Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Tổng quan về vấn đề nhập siêu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.16 KB, 146 trang )

Nghiên cứu khoa học

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Kinh tế Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang có
những bước chuyển biến tích cực như tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân luôn ở mức cao so với khu vực và thế giới,
giai đoạn 1991 – 2009 là 7.56% , chỉ đứng sau Trung Quốc
và Ấn Độ; GDP bình quân đầu người tăng cao, bình quân
13,6% trong cùng kỳ từ năm 1991 – 2009 và được đánh dấu
bởi cột mốc năm 2008 khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ
nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập
trung bình.
Song song với những chuyển biến tích cực đó thì một
thực trạng đáng báo động trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam từ những thập niên 90 tới nay là tình trạng thâm hụt
cán cân thanh toán vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt
cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Nếu như xuất khẩu
tăng trưởng đều đặn mỗi năm (đặc biệt, xuất siêu vào năm
1992) nhờ xuất những mặt hàng chủ lực như: nguyên vật
liệu thô (dầu mỏ, than đá…), nông sản (gạo, hạt điều, hạt
tiêu…), thủy hải sản, hàng gia công mỹ nghệ… thì khi đề
cập vấn đề nhập khẩu ta sẽ thấy điều hoàn toàn trái ngược.
Xét khía cạnh kim ngạch và quy mô nhập khẩu thì tốc độ

1

Lớp QTDN.A/K11



Nghiên cứu khoa học

tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là
17,5%, giai đoạn 2001 – 2006 là 19%, giai đoạn 2007 –
2009 là 11% . Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước
ta không ổn định qua các thời kỳ, thậm chí còn vượt xuất
khẩu rất nhiều mặc dù đã có sự can thiệp của Chính Phủ
trong việc điều tiết thị trường, gia tăng tỷ trọng các mặt hàng
công nghiệp, đề ra các chính sách kích thích tăng trưởng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết
yếu ... Tuy vậy, các biện pháp đó vẫn chưa thực sự hiệu quả
trong việc kiềm chế hiện tượng nhập siêu quá nóng hiện nay.
Chỉ xét riêng thị trường trong nước, nhập siêu đã gây tác
động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong nước khi chiếm
lĩnh thị phần đầu vào và đầu ra khiến những sản phẩm mà
doanh nghiệp sản xuất ra khó cạnh tranh trên thị trường do
giá bán cao, gây thiệt hại nặng; bên cạnh đó, nhập siêu còn
tạo ra sự phụ thuộc vào nước ngoài, làm mất cân đối cán cân
thanh toán, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái …
Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta cần phải sớm tìm ra
những chính sách hợp lý hơn để kiềm chế nhập siêu, tiến tới
cân bằng cán cân thanh toán và thặng dư thương mại.
2. Mục đích nghiên cứu.

2

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


Đề tài nghiên cứu này là nhằm đưa ra những đề suất tốt
nhất cho Chính phủ trong việc tiếp tục ra các chính sách mới
kiềm chế nhập siêu, tăng cường xuất khẩu để tiến tới cân
bằng cán cân thương mại và xa hơn là thặng dư thương mại
ở các giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế nước nhà.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài nghiên cứu
cần hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
– Khát quát hóa cơ sở lý luận về nhập siêu.
– Đưa ra thực trạng nhập siêu trong nước và những kinh

nghiệm hạn chế nhập siêu của các quốc gia khác làm bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Dự báo tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những

năm tiếp theo.
– Đưa ra các giải pháp, công cụ để hạn chế nhập siêu.
4. Phạm vi nghiên cứu.

Đó là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa (không bao gồm lĩnh
vực nhập khẩu dịch vụ). Trong nhập khẩu hàng hóa, cũng
chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích một số khía cạnh chủ yếu ở
giai đoạn 2001 – 2009, như: tốc độ tăng trưởng và qui mô
nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường
nhập khẩu, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực

3


Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

nhập khẩu, các điều kiện ảnh hưởng đến nhập khẩu và kinh
nghiệm của các quốc gia đã kiềm chế được tình trạng nhập
siêu. Từ đó đề suất các giải pháp kiềm chế nhập siêu cho
Chính phủ trong giai đoạn sau 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu.

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:
phương pháp hệ thống hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh dẫn
giải, phân tích…
6. Kết cấu của đề tài.

Kết cấu đề tài gồm ba chương chính, bao gồm:
Chương I: Khái lược về nhập siêu, dự báo nhập siêu
của Việt Nam trong thời gian tới và kinh nghiệm của một số
nước về giải quyết vấn đề nhập siêu.
Chương II: Thực trạng vấn đề nhập siêu của Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương III: Các biện pháp kiềm chế nhập siêu của
Việt Nam trong thời gian tới.

