Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DÂN TỘC THIỂU SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 115 trang )

NHÓM CÔNG TÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ (EMWG)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DÂN TỘC THIỂU SỐ
(BÁO CÁO TỔNG HỢP DỰ ÁN

“BƯỚC ĐẦU TỔNG KẾT CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN
VÀ TÌM KIẾM CÁC CƠ CHẾ NHẰM NÂNG CAO TIẾNG NÓI
CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH”)

Những người thực hiện: TS. Mai Thanh Sơn
TS. Vũ Thị Minh
ThS. Khúc Thị Thanh Vân
TS. Nguyễn Thị Thu Hoài
CN. Nguyễn Trung Dũng
CN. Trần Thị Thanh Tuyến

HÀ NỘI - Tháng 8/2009
1

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


Nghiên cứu này được thực hiện theo đơn đặt hàng của OHK. Những vấn đề được trình
bày trong báo cáo tổng hợp là kết quả của quá trình phân tích các nguồn tài liệu thứ cấp
và tư liệu điền dã của các nhóm nghiên cứu hợp phần. Trong quá trình nghiên cứu, tác
giả luôn đề cao hai nguyên tắc cơ bản: Thượng tôn dân tộc (nation) và khách quan khoa
học. Các nhận định được đưa ra trong báo cáo chỉ phản ánh quan điểm của nhóm nghiên
cứu, không đại diện cho bất cứ cơ quan, tổ chức chính trị xã hội hay nghề nghiệp nào.
Xin đừng trích dẫn nếu không được phép của OHK và các tác giả.



2

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt
đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”
(Điều 5, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2001)

3

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


MỤC LỤC
LỜI TỰA .............................................................................. Error! Bookmark not defined.
TÓM LƯỢC.......................................................................... Error! Bookmark not defined.
A. Giới thiệu chung về nghiên cứu..................................... Error! Bookmark not defined.
B. Những phát hiện chính .................................................. Error! Bookmark not defined.
I. GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU....................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Bối cảnh nghiên cứu ................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................... Error! Bookmark not defined.

1.3. Các câu hỏi nghiên cứu chính...................................... Error! Bookmark not defined.
1.4. Quan điểm tiếp cận ..................................................... Error! Bookmark not defined.
1.5. Khung đánh giá và lý thuyết nghiên cứu ..................... Error! Bookmark not defined.
1.6. Các phương pháp nghiên cứu ...................................... Error! Bookmark not defined.
1.7. Các nguồn tư liệu và tiến trình thực hiện nghiên cứu ... Error! Bookmark not defined.
II. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC.............................................. Error! Bookmark not defined.
2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc thiểu số ... Error! Bookmark not
defined.
2.2. Bước chuyển biến trong quy trình ban hành chính sách dân tộc. Error! Bookmark not
defined.
2.3. Các nội dung chính sách chủ yếu ................................ Error! Bookmark not defined.
2.4. Một số vấn đề cần thảo luận về cơ sở lý luận của việc hoạch định chính sách đối với
dân tộc thiểu số.................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.5. Những kết quả chung của việc thực hiện chính sách dân tộc trên cả nước - Tổng hợp từ
hệ thống văn bản................................................................ Error! Bookmark not defined.
III. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG .. Error!
Bookmark not defined.
3.1. Khái quát về các địa phương được nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
3.2. Ghi nhận qua sự đánh giá thực địa............................... Error! Bookmark not defined.
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRI THỨC BẢN ĐỊA................. Error! Bookmark not defined.
4.1. Tri thức bản địa là cơ sở đảm bảo đời sống của các dân tộc thiểu số Error! Bookmark
not defined.
4.2. Tri thức bản địa của các dân tộc thiểu số đang đối mặt với nhiều thách thức....... Error!
Bookmark not defined.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ SỰ THAM GIA ........................... Error! Bookmark not defined.
5.1. Chủ thể văn hóa đã trở nên thiếu tự tin và ít tham gia .. Error! Bookmark not defined.
5.2. Những trở ngại chính .................................................. Error! Bookmark not defined.
VI. TÌNH TRẠNG SỐC VĂN HOÁ VÀ CÁC BỐI CẢNH TỔN THƯƠNG MỚI....... Error!
Bookmark not defined.

