối ngoại là số lượng hàng hóa mua được ở nước
ngoài khi chuyển một đơn vị nội tệ ra ngoại tệ. Đồng tiền giảm giá thực có tác dụng làm
tăng sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia này.
3


Tỷ giá thực giảm làm sức mua đối ngoại của VND tăng nên ta nói rằng VND lên
giá thực. Như vậy một đồng tiền lên giá thực khi sức mua đối ngoại của nó tăng từ thời
điểm này sang thời điểm khác. Đồng tiền lên giá thực có tác dụng làm xói mòn sức cạnh
tranh thương mại quốc tế của quốc gia này.
Tỷ giá thực không có tác dụng duy trì cố định sức cạnh tranh thương mại quốc tế.
d) Tỷ giá thực đa phương (REER)
- REER bằng tỷ giá danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở
trong nước với tất cả các nước còn lại, do đó nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ
với tất cả các đồng tiền còn lại

Về ý nghĩa, REER là tương tự như tỷ giá thực song phương, tuy nhiên REER có ý
nghĩa hơn ở chỗ nó là thước đo tổng hợp vị thế cạnh tranh thương mại của một nước so
với các nước bạn hàng nói chung. Do có ý nghĩa như vậy nên các nước hiện nay đều tính
toán và công bố chỉ tiêu này.
1.2. Xác định tỷ giá hối đoái
a) Xác định tỷ giá hối đoái
Do tiền của một nước được trao đổi với tiền của nước khác trên thị trường ngoại
hối nên cầu về ngoại tệ chính là cung về đồng nội tệ và cung về ngoại tệ là cầu nội tệ. Do
đó khi xác định tỷ giá giữa ngoại tệ và nội tệ ta có thể xem xét hoặc là cầu và cung về
ngoại tệ hoặc là cung và cầu về nội tệ. Để tiện phân tích ta sẽ xem xét cầu và cung về
USD và tỷ giá của USD tính theo số VND.
Cung về USD bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế tạo ra thu nhập về đô la. Nguồn
cung quan trọng về đô la trên thị trường ngoại hối là người nước ngoài hiện tại không có
tiền Việt Nam nhưng muốn mua hàng hoá dịch vụ của Việt Nam. Cầu về USD trên thị
trường bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế. Ngược với cung về đô la các công dân và công
ty Việt Nam có nhu cầu mua hàng nước ngoài sẽ có cung nội tệ để chuyển đổi sang đô la.
4


Khi không có sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái
được xác định bởi sự cân bằng giữa cung và cầu về đô la phát sinh từ các tài khoản vãng
lai và tài khoản vốn của cán cân thanh toán quốc tế, chính là điểm E 0 ở đồ thị trên. Đó
chính là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Khi NHTW can thiệp bằng cách thay đổi dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá ở một
mức nhất định đã được công bố trước, ta có chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Muốn cố định
tỷ giá hối đoái thấp hơn mức cân bằng thị trường (điểm E 1) thì NHTW phải dùng dự trữ
ngoại tệ để bán ra thị trường, điều này làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHTW và tăng cung
ngoại tệ trong nền kinh tế.
b) Cách biểu diễn và niêm yết tỷ giá:
-


Biểu diễn trực tiếp – American term
Ở cách yết giá này thì ngoại tệ đóng vai trò là hàng hóa trong mối quan hệ
với nội tệ. Với cách yết giá này thì hàng hóa (ngoại tệ) được bộc lộ trực tiếp
bằng tiền (nội tệ). Một số lượng cố định ngoại tệ được biểu hiện bằng một
số lượng biến đổi nội tệ
Đồng tiền yết giá là ngoại tệ, đồng tiền định giá là nội tệ

5


Đa số các nước biểu diễn theo phương pháp trực tiếp và đồng USD là đồng
tiền yết giá
-

Biểu diễn gián tiếp – European term
Một số lượng cố định nội tệ được biểu hiện bằng một số lượng biến đổi
ngoại tệ Đồng tiền yết giá là nội tệ, đồng tiền định giá là ngoại tệ England
(GBP), Autraylia (AUD), New zealand (NZD), (IEP), SDR và EUR sử dụng
phương pháp gián tiếp, và USD là đồng tiền định giá Niêm yết tỷ giá trên
thị trường

2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái:
2.1. Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối:
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước khác
mua hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì
cầu đối với đồng tiền nước đó trên thị trường ngoại hối càng lớn. Đường cầu về một loại
tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó về dốc phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá
hối đoái càng cao thì hàng hóa của nước đó càng trở nên đắt hơn đối với những người
nước ngoài và ít hàng hóa xuất khẩu hơn.