4

Lớp QTDN.A/K11



Nghiên cứu khoa học

CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ NHẬP SIÊU, THỰC TRẠNG VÀ
NGUYÊN NHÂN NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NAY

I.

KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG

ĐẾN NHẬP SIÊU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHẬP SIÊU
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
1. Khái niệm, đặc điểm và các quan niệm về nhập siêu.
1.1. Khái niệm nhập siêu.
Nhập siêu là khoản thiếu hụt của giá trị xuất khẩu hàng
hoá so với giá trị nhập khẩu hàng hoá của một nước trong một
khoảng thời gian nhất định (thường tính theo năm). Nói cách
khác, nhập siêu là khoản thiếu hụt cán cân thanh toán thương
mại hàng hoá của một nền kinh tế trong quan hệ trao đổi hàng
hoá với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian xác
định (thường là một năm). Tỷ lệ nhập siêu là quan hệ so sánh
giữa khoản giá trị nhập siêu với tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá

5

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


của nước đó trong cùng thời gian, được tính bằng số phần trăm
(%).
Cán cân thương mại (hay còn gọi là cán cân xuất nhập
khẩu hàng hoá) là mối tương quan giữa giá trị các khoản nhập
khẩu hàng hoá được tính theo giá CIF, tức là giá trj cả hàng hoá
(cost), chi phí bảo hiểm (insurance) và chi phí vận chuyển
(freight) với giá trị các khoản xuất khẩu hàng hoá được tính theo
giá FOB (free on board), tức là chỉ tính theo giá mua được
khách hàng nước ngoài chấp nhận, không tính chi phí bảo hiểm
và vận chuyển.
Nói cách khác, cán cân thương mại Việt Nam là mức
chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu hàng hoá và giá trị nhập khẩu
hàng hoá của Việt Nam với các nước trong một thời kì nhất
định. Trong cán cân thương mại hàng hoá, trị giá XK được tính
theo giá FOB, trị giá NK được tính theo giá CIF. Khi trị giá XK
lớn hơn trị giá NK thì cán cân thương mại mang dấu dương (+)
hay còn gọi là xuất siêu; khi trị giá NK lớn hơn trị giá XK thì
cán cân thương mại mang dấu âm (-) hay còn gọi là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế theo định nghĩa của IMF – là
một bản thống kê cho một thời kì nhất định (thường là một năm)
trình bày: a) các luồng trao đổi hàng hoá, dịch vụ và thu nhập
giữa nền kinh tế trong nước và thế giới bên ngoài; b) những thay
đổi về quyền sở hữu và những thay đổi khác về vàng, quyền vay
6

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


vốn đặc biệt trong nền kinh tế, những khoản có và khoản nợ của
nước đó với các nước khác trên thế giới; c) những khoản chuyển
tiền không phải bồi hoàn và những khoản thu nhập tương đương
cần phải được cân bằng. Nói cách khác, cán cân thanh toán quốc
tế là bảng thống kê tất cả những giao dịch giữa những người cư
trú cả một nước (như Việt Nam) với những người cư trú của
nước khác (những người không cư trú ở Việt Nam) trong một
thời kì nhất định, thường là một năm. Trong đó, các giao dịch
kinh tế được hiểu là sự trao đổi tự nguyện quyền sở hữu hàng
hoá, dịch vụ hoặc tài sản chính giữa những người cư trú và
những người không cư trú (đối với các giao dịch không đòi hỏi
thanh toán như quà tặng và các di chuyển đơn phương khác về
tiền giữa những người cư trú và những người không cư trú cũng
được đưa vào CCTTQT). Người cư trú được hiểu là những thể
nhân hoặc pháp nhân cư trú đang ở quốc gia được xét lâu hơn
một năm, không phụ thuộc vào quốc tịch của họ (các nhà ngoại
giao, các chuyên gia quân sự ở bên ngoài lãnh thổ của họ cũng
như các tổ chức quốc tế không phải là người cư trú của nơi họ
làm việc). Theo IMF, CCTTQT gồm hai tài khoản chính là cán
cân thanh toán vãng lai (gọi tắt là tài khoản vãng lai) và cán cân
tài khoản vốn.
I.2. Đặc điểm của nhập siêu
7