6.1. Khái niệm sốc văn hoá ................................................ Error! Bookmark not defined.
6.2. Những tác nhân gây sốc hay tạo ra bối cảnh tổn thương của chính sách.............. Error!
Bookmark not defined.
6.3. Diễn biến sau sốc và bối cảnh bị tổn thương................ Error! Bookmark not defined.
VII. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ......................... Error! Bookmark not defined.
7.1. Những giải pháp chung ............................................... Error! Bookmark not defined.
7.2. Một số biện pháp cần thực hiện để IK trở thành cơ sở của PTBV .... Error! Bookmark
not defined.
Các tài liệu tham khảo chính.............................................. Error! Bookmark not defined.
Phụ lục 1: LÝ THUYẾT “BA ĐIỂM TỰA VÀ MỘT CHIỀU TÁC ĐỘNG” CỦA CHỦ
THỂ VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM.................................................... 102
4

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


Phụ lục 2: ĐẶC ĐIỂM TRI THỨC BẢN ĐỊA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
...................................................................................................................................... 106
Phụ lục 3: MỘT VÍ DỤ VỀ SỰ SONG HÀNH CỦA 2 THỂ CHẾ................................. 112

5

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


BẢN ĐỒ CÁC ĐIỂM KHẢO SÁT
6

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()



BẢNG KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ADB
BCHTW
CPRGS
CDD
CNH
CTQG
DCCS
ĐCSVN
EMWG
GDP
GS
H
HĐH
HĐND
HTX
MOLISA
NGOs
Nxb
OGB
OHK
PPA
PRA
PPC
SHHT
SWOT
TCH
T/c
TS

TSKH
ThS
UBND
UNDP
UNESCO
VBARD
VBSP
VHDT
VND
WIPO
WTO

Ngân hàng Phát triển châu Á
Ban chấp hành Trung ương
Chiến lược Tăng trưởng và Giảm nghèo Toàn diện
Phát triển Lấy cộng đồng làm định hướng
Công nghiệp hoá
Chính trị quốc gia
Dân chủ cơ sở
Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhóm công tác dân tộc thiểu số
Tổng Sản phẩm Quốc nội
Giáo sư
Hà Nội
Hiện đại hoá
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Các Tổ chức phi chính phủ
Nhà xuất bản

Tổ chức Oxfam Anh
Tổ chức Oxfam Hongkong
Đánh giá nghèo đói có sự tham gia
Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân
Ủy ban Nhân dân tỉnh
Sở hữu trí tuệ
Thế mạnh, Điểm yếu, Cơ hội, Thách thức
Toàn cầu hoá
Tạp chí
Tiến sỹ
Tiến sỹ khoa học
Thạc sỹ
Uỷ ban nhân dân
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Ngân hàng Chính sách Xã hội
Văn hoá dân tộc
Đồng Việt Nam
Tổ chức sở hữu trí tuệ Liên hợp quốc.
Tổ chức Thương mại Thế giới

7

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


LỜI TỰA
Dự án nghiên cứu Tổng kết các phương pháp phát triển và tìm kiếm cơ chế nhằm nâng cao
tiếng nói của các dân tộc thiểu số do Oxfam Hongkong (OHK) tài trợ, Nhóm công tác dân