2.2. Cung về tiền của thị trường ngoại hối:
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra tại nước B họ phải mua
một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền của
nước A khi ấy bắt đầu bước vào thị trường quốc tế. Đường cung về tiền là một hàm của tỷ
giá hối đoái, dốc lên trên về phía bên phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hóa nước
ngoài càng rẻ và hàng hóa ngoại càng được nhập khẩu nhiều
=>Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường của cung
và cầu. Bất kỳ điều gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có
xu hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất kì điều gì làm giảm cầu về một đồng tiền
hoặc tăng cung của nó trên thị trường ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi của
6


nó giảm xuống (hình minh họa). Ví dụ ta thấy được tỷ giá hối đoái cân bằng L0 của đồng
Việt Nam và đồng USD Mỹ thông qua giao điểm S và D
L USD
Đ

S

L0

D

Q0

Q(đ)

3. Những nhân tố cơ bản tác động đến tỷ giá hối đoái
3.1. Cán cân thương mại:

-Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cán cân thương mại của một
nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế
khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh,
các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất
khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm.
Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán
cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ
giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành
tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác
động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng
dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ
lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá. Đây là
7


yếu tố cực kì quan trọng trong những yếu tố kinh tế tác động đến tỷ giá. Đánh giá chung
có tính chất truyền thống đối với sự biến động của tỷ giá, các nhà kinh tế đều cho rằng
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ quốc gia là những nhân tố cơ bản đứng sau
lưng tăng giá tỷ giá. Tình trạng của cán cân thanh toán tác động đến cung cầu về ngoại
hối do vậy, tác động trực tiếp đến tỷ giá.
3.2. Tỷ giá lạm phát tương đối
-Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua
đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên
thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong
nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều
hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì
tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm
sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng
đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ
giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá,

người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng
đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác
động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ
lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối
đoái tăng.
3.3. Sự vận động của vốn:
-Khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi lãi
suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo
ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và nhiều người dân nước ngoài muốn mua tài sản ấy. Điều này
làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái
của nó.
8


-Đầu tư ra nước ngoài, cũng ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái cư dân trong nước dùng
tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các
doang nghiệp. . . ) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu. . . ). Những nhà đầu tư
này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên
thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một
nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung
ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn
chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng
vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ
giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy
luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao
nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi
trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao
động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng
trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
3.4. Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ

-Tất cả có thể đều có thể làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể
làm gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại
và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày. Đối
với các quốc gia có hệ thống tiền tệ yếu kém thì tăng trưởng dựa trên luồng vốn ngắn hạn,
vốn khống hay còn gọi là vốn ảo, đầu cơ thường mang lại hiệu quả xấu, biến động cho tỷ
giá hối đoái. Do việc đầu cơ tiền tệ được thực hiện thông qua mua bán một khối lượng lớn
các loại tiền nên đầu cơ có xu hướng khiến tỷ giá tăng hoặc giảm mạnh. Cuộc khủng
hoảng đồng PESO hồi tháng 2 năm 2002 khiến chính phủ Argentina điêu đứng là một
minh chứng rõ ràng.
Ngoài ra, một trong những nhân tố quan trọng tác động đến tỷ giá hối đoái đó
là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh
9


ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán
của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu
tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá
ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi
kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì
tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng
như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và
tỷ gía hối đoái sẽ bị giảm nhanh chóng.
Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên với
mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh nhất định.
Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không thể. Các nhân
tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át chế lẫn nhau, đến
tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng.
4. Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế
4.1. Tỷ giá với ngân sách:

Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều có tác động trực tiếp tới thu chi ngân
sách. Việc tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế khiến cho thu chi ngân sách nhà nước
không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát ngân sách nhà nước
cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác cần đến sử dụng ngoại tệ. Việc tạo ra
một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so vơi ngoại tệ để kế hoạch hóa
và ổn định nền kinh tế nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu vào ngõ cụt, không khuyến khích
hoạt động xuất khẩu tại Việt Nam và sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, cán cân thương
mại trong tình trạng nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách nhà nước phải bù lỗ. Việc thả nổi
tỷ giá và phá giá mạnh làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi
nhuận bị giảm do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách nhà
nước cũng bị ảnh hưởng, mặt khác các khoản chi tiêu cho các cơ quan, tổ chức được nhà
10


nước cấp cũng tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó tác
động làm tăng bội chi ngân sách.
Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ còn bị buông lỏng khiến cho lực
lượng ngoại tệ của nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng của cán cân
thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi Ngân sách nhà nước là quỹ ngoại tệ chưa
được tăng cường.
Tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nên nếu không ổn định thì
không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ không
kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành ngân sách nhà nước không
tránh khỏi lúng túng , nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải
quyết
4.2. Tỷ giá với nợ nước ngoài:
-Khả năng trả nợ của một quốc gia có thể xem xét thông qua khả năng tích lũy
ngoại tệ trong dài hạn theo công thức:
NGOẠI TỆ TÍCH LŨY = DÒNG TIỀN CHẢY VÀO – DÒNG TIỀN CHẢY RA
Dòng tiền chảy vào bao gồm phần thuộc sở hữu hoàn toàn của quốc gia và phần đi

vay.
Phần thuộc sở hữu hoàn toàn của quốc gia gồm: Thu từ xuất khẩu hàng hóa dịch
vụ (nguồn thu lớn nhất của Việt Nam); Thu nhập do người lao động đi làm việc ở nước
ngoài chuyển về và thu từ các khoản cho nước ngoài vay hay đầu tư ra nước ngoài; và
Phần bên ngoài cho chúng ta như viện trợ không hoàn lại hay kiều hối (trừ phần được gửi
về để nhờ đầu tư sẽ như khoản vay).
Đây là nguồn thu mà Việt Nam có toàn quyền sử dụng. Phần đi vay hay coi như đi
vay gồm: Vốn vay (thông thường và ưu đãi) từ nước ngoài; và Vốn đầu tư trực tiếp hay
11


gián tiếp từ bên ngoài. Đây là các khoản vay Việt Nam phải trả cả vốn lẫn lời trong tương
lai.
Tương tự, dòng tiền chảy ra cũng có phần phải trả cho bên ngoài và phần cho bên
ngoài vay.
Phần trả cho bên ngoài gồm: Chi cho nhập khẩu hàng hóa dịch vụ (nguồn chi lớn
nhất); Thu nhập do người nước ngoài làm việc ở Việt Nam chuyển về nước họ và phần nợ
phải trả cho bên ngoài; và Phần chúng ta cho bên ngoài tương tự như trên. Nguồn chi này
quốc gia sẽ hoàn toàn mất đi.
Phần cho bên ngoài vay tương tự như phần đi vay hay coi như đi vay nhưng ở
chiều ngược lại và đây là các khoản đầu tư mà chúng ta sẽ thu được vốn gốc và lãi.
-Để tăng khả năng trả nợ hay tích lũy của quốc gia, các chính sách phải nhắm đến
việc gia tăng dòng tiền chảy vào, nhất là dòng tiền thuộc sở hữu hoàn toàn của quốc gia
và giảm bớt dòng tiền chảy ra, nhất là chi cho nhập khẩu hàng hóa dịch vụ. Khi tiền đồng
giảm giá sẽ có lợi cho xuất khẩu và sản xuất trong nước, đồng thời gây bất lợi cho nhập
khẩu. Điều này có nghĩa là dòng tiền chảy vào sẽ gia tăng do sự gia tăng của xuất khẩu và
dòng vốn đầu tư từ bên ngoài khi lợi suất đầu tư trong nước gia tăng. Ngược lại, dòng tiền
chảy ra sẽ giảm do sự sụt giảm của nhập khẩu và dòng tiền đầu tư ra bên ngoài thấp.
Tóm lại, điều chỉnh đồng tiền trong nước theo hướng đó sẽ có lợi cho xuất khẩu
cũng như sản xuất trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những ngành phát

huy lợi thế cạnh tranh của quốc gia, sẽ làm cho kinh tế tăng trưởng tốt hơn và gia tăng khả
năng trả nợ của Việt Nam chứ không làm gia tăng gánh nặng nợ nần