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


- Đặc điểm về qui mô, mức độ nhập siêu.
Qui mô nhập siêu của nền kinh tế được xác định bằng
giá trị đo bằng ngoại tệ chuyển đổi sau khi thực hiện phép
trừ đại số của tổng giá trị XK hàng hoá với tổng giá trị NK
hàng hoá trong một giai đoạn nhất định (thường là một
năm). Ví dụ, đối với trường hợp Việt Nam, qui mô nhập
siêu được tính bằng Đô la Mỹ. Mức độ nhập siêu của nền
kinh tế được xác định bằng quan hệ tỷ lệ phần trăm (%)
giữa giá trị nhập siêu tính bằng ngoại tệ (đôla Mỹ) với tổng
giá trị (hay kim ngạch) XK hàng hoá tính bằng ngoại tệ
chuyển đổi (đôla Mỹ) trong cùng một giai đoạn (thường là
một năm).
- Đặc điểm về các dạng thái của nhập siêu.
Nếu theo mục đích, nhập siêu của các nền kinh tế thường ở 4
dạng thái chủ yếu sau:
Nhập siêu để tăng trưởng (là dạng thái tích cực của nhập
siêu): Đây là trường hợp do đầu tư phát triển nhanh, đòi hỏi
phải tăng nhanh nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu “đầu vào” của
sản xuất nhưng năng lực sản xuất trong nước đang trong quá
trình hấp thụ đầu tư chưa kịp chuyển hoá thành năng lực XK
của nền kinh tế trong ngắn hạn, nên XK chưa tăng trưởng kịp
tốc độ của NK, dẫn đến nhập siêu. Tuy nhiên, nếu sản xuất
trong nước hấp thụ tốt vốn đầu tư, đầu tư có chọn lợc và hiệu
8

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


quả, từ đó tăng năng lực sản xuất hàng XK thì nhập siêu cao có
thể là tiền đề của tăng trưởng XK trong dài hạn, tạo hiệu ứng
tích cực đối với tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.
Nhập siêu để tiêu dùng: Đây là trường hợp do sản xuất
trong nước bị trì trệ, lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất trong
nước không đủ cho tiêu dung trong nước (Tổng cung < Tổng
cầu) phải tăng NK để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường
trong nước, trong khi hàng XK có sức cạnh tranh yếu, tăng
trưởng XK chậm hơn tăng trưởng NK dẫn đến nhập siêu (có xu
hướng ngày càng cao). Nguyên nhân của tình trạng này có thể
do mức bảo hộ quá cao và cơ cấu bảo hộ bất hợp lý; duy trì tỷ
giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài; qui mô của khu vực
kinh tế Nhà nước vượt quá khả năng chi tiêu của Nhà nước;
hoặc/và chính sách tiền tệ lỏng lẻo, chính sách quản lý nhập
khẩu không dựa trên các dự báo khoa học về cung – cầu, tạo
khuynh hướng nhập khẩu hàng tiêu dùng, đầu cơ. Dạng thái
nhập siêu này có thể được gọi là tiêu cực, nó để lại hậu quả lâu
dài cho nền kinh tế.
Nhập siêu chu kỳ: Đây là dạng thái nhập siêu bị tác động
bởi tính chu kỳ của nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy
thoái, nhu cầu NK giảm mạnh trong khi đó các nước muốn xuất
khẩu nhiều hơn và do đó có thể có xuất siêu. Ngược lại, khi nền
kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng thì đầu tư tăng, nhu cầu
9

Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


nhập khẩu tăng theo nhưng năng lực xuất khẩu chưa tăng ngay
theo kịp tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, nên thường phải nhập
siêu.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ phát
triển bùng nổ của nền kinh tế thường xảy ra nhập siêu. Trong
khi đó, trong thời kỳ khủng hoảng lại có thể có xuất siêu, điều
này cũng phần nào giúp phục hồi trở lại cho chu kỳ kinh tế. Tuy
nhiên, điều này chỉ có tính tương đối, bởi có những trường hợp,
khi nền kinh tế ở thời kỳ suy thoái, nhưng vẫn xảy ra nhập siêu
trầm trọng. Nhưng nhìn chung, khi nền kinh tế tăng trưởng trở
lại, đầu tư tăng nhu cầu nhập khẩu cũng tăng theo, hiện tượng
nhập siêu xuất hiện là tín hiệu tích cực vì nó lại có tác dụng thúc
đẩy tăng trưởng, tăng năng lực sản xuất hàng XK, khi đó nhập
siêu cao lại là tiền đề tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn phát
triển tiếp theo của nền kinh tế.
Nhập siêu lợi thế so sánh: Đây là dạng thái nhập siêu xảy
ra trong trường hợp một nước nào đó có lợi thế so sánh phát
triển XK một số ngành sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) nên chỉ
tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu các ngành đó; do đó
phải tăng nhập khẩu các ngành sản phẩm kém lợi thế hơn để đáp
ứng nhu cầu trong nước nên cán cân thương mại hàng hoá bị
thâm hụt, nhưng nước này lại có thể đạt thặng dư cán cân dịch