tộc thiểu số (EMWG) chủ trì và các tư vấn nghiên cứu độc lập thực hiện. Thành viên của
nhóm nghiên cứu đến từ nhiều cơ quan khác nhau: i) TS. Mai Thanh Sơn - Trưởng nhóm –
Nghiên cứu viên chính, Viện Phát triển bền vững vùng Trung Bộ; ii) TS. Vũ Thị Minh, Giảng
viên chính Trường Đại học Kinh tế quốc dân; iii) TS. Nguyễn Thị Thu Hoài, Nghiên cứu viên
Viện Xã hội học; iv) ThS. Khúc Thị Thanh Vân, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Tư
vấn về phát triển; v) CN. Nguyễn Trung Dũng, Nghiên cứu viên Viện Phát triển bền vững
vùng Tây Nguyên; và vi) Trần Thị Thanh Tuyến, Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu và
Tư vấn về phát triển.
Dự án được chia làm 2 giai đoạn: 1/ Phân tích tài liệu thứ cấp (về các chủ đề được quan tâm)
và 2/ Đánh giá tại thực địa. Với cả 2 giai đoạn, nghiên cứu đều tập trung vào tìm hiểu một số
chủ trương, chính sách của Chính phủ, các chương trình, dự án can thiệp hoạt động về lĩnh
vực giảm nghèo và phát triển cộng đồng trong những năm vừa qua. Những nội dung mà
nghiên cứu hướng đến là: i) Việc vận dụng các tri thức bản địa trong giảm nghèo và phát
triển bền vững; ii) Vấn đề dân chủ cơ sở và chuyển đổi hình thức quản lý ở các địa phương;
iii) Làm thế nào để người dân có thể đối mặt tốt nhất trước những cú sốc hay sự thay đổi lớn
do chính sách mang lại; và iv) Các vấn đề liên quan đến giới trong bối cảnh phát triển ở dân
tộc thiểu số. Thông qua việc tổng hợp, phân tích những bài học kinh nghiệm (thành công
cũng như chưa thành công) được đúc kết qua các nguồn tài liệu thứ cấp và đánh giá thực địa,
nghiên cứu sẽ xác định những vấn đề cần giải quyết trong cách tiếp cận và lập kế hoạch nên
được áp dụng trong các chương trình/dự án trong tương lai.
Sau khi khép lại giai đoạn 1 của dự án với bản Báo cáo phân tích tài liệu thứ cấp, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực tế tại 7 dân tộc ở 4 tỉnh: Đắk Nông (dân tộc Mnông và
bộ phận người Hmông di cư tự do), Nghệ An (dân tộc Thái và Khơ-mú), Lai Châu (dân tộc
Mảng và bộ phận người Hmông định cư) và Sóc Trăng (dân tộc Hoa và Khmer). Các dân tộc
được nghiên cứu thuộc những nhóm ngôn ngữ khác nhau và có mức độ hoà nhập khác nhau.
Kết quả nghiên cứu thực địa trong khuôn khổ dự án được tập hợp trong các báo cáo độc lập.
Bản báo cáo tổng hợp được viết dựa trên cơ sở của Báo cáo phân tích tài liệu thứ cấp và các
báo cáo nghiên cứu hợp phần.
Để thực hiện nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã nhận được sự tài trợ vật chất và tinh thần
của Oxfam Hongkong (OHK), sự thúc đẩy nhiệt tình của Nhóm công tác dân tộc thiểu số

(EMWG), sự ủng hộ quý báu của chính quyền và nhân dân nhiều địa phương trên cả nước.
Trước khi bản báo cáo được gửi tới OHK, nhóm nghiên cứu đã nhận được nhiều ý kiến chia
sẻ từ các nhà khoa học thuộc một số lĩnh vực liên quan. Nhân dịp này, xin trân trọng cảm ơn
sự giúp đỡ vô giá đó.
Nhóm tác giả

8

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


TÓM LƯỢC
A. Giới thiệu chung về nghiên cứu
Các chính sách dân tộc mà Đảng và Nhà nước đã ban hành trong thời kỳ đổi mới khá toàn
diện, tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Nhờ vậy,
vùng dân tộc thiểu số đã có bước phát triển quan trọng, cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được sự tăng trưởng khá; cơ sở hạ tầng
ngày càng được cải thiện, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên,
quá trình phát triển cũng bộc lộ những khó khăn, thách thức cần sớm được khắc phục: Tốc độ
tăng trưởng vùng dân tộc thiểu số tương đối nhanh song chưa vững chắc, quá trình phát triển
đã và đang nảy sinh những mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc văn hoá
riêng và xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá. Nhiều tri thức bản địa (trong sinh kế, quản lý xã
hội và đời sống tinh thần) vốn là cơ sở duy trì cuộc sống cộng đồng, cũng là các yếu tố chính
tạo nên bản sắc văn hoá tộc người, đã và đang bị mai một hoặc từng bước bị phủ nhận.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này nhằm hướng đến 2 mục tiêu chính: i) Cung cấp thông tin
cho các bên liên quan về tính phù hợp (hoặc chưa phù hợp) của quy trình hoạch định và thực
hiện các chính sách đối với dân tộc thiểu số sao cho vừa đảm bảo sự ổn định trong phát triển
bền vững, vừa bảo tồn được các giá trị văn hoá truyền thống; và ii) Đáp ứng nhu cầu thúc đẩy
đối thoại thường xuyên giữa các nhà hoạch định chính sách, chỉ đạo thực hiện chính sách ở
cấp trung ương và địa phương; giữa cộng đồng nghiên cứu và các bên liên quan để các