12


4.3. Tỷ giá với lãi suất và trái phiếu chính phủ:
Tỷ giá hối đoái có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi
suất. Trong nền kinh tế thị trường, khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng
ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm tăng
chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước
phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này làm giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất
huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kinh doanh sẽ
bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ
để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh trong khi đó
ngân sách phải tiếp tục chi cho lãi suất huy động nội tệ. Kinh nghiệm ở một số nước châu
Á như Malaysia, Thái Lan , Indonexia cho thấy việc sử dụng hài hòa, phối hợp lãi suất và
tỷ giá hối đoái làm tỷ giá giữ vững ở biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Việc chính phủ tăng cường phát hành trái phiếu làm cho giá cả của các trái phiếu
đó giảm xuống thế hiện ở việc chi phí vốn vay tăng lên tức chính phủ cần tăng lãi suất
huy động. Việc tăng lãi suất này xét trong ngắn hạn không gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực
đến nền kinh tế vì chính phủ có thể tăng thuế để bù đắp. Nhưng nếu xét một cách dài hạn
thì đây là một cách tiềm tàng nhiều rủi ro bởi lẽ khi lãi suất tăng quá cao sẽ khiến chính
phủ gặp nhiều khó khăn trong việc trả nợ và phải dùng đến phương pháp cuối cùng là in
tiền và việc này sẽ gây ra hiện tượng lạm phát vì vậy người ta nói rằng phát hành trái
phiếu là phương thức vay nợ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát
4.4. Tỷ giá hối đoái và điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại:
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở
tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn

có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự
thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
13


- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng
như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.

Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi
tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các
quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
II. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá:
Khái niệm : Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện là
NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống
các công cụ can thiệp nhàm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến
động đến một mức cần thiết để phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Vì là một bộ phận của chính sách tiền tệ nên mục tiêu của chính sách tỷ giá theo
nghĩa rộng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Về mục tiêu ổn định giá cả: Với các yếu tố khác không đổi khi tỷ giá tăng làm cho
giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng . Giá hàng hóa nhập khẩu tăng làm cho giá
cả mặt bằng chung hàng hóa trong nước tăng, gây lạm phát. Tỷ giá tăng càng mạnh và tỷ
trọng hàng hóa nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao và ngược lại khi tỷ giá
giảm, làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ giảm, tạo áp lực giảm lạm phát.
Muốn duy trì giá cả ổn đinh NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng.
14



Về mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và công ăn việc làm: Khi các yếu tố khác không
đổi, tỷ giá tăng sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trực tiếp tăng thu nhập
quốc dân và tăng công ăn việc làm. Ngược lại khi tỷ giá giảm làm giảm tăng trưởng kinh
tế và gia tăng thất nghiệp.
Về mục tiêu cân bằng cán cân vãng lai: Chính sách tỷ giá tác động trực tiếp đến
cán cân vãng lai. Với chính sách tỷ giá định giá nội tệ sẽ có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu
và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai từ trạng thái thâm hụt về cân bằng
hay thặng dư. Với chính sách tỷ giá định giá cao nội tệ sẽ có tác dụng kìm hãm xuất khẩu
và kích thích nhập khẩu, giúp điều chỉnh cán cân vãng lai từ trạng thái thặng dư về trạng
thái cân bằng hay thâm hụt. Với chính sách tỷ giá cân bằng sẽ có tác dụng làm cân bằng
xuất khẩu, nhập khẩu, giúp cán cân vãng lai tự động cân bằng.
-Hệ thống chính sách tỷ giá


Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ trong đó tỷ giá được xác định hoàn
toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ
sự can thiệp nào của NHTW. Chế độ tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại
hối nên cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước
ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.



Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ tỷ gia thả nổi có điều tiết của tồn tại
khi NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngọai hối nhằm duy trì
tỷ giá biến động trong một vùng nhất định nhưng NHTW không cam kết duy trì
một tỷ giá cố định hay một biên độ dao động hẹp xung quanh tỷ giá trung tâm.




Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can
thiệp để duy trì một mức giá cố định, gọi là tỷ giá trung tâm trong một biên độ
hẹp đã được định trước. Như vậy trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải
mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định
tỷ giá trung tâm và duy tŕ sự biến động của nó trong một biên độ hẹp đã ðịnh
15


trýớc. Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có
sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định.
2. Các công cụ của chính sách tỷ giá
2.1. Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay
ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt
động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có
thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm
hoạt động can thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để
hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW tham gia
mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của
NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là
công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá. Tuy
nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh
tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại
tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp
kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử
dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua

ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối
đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của
16


lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế
làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi
đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi vốn của
mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể
lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ
đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng
ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và
ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao, quy
định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và ngược
lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ vớiNHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền
gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm
giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
3.1. Đối với cán cân thanh toán
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì trước tiên
nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi TGHĐ
tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá
ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng
trong nước. Các nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể
cạnh tranh hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây

có thể có hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu
giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện.
3.2. Với lạm phát và lãi suất
17


Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu
tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình, các nhà sản xuất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu
dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả mức giá chung trong
nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có
xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng
liên tục qua các năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi xuất tăng ở mức vừa phải có
thể kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm
lãi xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm sút.
3.3. Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi
TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh
vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản
lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
3.4. Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở
tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn
có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự
thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng
như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.

18



Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi
tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các
quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
3.5. Với nợ nước ngoài:
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc
những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh
nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các
nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ
giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tỷ giá hối đoái
4..1 Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ
Do tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại hối và nguyên tắc một giá
nên khi sức mua của đồng nội tệ tăng lên sẽ làm tỷ giá giảm xuống và ngược lại
4.2. Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá. Cán cân thương mại của một nước là
chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà
xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra
nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá giảm. Ngược lại, khi nhập
khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi
mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá tăng. Tác động
của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá. Tỷ giá cuối cùng sẽ
19



tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán
cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại
tệ, tỷ giá sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá sẽ tăng, đồng nội
tệ giảm giá.
Đây là yếu tố cực kì quan trọng trong những yếu tố kinh tế tác động đến tỷ giá.
Đánh giá chung có tính chất truyền thống đối với sự biến động của tỷ giá, các nhà kinh tế
đều cho rằng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ quốc gia là những nhân tố cơ bản
đứng sau lưng tăng giá tỷ giá.
Tình trạng của cán cân thanh toán tác động đến cung cầu về ngoại hối do vậy, tác
động trực tiếp đến tỷ giá.
4.3. Yếu tố tâm lý
Dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện kinh tế, chính trị của một nước và tình hình
thế giới, cả chính trị và kin tế có liên quan các nhà kinh doanh ngoại hối bao gồm các
ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp và kể cả người đầu cơ tùy theo sự phán đoán đó
mà hành động.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng một cách hết sức nhạy cảm đối với thị trường tài chính,
trong đó có thị trường hối đoái. Tuy nhiên những biến động này bao giờ cũng mang tính
chất ngắn hạn, xác lập một vị thế ngắn hạn.
Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là
các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo
nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý,
các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ
hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng
rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ
tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các
chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế
20


nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá

hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
4.4. Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương
Chế độ tỷ giá mà phần đông các nước vận hành là thả nổi có quản lý do đó vai trò
can thiệp của nhà nước giữ vị trí quan trọng. NHTW tự biến mình thành một bộ phận của
thị trường, quyện chặt với thị trường, lúc với tư cách người mua lúc khác là tư cách người
bán, nhằm tác động về phía cung hay cầu của quỹ ngoại hối thị trường nhằm cho ra một
tỷ giá phù hợp như ý đồ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều kiện vật chất để có thể can
thiệp là thực lực về tiềm năng quốc gia biểu hiện bằng quỹ ngoại tệ bình ổn giá, bao gồm
ngoại tệ dự trữ quốc gia.
CHƯƠN G 2 :THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM
(THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ QUA CÁC GIAI ĐOẠN TỪ
1989 ĐẾN NAY)
I. GIAI ĐOẠN 1989 : CỐ ĐỊNH VÀ ĐA TỶ GIÁ
1. Chính sách tỷ giá
-Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai
đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước
XHCN. Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá
giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá này được xác định
bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông dụng nhất, tại cùng một thời điểm
tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở một số tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá cả của 34
mặt hàng đó theo hai loại tiền của 2 nước. ) Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại
thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa
CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR = 0. 5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND. Tỷ giá hối đoái
trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
21


-Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn tại
song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết toán nội bộ.
2. Tác động đến nền kinh tế

-Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và khối
SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển, chuyển giao
về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác
chỉ mang tính hạch toán. Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được
phản ánh đúng đắn trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn tại một thị
trường “chợ đen” với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức. Do đồng tiền Việt Nam được
định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi nên:
+Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi nhập
khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại chèn ép, sản
xuất trong nước bị đình đốn.
+Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất
hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất.
+Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của chính
phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát hàng nhập
khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần
thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng
trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.