10
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

vụ để bù đắp mà vẫn đạt mục tiêu hiệu quả chung của nền kinh

tế.
- Đặc điểm về cơ cấu nhập siêu:
+ Cơ cấu nhóm hàng, ngành hàng, mặt hàng được phân
nhóm như sau:
Từ góc độ can thiệp của Nhà nước nhằm quản lý, điều
tiết hoạt động nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu gồm
3 nhóm lớn: 1) nhóm mặt hàng cần thiết nhập khẩu; 2)
nhóm mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu; 3) nhóm mặt
hàng cần hạn chế nhập khẩu.
Theo dây chuyền (chu trình) phát triển giữa nhập
khẩu và xuất khẩu và cân đối nhập – xuất theo từng ngành
sản phẩm xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế; ví dụ: ngành
hàng sản phẩm hoá dầu, ngành sản phẩm thông tin, ngành
sản phẩm cà phê … và/hoặc theo các ngành công nghiệp
ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn được xác định tại quyết
định số 55/2007/QĐ-TTG ngày 23/4/2007 của Thủ tướng
Chính phủ.
Theo mục đích sử dụng hàng nhập khẩu, gồm: các
mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản xuất (vật tư,
máy móc thiết bị,…); và các mặt hàng tiêu dùng của dân
cư.
Theo thông kê hàng hoá nhập khẩu: theo danh mục
thống kê.
11
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

Theo tính chất của sản phẩm, gồm: sản phẩm hoàn

chỉnh, bán thành phẩm.
Theo trình độ kỹ thuật và công nghệ của sản phẩm
như: sản phẩm có hàm lượng lao động cao, sản phẩm có
hàm lượng vốn cao, sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
+ Cơ cấu chủ thể nhập khẩu, gồm:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trong nước.
+ Cơ cấu thị trường nhập siêu, gồm:
Cơ cấu nhập siêu theo khu vực thị trường nhập khẩu
(châu Á – Thái Bình Dương): châu Phi, Tây Á, Nam Á,
châu Âu, châu Mỹ.
Cơ cấu nhập siêu theo các thị trường nhập siêu chính là
các thị trường có qui mô nhập siêu lớn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng giá trị nhập siêu
I.3. Một số quan niệm về nhập siêu trong lịch sử các học
thuyết kinh tế.
Trước thế kỷ XX, các nhà kinh tế và Chính phủ các
nước chủ yếu chú trọng tới sự cân bằng các khoản nhập
khẩu và các khoản xuất khẩu hàng hoá của một nước.
Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, vấn đề xác lập cán
cân thương mại, giải quyết vấn đề nhập siêu của các nước
gắn với việc xác lập CCTTQT, thực hiện các chiến lược
kinh tế như chiến lược thay thế NK, chiến lược hướng về
12
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

XK, chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chiến

lược nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế
bền vững … Mặt khác, cách tiếp cận giải quyết vấn đề cán
cân thương mại, vấn đề nhập siêu của các nước thường
gắn liền với việc điều chỉnh quan hệ thương mại với các
đối tác chiến lược cạnh tranh quốc tế và chiến lược thị
trường quốc tế, điều chỉnh quan hệ thương mại với các đối
tác chiến lược, điều chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất và nhập
khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, điều
chỉnh tỷ giá và lãi nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ
cấu công nghệ, điều chỉnh tỷ giá và lãi suất … Trong thời
kỳ này, có hai trường phái kinh tế ảnh hưởng mạnh đến
các nước trong việc hình thành quan niệm về nhập siêu và
giải quyết vấn đề nhập siêu.
Trường phái kinh tế tân cổ điển cho rằng, đường lối
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được hầu hết các
nước đang phát triển thực hiện cho đến đầu những năm 70
đã tạo ra những bất hợp lý và ảnh hưởng xấu đến cơ cấu
thương mại nói riêng, cán cân thanh toán vãng lại nói
chung. Họ cho rằng, có 4 nguyên nhân chính dẫn đến nhập
siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các nước
là: (1) Mức bảo hộ quá cao kết hợp với cơ cấu bảo hộ bất
hợp lý (chủ yếu bảo hộ hàng công nghiệp tiêu dùng) đã
13
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

làm cho giá cả trong nước cao hơn giá trên thị trường quốc
tế nên không khuyến khích các nhà sản xuất đẩy mạnh XK