khuyến nghị chính sách sẽ có thêm cứ liệu khoa học và thực tiễn.
Nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn: i/Phân tích tài liệu thứ cấp; và ii/Đánh giá tại thực địa.
Các câu hỏi nghiên cứu xuyên suốt được nêu ra trong nghiên cứu là: i) Làm thế nào để duy trì
và sử dụng các kiến thức bản địa như là cơ sở cho các chương trình phát triển; ii) Làm thế
nào để tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng người dân tộc thiểu số nói lên mối quan tâm và
nhu cầu của họ trước các quan chức địa phương và công chúng; iii) Làm thế nào để cộng
đồng người dân tộc thiểu số đối phó tốt nhất với các cú sốc/sự thay đổi lớn về văn hoá và sinh
kế; iv) Làm thế nào để các cơ chế của chính phủ phù hợp với sự lãnh đạo truyền thống để
phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của cộng đồng các dân tộc thiểu số; và v) Câu hỏi tổng quát
liên quan đến giới và các chính sách phát triển là: Những nội dung của các chính sách về vai
trò giới và quan hệ quyền lực ở cấp độ gia đình và cộng đồng là gì?
Nghiên cứu được thực hiện theo các quan điểm chỉ đạo khoa học chính thức hiện nay của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh 2 nguyên tắc xuyên suốt: Thượng tôn dân tộc/quốc gia và
Khách quan khoa học, nhóm nghiên cứu luôn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Một số quan điểm nghiên cứu khác cũng được
áp dụng: Tiếp cận hệ thống cấu trúc tổng thể; tiếp cận sinh thái học văn hoá; tiếp cận đa
nguyên văn hóa; tiếp cận tương đối văn hoá và tiếp cận nhân học.
Lần đầu tiên nghiên cứu áp dụng khung logic hành động của quy trình hoạch định chính sách
đối với các dân tộc thiểu số, được xây dựng trên cơ sở theo dõi hoạt động của các nhà hoạch
định chính sách. Đồng thời, đây cũng là nghiên cứu đầu tiên áp dụng lý thuyết “Ba điểm tựa
và một chiều tác động đến chủ thể văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam” để phân tích tính
phù hợp của hệ thống mục tiêu/chỉ tiêu trong hệ thống chính sách và các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội ở cấp Trung ương cũng như các địa phương. Với khung phân tích và hệ thống
lý thuyết này, nghiên cứu mong muốn trong tương lai, việc hoạch định các chính sách dân tộc
thiểu số không chỉ đơn thuần là công việc của các chiến lược gia, các cơ quan quản lý nhà
9

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()