II. THỜI KỲ 1989-1991 : “THẢ NỔI” TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Chính sách tỷ giá.
22


- Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ
một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ
giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN
công bố cộng trừ 5%.
- Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh
giảm giá mạnh nội tệ ( không khác gì thả nổi).

- Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào quan hệ
cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt hơn – điều
chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn
20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
2. Tác động đến nền kinh tế.
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1989 – 1991

Tỷ giá E(USD/VND)
Năm

Giá chính thức Giá thị trường tự

Tăng giảm %

Lạm phát

nhà nước

do

1989

4. 200

4. 570

+8, 80

+34, 70


1990

6. 650

7. 550

+13, 50

+67, 50

-0, 02

+68, 00

1991
12. 720
12. 550
Nguồn: Ngân hàng nhà nước.

Bảng dữ liệu cho thấy tỷ giá E(USD/VND) có biến động theo hướng tăng và tỷ giá
chính thức nhà nước sát với giá thị trường tự do, chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá,
quan hệ cung cầu ngoại tệ đã phần nào được khả quan hơn
- Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18, 8% ; 1991: 48, 63%.
23


- Tuy nhiên đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng nhập
khẩu tăng nhanh tăng tình trạng đầu cơ, găm giữ, tích trữ. Từ đó dẫn đến mọi cố gắng quản
ý ngoại tệ của Chính phủ trở nên kém hiệu quả, thậm chí có những quyết định của của
Chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Các ngân hàng

dẫn đến không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất
tăng lên là điều kiện thúc đẩy lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ 34, 7%
năm 1989 lên 67, 5% trong hai năm 1990 và 68% năm 1991.
III. THỜI KỲ 1992-2/1999
1. Chính sách tỷ giá
1.1. Thời kỳ 1992-1994:Tỷ giá chính thức hình thành trên c ơ sở đấu thầu
tại trung tâm giao dịch ngoại tệ:
- Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại
NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Chính phủ ủy
quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành quỹ một cách linh hoạt. Tháng 9/1991
ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm giao dịch ngoại tệ tại thành phố Hồ Chí
Minh và tháng 11/1991, một trung tâm giao dịch thứ hai ở Hà Nội cũng ra đời.
- Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại
các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không được vượt quá
0. 5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
- Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô lớn hơn, hoạt
động linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy đủ hơn quan hệ cung cầu
thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước nắm bắt dấu hiệu thị
trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho
các ngân hàng thương mại.

24


1.2. Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân
hàng.
- Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á,
đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình
trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998,
nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ

giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.

2. Tác động đến nền kinh tế.
Bảng 2: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1993 -1996
Tỷ
Năm

giá So

E(USD/V

với

ND)
1993

sánh Tốc

độ Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu

năm tăng

lạm (triệu

(triệu

(triệu

trước


phát

USD)

USD)

USD)

10. 835

+1, 07%

5, 2%

2. 985

3. 924

939

1994

11. 050

+1, 98%

14, 4%

4. 054


5. 825

1. 771

1995

11. 040

0%

12, 7%

5. 448, 9

8. 155, 4

2. 706, 5

1996

10. 060

+0, 18%

4, 5%

7. 255

11. 143


3. 888

Nguồn: Ngân hàng nhà nước.
Bảng dữ liệu cho thấy, tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm
phát vì phụ thuộc vào cung cầu ngoại tệ, cụm các nhân tố đối ngoại. Việc duy tỷ giá ổn
định trong thời gian dài đã góp phần tích cực vào việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, bình ổn
tỷ giá kích thích đầu tư, tăng trưỏng kinh tế. Tuy nhiên, với nhu cầu phát triển kinh tế nói
chung và thị trường nói riêng thì hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã không đáp ứng được
nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn quốc gia, làm cho ngoại thuơng kém phát triển. Nhập
siêu ngày càng tăng lên, từ 939 triệu USD năm 1993 lên 3. 888 triệu USD năm 1996. Mặt
25


×