mà ngược lại, các nhà sản xuất được khuyến khích việc
nhập khẩu các nguyên liệu và máy móc để sản xuất các
mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, do đó nhu cầu về chi tiêu
ngoại tệ có thể vượt quá khả năng cung ứng. (2) Việc duy
trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài đã không
phản ánh đúng giá của tiền tế và tiền vốn nên một mặt làm
thui chột khả năng cạnh tranh và xuất khẩu; mặt khác,
khuyến khích nhập khẩu và các nhà doanh nghiệp xây nhà
máy với qui mô lớn, sử dụng nhiều vốn trái với lợi thế so
sánh của các Nhà nước đang phát triển, cùng với hiện
tượng sử dụng năng lực sản xuất không hết công suất cũng
trở nên phổ biến. (3) Qui mô của khu vực kinh tế Nhà
nước nhanh chóng mở rộng vượt ngoài khả năng chi tiêu
của Nhà nước, một phần không nhỏ chi tiêu của Nhà nước
đã phải dựa vào phần vốn vay của nước ngoài với lãi suất
cao, các doanh nghiệp Nhà nước phải gánh chịu phần chủ
yếu nợ nước ngoài nhưng lại hoạt động kém hiệu quả làm
cho khả năng trả nợ xấu thêm, gây ảnh hưởng xấu tới thâm
hụt cán cân thanh toán. (4) Chính sách tiền tệ lỏng lẻo trở
thành nguồn gốc tạo nên nguồn vốn bù đắp bội chi ngân
14
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

sách của Chính phủ đã góp phần mở rộng thêm sự thâm
hụt cán cân thanh toán. Do đó, để cải thiện cán cân thanh
toán vãng lai, khắc phục tình trang nhập siêu và thiết lập
lại cân bằng cán cân thương mại của nền kinh tế, cần thực

hiện 5 cách thức chủ yếu sau:
• Thắt chặt cung ứng tiền tệ, giảm chi tiêu của ngân
sách Nhà nước.
• Phá giá đồng tiền nội để khuyến khích tận dụng
năng lực sản xuất cho nhập khẩu và thay thế nhập
khẩu.
• Tự do hoá giá cả, đặc biệt là giá sản phẩm nông
nghiệp; và nâng lãi suất để khuyến khích tăng tiết
kiệm, tăng đầu tư (theo quan niệm trường phái
kinh tế này thì tiết kiệm và đầu tư luôn cân bằng).
• Tự do hoá thương mại, thực sự khuyến khích XK,
tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Trường phái kinh tế cơ cấu cho rằng, hiện tượng
nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các
nước đang phát triển là khó tránh khỏi do những nguyên
nhân khách quan từ nội tại của nền kinh tế các nước này
và những yếu tố bất lợi trên thị trường quốc tế. Có 4 lí do
chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế các nước đang phát triển phụ
thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy móc, thiết bị, công
nghệ sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu
15
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

cơ bản (kể cả dầu mỏ), cho nên nhập khẩu ở qui mô lớn
không chỉ là điều kiện tiên quyết để phát triển, mà còn để
duy trì sự sản xuất bình thường của các nước đang phát
triển. (2) Trong điều kiện khả năng XK còn ở mức hạn chế

do tính giới hạn của xuất khẩu nông sản và các nguyên
liệu thô là những mặt hàng XK chủ yếu của nền kinh tế,
độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng này là rất nhỏ
bé… thì những biện pháp nhằm tăng cường cho XK như
phá giá đồng tiền, tăng đầu tư… sẽ không mang lại kết
quả mong muốn, hoặc cần một thời gian khá dài. (3) Điều
kiện thương mại quốc tế và cạnh tranh thương mại toàn
cầu ảnh hưởng bất lợi đối với các nước đang phát triển
(cánh kéo giá cả nông sản và sản phẩm thô với hàng công
nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao có xu hướng xoạc rộng;
giá cả xuất khẩu hàng nông sản và nguyên lieu thô giảm
tương đối…) đã làm cho cầu về những mặt hàng XK của
các nước đang phát triển giảm xuống. Điều đó không chỉ
làm giảm giá mà còn làm giảm tương đối khối lượng sản
phẩm XK từ các nước đang phát triển. Do thuế nhập khẩu
chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu về thuế của
ngân sách Nhà nước các nước đang phát triển nên giảm
nhập khẩu để thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại có thể
16
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

sẽ làm giảm thu ngân sách và cũng có thể làm giảm sản
xuất trong nước, từ đó ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân
sách Nhà nước. (4) Trong cơ cấu kinh tế của các nước
đang phát triển, hàm lượng nhập khẩu của các mặt hàng
xuất khẩu thường khá lớn. Do đó, giảm nhập khẩu cũng có
thể làm giảm cả kim ngạch xuất khẩu của nước đó.