nước với sự tư vấn của giới nghiên cứu phát triển mà còn có sự tham gia tích cực của cả các
nhà nghiên cứu cơ bản thuộc các lĩnh vực liên quan như triết học, kinh tế - chính trị học, luật
học, nhân học, dân tộc học và văn hoá học.
B. Những phát hiện chính
1. Đảng và Nhà nước đã có những thay đổi cơ bản trong quy trình hoạch định và ban
hành chính sách dân tộc nhưng vẫn còn những khoảng trống về lý luận
Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc có vị trí chiến lược trong đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước song tư tưởng/quan điểm chỉ đạo trong việc hoạch định và thực hiện chính sách
dân tộc ở mỗi giai đoạn có sự khác nhau nhất định. Từ năm 1986 trở về trước, việc hoạch
định chính sách dân tộc luôn được làm theo hướng từ trên xuống dưới, từ Trung ương xuống
địa phương. Chỉ từ sau năm 1986, công tác hoạch định chính sách của Nhà nước mới có
những chuyển biến theo phương châm ngày càng dân chủ hơn, phương pháp ngày càng khoa
học hơn và tầm nhìn/kế hoạch ngày càng dài hạn hơn.
Các văn bản chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay đều đề cao các nguyên tắc: i) Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Đây là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo toàn
bộ quá trình nghiên cứu hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc; ii/ Chính sách
phát triển vùng đồng bào dân tộc và miền núi là một bộ phận hữu cơ của chính sách phát triển
đất nước. iii) Người dân phải là chủ thể trong thực hiện chính sách dân tộc và cần phát huy
tính chủ động, sáng tạo và nội lực của đồng bào các dân tộc; iv) Chính sách dân tộc vừa phải
mang tính toàn diện, vừa phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên, lịch sử, xã hội, văn hoá của
từng vùng, từng dân tộc; v) Tiếp cận liên - đa ngành trong hoạch định và tổ chức thực hiện
chính sách; và vi) Quán triệt quan điểm phát triển bền vững vùng dân tộc và miền núi.
Từ năm 1990 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội miền núi và hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số với các mục tiêu chính:
i) Phát triển kinh tế, xóa đói - giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc và ngăn
chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái; ii) Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức
khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học
cơ sở; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được bảo tồn
và phát triển; iii) Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực
đáp ứng được yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững

mạnh; và iv) Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở vùng dân
tộc và miền núi.
Không thể không ghi nhận tính nhân văn cũng như mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước
mong muốn mang lại cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Song cũng không vì thế có thể bỏ
qua một số vướng mắc có tính lý luận liên quan đến quan điểm, chủ trương đường lối và
chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số.
1.1. Thiếu sự bổ sung kịp thời cho cơ sở triết học về vấn đề dân tộc thiểu số
Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin được coi là nền tảng lý luận cơ sở, nhưng nhiều năm qua
không được bổ sung những nội dung cần thiết để giải quyết vấn đề dân tộc thiểu số dưới góc
độ triết học. Cùng với quá trình hội nhập, các phương pháp mới đang được áp dụng ở Việt
Nam có phần gần gũi với chủ nghĩa cộng đồng (communitarianism) hơn, chứ không chỉ dựa
hoàn toàn vào các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về mô hình nhà nước cách mạng và
chuyên chính vô sản. Các câu hỏi được nêu ra từ thực tiễn phát triển đến nay là: i/ Trong hệ
thống triết học mà Đảng và Nhà nước đang coi là nền tảng lý luận cơ sở, phạm trù/khái niệm
dân tộc thiểu số cần được quan niệm như thế nào? Và ii/ Trong hệ thống chính trị và khung
pháp lý của Nhà nước, các dân tộc thiểu số có tư cách như thế nào (là những cộng đồng có
10

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


quan hệ bình đẳng, có tiếng nói ngang hàng với người Kinh hay vẫn là những nhóm người
yếu thế, cần có sự giúp đỡ và thúc đẩy phát triển từ bên ngoài; các dân tộc thiểu số có phải là
một pháp nhân, một đối tượng của khung pháp lý và phạm vi “Quyền” của các dân tộc thiểu
số phải được xác định đến như thế nào trong khung pháp lý?...
1.2. Thiếu sự minh định cần thiết trong các khái niệm về dân tộc và bản sắc văn hoá
Chính vì không giải quyết được vấn đề “dân tộc thiểu số” dưới góc độ triết học, cho đến nay
khái niệm “dân tộc/ethnic” chưa thực sự được minh định. Thuật ngữ “Dân tộc” ở Việt Nam
được hiểu theo 2 nghĩa, Quốc gia (Nation) và tộc người (Ethnic). Các định nghĩa về dân tộc
thiểu số được đưa ra trong những năm gần đây đã không còn hoàn toàn chính xác. Việc áp