Như vậy, theo các nhà kinh tế cơ cấu thì khả năng
tăng xuất khẩu ở các nước đang phát triển không thể tăng
lên một cách nhanh chóng, và phụ thuộc vào cả khả năng
nhập khẩu. Mặt khác, nếu giảm nhập khẩu để cải thiện cán
cân thương mại lại làm tăng thâm hụt ngân sách và giảm
kim ngạch xuất khẩu; hậu quả của nó không chỉ làm trầm
trọng thêm thâm hụt cán cân thanh toán mà còn giảm cả
nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng thêm thất nghiệp. Do đó,
phương thức cơ bản để cải thiện cán cân thanh toán, giảm
nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, cơ bản cải thiện cán
cân thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả,
là điều kiện cho sự phát triển lâu dài của các nước đang
phát triển. Đầu tư có hiệu quả để thay đổi căn bản lợi thế
so sánh là một trong những điều kiện tiên quyết để giải
quyết vấn đề nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán trong
dài hạn của các nước đang phát triển. Hiện nay, trường
phái kinh tế cơ cáu vẫn đang có ảnh hưởng rất lớn đối với
17
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, W.B, ADB
nên các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Việt Nam
chú trọng đến quan điểm này.
2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nhập siêu và ảnh
hưởng của nhập siêu đối với nền kinh tế.
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng và là nguyên nhân dẫn đến
nhập siêu:

2.1.1.
Nhóm nhân tố nội tại về qui mô và trình độ phát
triển của nền kinh tế ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1) Qui mô sản xuất trong nước còn nhỏ, phân tán; trình độ
phát triển sản xuất còn thấp, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp,
sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu
cầu của thị trường nội địa (Tổng cung nhỏ hơn Tổng cầu).
(2) Nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy
móc thiết bị, công nghệ sản xuất và một phần quan trọng là các
nguyên liệu cơ bản (như dầu mở, than, hoá chất cơ bản, phân
bón,…) nên phải NK ở qui mô lớn để duy trì sản xuất bình
thường.
(3) Sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm hàng hoá sản xuất
trong nước còn yếu nên không cạnh tranh được với hàng nhập
khẩu có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường trong nước và
hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh chủ yêu trên thị trường
trong nước và hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh yếu trên thị
trường thế giới nên qui mô XK nhỏ, tốc độ tăng trưởng kim
18
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

ngạch XK chậm hơn so với tăng trưởng kim ngạch NK dẫn đến
nhập siêu.
(4) Cơ cấu sản xuất trong nước và cơ cấu hàng hoá xuất
khẩu còn lạc hậu, giá trị gia tăng thấp nên khả năng XK còn ở
mức hạn chế do tính giới hạn (cả về khối lượng và giá trị) của
XK nông sản và các nguyên liệu thô là những mặt hàng XK chủ

yếu của nền kinh tế, độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng
này rất nhỏ bé, không thích ứng kịp thời với những biến đổi
mau lẹ của thị trường thế giới. Do tính giới hạn đó của nền kinh
tế nên qui mô XK nhỏ, không có khả năng tăng trưởng nhanh,
không thể cân đối được cán cân thương mại và xảy ra nhập siêu
có tính dài hạn.
(5) Đầu tư là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng
đến cán cân thương mại, ảnh hưởng đến nhập siêu. Khi đầu tư
phát triển sản xuất tăng cao (cả đầu tư trong nước và đầu tư của
nước ngoài vào trong nước) làm tăng nhu cầu sử dụng các yếu
tố đầu vào của sản xuất nên nhập khẩu tăng nhanh trong khi
năng lực XK chưa tăng kịp so với NK, dẫn đến nhập siêu.
(6) Thu nhập quốc dân trong và ngoài nước: Thu nhập
quốc dân tỷ lệ thuận với thu nhập trong nước, do đó cán cân
thương mại tỷ lệ nghịch với thu nhập trong nước. Trong khi đó,
thu nhập nước ngoài và cán cân thương mại tỷ lệ thuận với nhau
do thu nhập nước ngoài tăng sẽ khuyến khích XK. Thu nhập
19
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

trong nước và giá hàng hoá nhập khẩu là những nhân tố quyết
định đối với cầu nhập khẩu của một nền kinh tế.
(7) Lạm phát: Ảnh hưởng của lạm phát đối với cân cân
thương mại thể hiện qua cơ chế giá. Lạm phát tăng làm hàng
hoá sản xuất trong nước đắt hơn so với hàng nhập khẩu, từ đó
khuyến khích nhập khẩu. Lạm phát tăng cũng quan hệ đến giá
cả đầu vào của hàng hoá sản xuất tạo nguồn hàng XK, làm giá

thành hàng hoá XK cao hơn trước, làm giảm lợi thế cạnh tranh
về giá. Như thế, với sự ảnh hưởng của lạm phát, nhập khẩu tăng,
xuất khẩu giảm sẽ khiến cho cán cân thương mại xấu đi, nhập
siêu có thể tăng cao trong điều kiện lạm phát.
(8) Cán cân ngân sách của Chính phủ: Động thái cán cân
ngân sách của Chính phủ có ảnh hưởng nhất định đến cán cân
thương mại. Theo quan niệm truyền thống, thâm hụt ngân sách
là một nguyên nhân chính gây nên thâm hụt cán cân thương
mại. Và do đó, trong trường hợp nền kinh tế đang nhập siêu thì
sự thâm hụt ngân sách sẽ tác động đồng biến, làm cho nhập siêu
có thể trầm trọng hơn. Vì thế, để giảm nhập siêu, cải thiện cán
cân thương mại thì cần phải giảm thâm hụt ngân sách với việc
tăng thuế. Khi thực hiện chính sách như vậy sẽ làm giảm chi
tiêu từ XK ròng, từ đó giúp giảm nhập siêu, cải thiện cán cân
thương mại. Tuy nhiên, có quan điểm ngược lại cho rằng chỉ
tăng thuế sẽ không giải quyết được vấn đề nhập siêu, mà để cải
20
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

thiện cán cân thương mại thì việc tăng thuế phải đi đôi với việc
cắt giảm chi tiêu của Chính phủ.
(9) Tiết kiệm và đầu tư: Khi bị thâm hụt cán cân thương
mại hàng hoá và dịch vụ, điều đó có nghĩa là quốc gia chi nhiều
hơn so với thu nhập của mình. Ngược lại, cán cân thương mại
thặng dự quốc gia chị tiêu ít hơn so với thu nhập của mình.
Cán cân thương mại còn biểu thị cho tổng tiết kiệm ròng
của quốc giá, chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của

quốc gia đó. Mối quan hệ giữa cán cân thương mại, đầu tư và
tiết kiệm được biểu thị bằng biểu thức:
e – m = (S – I) + (T – G)
Trong đó, S là mức tiết kiệm, I là mức đầu tư, T là thu nhập
từ thuế và G là chi tiêu của Chính phủ. Cán cân thương mại
thâm hụt có nghĩa là tiết kiệm quốc gia ít hơn đầu tư và ngược
lại, nếu cán cân thương mại thặng dư, quốc gia tiết kiệm nhiều
hơn so với đầu tư.
(10) Tiết kiệm và tiêu thụ: Sự gia tăng tiết kiệm sẽ làm giảm
bớt thâm hụt hoặc sẽ thặng dư cán cân thương mại. Do đó muốn
đạt được sự gia tăng vốn tiết kiệm chúng ta cần có những thay
đổi trong hệ thống thuế và những cải cách nhằm cải thiện sự
hoạt động hữu hiệu của hệ thống tài chính quốc gia. Sự thâm hụt
cán cân thương mại lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu
dùng của thế hệ tương lai. Mặt khác, sự gia tăng tiêu dùng của

21
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

dân cư hiện tại cũng ảnh hưởng đến nhập siêu theo chiều hướng
xấu.
(11) Năng suất lao động: Năng suất lao động cũng góp
phần ảnh hưởng lên cán cân thương mại vì sự gia tăng năng suất
lao động sẽ làm cho giá thành sản phẩm rẻ hơn có thể cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, từ đó gia tăng hàng hoá XK đem lại
thằng dư cho cán cân thương mại hoặc giảm bớt sự thâm hụt;
trong khi năng suất lao động thấp làm giá thành sản xuất cao

khó cạnh tran với hàng hoá nước ngoài, trong khi nhu cầu nhập
khẩu gia tăng sẽ làm cán cân thương mại bị thâm hụt thêm hoặc
giảm bớt thặng du nếu có. Do đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng
vất chất cũng như phát triển nguồn tài nguyên nhân lực vừa đề
cập ở trên cũng là yếu tố thiết yếu có tác động tốt đến cán cân
thương mại.
2.1.2.

Nhóm nhân tố có tính khác quan (bên ngoài) ảnh

hưởng đến nhập siêu:
(1)
Giá thế giới của hàng hoá xuất nhập khẩu
Giá cả luôn là một nhân tố quan trọng trong việc xác định
mức cầu của thị trường đối với một loại hàng hoá.
Khi giá hàng hoá sản xuất trong nước của một quốc gia thấp
hơn giá thế giới thì quốc giá đó có tính cạnh tranh tương đối về
giá với các quốc gia khác, và do đó sẽ khuyến khích hoạt động
xuất khẩu. Ngược lại, khi giá hàng hoá trong nước cao hơn giá
22
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

thế giới thì có thể làm cho hàng hoá nước ngoài tràn vào thị
trường trong nước, dẫn đến nhập siêu.
Như vậy có thể thấy, giá hàng hoá NK tăng làm xấu đi cán
cân thương mại thông qua hiệu ứng giá làm tăng NK và làm
giảm tiết kiệm quốc dân.