dụng các tiêu thức của Nhà nước vào việc xác minh thành phần tộc người đã dẫn đến một số
phản ứng tiêu cực của một số cộng đồng người khi tên tự gọi của họ bị phủ nhận. Do “tính
chất nước đôi” của khái niệm “dân tộc”, công tác quản lý nhà nước gặp nhiều khó khăn.
Định nghĩa “Bản sắc văn hóa” được đưa ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khoá VIII)
của BCHTW Đảng quá chung chung. Phạm trù và nội hàm của các thuật ngữ/khái niệm được
đề cập đến trong định nghĩa này đều khó minh định và không thể lượng hoá thành các chỉ
tiêu/chỉ số kế hoạch.
1.3. Thiếu sự hợp nhất hài hoà giữa quan điểm triết học, quan điểm phát triển và chính sách
phát triển
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, dân tộc là một phạm trù lịch sử. Điều ấy có nghĩa là,
đến một lúc nào đó, ranh giới giữa các dân tộc sẽ bị xoá nhoà, bản sắc văn hóa dân tộc sẽ bị
tiêu vong, thay vào đó là những yếu tố văn hóa mang tính quốc tế, tính toàn cầu. Trong khi
đó, những năm gần đây, các văn kiện của Đảng và Nhà nước lại luôn nhấn mạnh đến việc bảo
tồn các giá trị văn hóa dân tộc, coi đó là một trong những nội dung chính của quan điểm phát
triển. Vậy tương lai của các dân tộc thiểu số Việt Nam sẽ như thế nào?; Có nhất thiết phải ra
sức bảo tồn những giá trị khi biết chắc là sớm muộn gì nó cũng sẽ mất trong tương lai?
Với mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, các
chính sách cần phải hướng đến việc củng cố, bổ sung các cơ sở/điểm tựa của chủ thể văn hoá;
nhưng trên thực tế, các chính sách được vạch ra lại có tác dụng ngược lại. Tất cả các cơ sở tự
nhiên, xã hội và ngưỡng hành vi truyền thống của các dân tộc thiểu số đều bị tổn thương sâu
sắc. Vì vậy, việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số khó
có thể được coi là một nhiệm vụ khả thi. Nhiều giá trị văn hóa hiện nay chỉ tồn tại (hoặc được
lưu giữ, bảo tồn) dưới dạng “sân khấu hoá”, không gắn với đời sống tự nhiên của cộng đồng,
không thu hút được sự tham gia của người dân.
1.4. Sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý
Khung pháp lý hiện hành của Nhà nước chưa thật sự đủ mạnh để bảo vệ một cách hiệu quả
các quyền lợi cơ bản của người dân. Cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, chủ trương tái cấu
trúc dân cư, tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước và các chính sách văn hoá mới đã khiến cho
các đơn vị xã hội cơ sở truyền thống của dân tộc thiểu số bị phá vỡ hoặc biến dạng. Như vậy,
Nhà nước cho phép các dân tộc thiểu số được bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hoá của mình,

nhưng lại chưa trao cho họ quyền củng cố các cơ sở hình thành nền văn hoá đó, đồng thời
cũng chính là điểm tựa mà các chủ thể văn hoá có thể dựa vào (tự nhiên, cộng đồng thôn làng
và ngưỡng hành vi) để chống lại sự tác động tiêu cực của các yếu tố ngoại lai. Một số bộ luật
đã được ban hành có sự thiếu đồng bộ và mâu thuẫn (Luật Đất đai và Luật Dân sự), một số bộ
luật khác thiếu các điều khoản bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống hoặc tri thức bản địa
của cộng đồng (Luật Di sản văn hoá và Luật Sở hữu trí tuệ). Pháp lệnh Dân chủ cơ sở bộc lộ
nhiều thiếu sót, không xác định được đơn vị xã hội cơ sở và không có chế tài.
11