(2)
Hiệp ước thương mại song phương và đa phương:
Những hiệp ước thương mại ký kết giữa hai quốc gia có ảnh
hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại; tuy nhiên vấn đề cán
cân thương mại của mỗi quốc gia sẽ thặng dư hay thâm hụt hoàn
toàn tuỳ thuộc vào cơ cấu kinh tế và khả năng sản xuất của quốc
gia đó dựa trên nguồn tài nguyên thìên nhiên và con người cũng
như trình độ phát triển khoa học kỹ thuật.
(3)
Hợp đồng thương mại quốc tế:
Các doanh nghiệp trong nước có thể ký những hợp đồng
thương mại quốc tế với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc
mua bán hàng tiêu dùng cũng như những phương tiện cần thiết
trong sản xuất kinh doanh. Các hợp đồng này cũng có ảnh
hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại tuỳ vào tính chất mua
hoặc bán sản phẩm với đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, các hợp
đồng này bị giới hạn bởi những ràng buộc của chính sách
thương mại luật lệ quốc gia.

23
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học

2.1.3.

Nhóm nhân tố có tính chủ quan trong quản lý điều

tiết vĩ mô nền kinh tế nhằm điều tiết cán cân thanh toán

quốc tế, cán cân thương mại ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1)
Chính sách tỷ giá hối đoái:
Theo lý thuyết co giãn, phá giá tiền tệ có thể cải thiện cán cân
thương mại nếu điều kiện Marshll- Lerner được thoả mãn (tổng
hệ số co dãn XK và hệ số co giãn NK với tỷ giá phải lớn hơn 1).
Tuy nhiên, trong ngắn hạn có thể xảy ra hiệu ứng giá cả và hiệu
ứng khối lượng lên XK hàng hoá.
Theo cách tiếp cận của trường phái tiền tệ, ảnh hưởng của phá
giá tiền tệ đối với cán cân thương mại chỉ là tạm thời.
Sự can thiệp của ngân hàng trung ương để làm giảm giá trị
tiền đồng so với tiền tệ các nước khác nhằm giảm bớt áp lực cho
những doanh nghiệp xuất khẩu cũng không làm giảm được sự
thâm hụt cán cân thương mại vì nó có thể làm gia tăng giá cả
sinh hoạt. Ngay cả khi chính sách tiền tệ được áp dụng để ngăn
ngừa sự tăng giá này thì ảnh hưởng của nó cũng chỉ có được
trong ngắn hạn.
(2)
Chính sách đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là bộ phận quan
trọng của tài khoản vốn. Việc gia tăng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài có tác dụng bù đắp thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
Nếu chính sách bảo hộ thiên lệch đối với XK sẽ làm cán cân
thương mại thâm hụt. Lúc này khi luồng FDI vào tăng lên sẽ
24
Lớp QTDN.A/K11


Nghiên cứu khoa học


làm thay đổi tương quan giữa cung và cầu ngoại tệ; nếu Chính
phủ không can thiệp sẽ dẫn đến khuynh hướng đồng nội tệ tăng
giá, gây hậu quả là hạn chế XK và khuyến khích NK, và việc
thâm hụt cán cân thương mại là khó tránh.
Chính sách đầu tư trong nước theo hướng XK hay thay thế
NK đều ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Thêm vào đó hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư cũng ảnh hưởng
đáng kể đến cán cân thương mại. Chẳng hạn, việc xem nhẹ đầu
tư vào ngành công nghiệp phụ trợ làm tăng NK, nguyên nhiên,
phụ liệu đã làm giảm khả năng cạnh tranh hàng XK, hạn chế thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu quả kinh tế thấp của các dự án
đầu tư sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh XK và thay thế NK
do có mức chi phí cao hơn mức quốc tế. Điều này gây cản trở
cho việc cải thiện cán cân thương mại và trong trường hợp cụ
thể có thể những dự án đầu tư không hiệu quả sẽ trở thành gánh
nặng cho nền kinh tế, đặc biệt là trong dài hạn.
(3)
Chính sách thương mại:
Chính sách thương mại thường ít ảnh hưởng lên sự thâm hụt
cán cân thương mại vì nó không tác dụng trực tiếp đến nguồn
tiết kiệm và đầu tư trong nước. Tuy vậy, cho dù rào cản thương
mại được áp dụng một cách triệt để giới hạn mọi hàng hoá NK
để không còn sự thâm hụt cán cân thương mại, nhưng sự ngừng
25
Lớp QTDN.A/K11


×