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


1.5. Một số chính sách của Trung ương và địa phương còn duy ý chí, thiếu cơ sở thực tiễn và
chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật
Quy trình hoạch định và thực hiện các chính sách ở vùng dân tộc thiểu số đã có những thay
đổi đáng kể, nhưng có những chính sách được ban hành phần nào đó dựa trên ý chí của các cơ
quan có quyền ra quyết định, thiếu cơ sở thực tế (chính sách hỗ trợ đất đai, chính sách cung
cấp dịch vụ tài chính, chủ trương hỗ trợ người nghèo tiền ăn tết năm 2009…). Một số chính
sách đã ban hành còn mang màu sắc “gia trưởng nhà nước” (cho người dân “cái mà nhà nước
có” hoặc là “cái mà nhà nước nghĩ rằng người dân cần”). Một số địa phương có biểu hiện vi
phạm đối với các quyền của công dân được quy định trong Luật Dân sự và Luật Đất đai.
1.6. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp đều thiếu mục tiêu/chỉ tiêu/chỉ số liên quan
đến bảo tồn văn hoá dân tộc
Nội dung bảo tồn các giá trị văn hoá bền vững của dân tộc không được thể hiện trong các bản
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở mọi cấp, từ Trung ương đến địa phương. Trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, các mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội đều được nêu
cụ thể với hệ thống chỉ tiêu/chỉ số/giải pháp cụ thể. Nhưng với lĩnh vực văn hoá, mọi mục tiêu
đều chỉ gắn với các loại hình dịch vụ (phát thanh - truyền hình, cung cấp sách báo, ấn phẩm,
điện ảnh, sân khấu…) hay các hoạt động văn hoá sự nghiệp (nghiên cứu, khai quật khảo cổ,
sưu tầm hiện vật, phát triển hệ thống bảo tàng…); không có bất kỳ hệ thống chỉ tiêu/chỉ

số/giải pháp khả thi cụ thể nào nhằm đạt được mục tiêu bảo tồn các giá trị văn hoá như một
thực thể sống và biến các giá trị đó thành động lực của tiến trình phát triển như chủ trương đã
được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng. Trong danh mục thống kê của Nhà nước không có
các chỉ tiêu phản ánh giá trị văn hoá truyền thống. Nhà nước không có bất cứ quy định nào về
việc phải đưa các giá trị văn hoá truyền thống vào hệ thống mục tiêu/chỉ tiêu/chỉ số kế hoạch
hàng năm. Các tri thức bản địa - cốt lõi của văn hoá truyền thống - đều không được tính đến
trong khung kế hoạch của các cấp chính quyền từ Trung ương xuống địa phương.
2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã mang lại nhiều kết quả to lớn nhưng
cũng tồn tại một số nghịch lý
Do được dành các điều kiện ưu đãi và tập trung nhiều nguồn lực, sự nghiệp phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, khắc phục những hạn chế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã mang lại
những kết quả khả quan. Tuy chưa xoá được nghèo, nhưng về cơ bản ở vùng dân tộc thiểu số
không còn hiện tượng đói lương thực; bộ mặt kết cấu hạ tầng, đời sống văn hóa, trình độ học
vấn, các điều kiện thiết yếu bảo đảm đời sống của người dân đã được cải thiện đáng kể. Song
công tác đánh giá thực địa cũng chỉ ra nhiều vấn đề tồn tại và nghịch lý
2.1. Các số liệu của tỉnh chưa phản ánh hết diễn biến nghèo ở cấp cơ sở
Quan niệm về nghèo của người dân hiện nay đã khác xa so với 5-10 năm trước. Chuẩn nghèo
mà Nhà nước đề ra hiện nay quá thấp và không phản ánh hết quan niệm của người dân về
tình trạng nghèo. “Nghèo” không còn đồng nghĩa với “đói lương thực” mà đa diện hơn, gắn
với nhiều tiêu chí ngoài thu nhập quy thành tiền như sức khoẻ, học vấn, văn hoá…
Một vấn đề nữa cũng không thể không nhắc đến, đó là có sự khác biệt lớn về tốc độ giảm
nghèo giữa các dân tộc thiểu số. Khả năng tận dụng cơ hội để giảm nghèo của các dân tộc
thiểu số thấp hơn nhiều so với người Kinh. Từ đó đã dẫn đến một hệ quả tất yếu: Sự giãn
cách về mức thu nhập/mức sống giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số. Ngay trong nội bộ
các dân tộc thiểu số, tốc độ giảm nghèo cũng rất khác nhau. Một số ít dân tộc đạt tốc độ giảm
nghèo nhanh hơn so với tốc độ chung của cả nước (như người Hoa ở Sóc Trăng); nhưng ở đa
số các dân tộc khác, tỷ lệ hộ nghèo đều cao hơn chỉ số trung bình của cả nước rất nhiều.
12

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()



2.2. Phương tiện truyền thông phổ biến hơn nhưng thông tin chưa được vận dụng để cải thiện
sinh kế
Phương tiện truyền thông và thông tin (radio, TV, đầu thu kỹ thuật số, đầu đĩa DVD, điện
thoại và Internet…) đã phổ biến ở tất cả các vùng dân tộc thiểu số, kể cả trong một số hộ
nghèo. Nhờ vậy, người dân đã cập nhật thông tin dễ dàng hơn, nhưng không phải bao giờ họ
cũng biết tiếp thu và vận dụng thông tin để cải thiện sinh kế. Đa số những người dân được
phỏng vấn đều chỉ coi các phương tiện nghe nhìn như một kênh giải trí (xem phim, nghe
nhạc…), chỉ có một số ít coi đó là một kênh học hỏi để có thêm tri thức mới (về cây trồng,
vật nuôi, các mô hình khuyến nông/khuyến lâm…).
2.3. Các chính sách của Đảng và Nhà nước chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của
người dân
Những năm qua, nhà nước đã dành một nguồn lực không nhỏ cho các chương trình, chính
sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và một số khoản trợ cấp xã hội cho người nghèo, đặc
biệt cho các nhóm dân tộc thiểu số. Bên cạnh những tác động tích cực tới nhiều hộ nghèo, đã
manh nha xuất hiện tâm lý trông chờ hưởng lợi thụ động của một số đối tượng. Nhiều hộ
nghèo thoả mãn với các khoản trợ giúp, trở nên lười lao động và bắt đầu có thái độ ỷ lại,
trông chờ vào nhà nước; thậm chí “phấn đấu” thành hộ nghèo hoặc cố xin ở lại dưới ngưỡng
nghèo để được hưởng trợ giúp. Xu hướng này được nêu lên thành một vấn đề bức xúc tại tất
cả các địa bàn nghiên cứu.
2.4. Tạo nhiều tác động không có lợi cho môi trường tự nhiên
Đối với các dân tộc thiểu số, tài nguyên tự nhiên không chỉ là đầu vào của sinh kế, là tư liệu
sản xuất mà còn là ký ức lịch sử và luôn có “tính thiêng”, được cộng đồng khai thác, quản lý
và bảo vệ chặt chẽ. Với chính sách quốc hữu hoá đất đai, tất cả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đều được đặt dưới quyền quản lý của nhà nước, quyền quản lý tài nguyên của các thôn
làng bị thu hẹp hoặc tước bỏ hoàn toàn. Bên cạnh đó, luật tục, các thông lệ xã hội và tri thức
cộng đồng về quản lý tài nguyên tự nhiên bị loại bỏ. Các chính sách văn hoá mới cũng góp
phần không nhỏ vào quá trình “giải thiêng” đối với tự nhiên. Vì vậy, người dân đã không còn
ý thức bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên; rừng bị chặt phá/khai thác bừa bãi, diện tích

che phủ suy giảm đáng kể.
2.5. Xu hướng phát triển đẩy nhanh quá trình mai một của văn hóa và chuẩn mực/tổ chức xã
hội truyền thống
Quá trình tiếp biến những năm gần đây không chỉ làm thay đổi phương thức sinh kế, mà còn
khiến cho các yếu tố văn hoá vật chất như nhà cửa, trang phục của người dân các dân tộc
thiểu số bị ảnh hưởng sâu sắc. Tình trạng pha trộn giữa cũ và mới phổ biến ở mọi nơi. Những
giá trị văn hoá phi vật thể cũng bị mai một nhiều. Các tiêu chí chuẩn mực xã hội được quy
định trong luật tục, thể hiện qua thông lệ xã hội hay dư luận cộng đồng không còn được quan
tâm; sức ép của cộng đồng ít có tác động đến hành vi ứng xử của mỗi thành viên. Nhiều hoạt
động văn hoá tâm linh và loại hình văn nghệ dân gian (lễ hội gầu tào của người Hmông; cồng
chiêng, kể khan của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên; hạn khuống, múa xoè của người Thái
Tây Bắc…) đã không còn được duy trì trong đời sống cộng đồng.
2.6. Tạo tâm lý so bì giữa các đối tượng được hưởng và không được hưởng chính sách
Chính sách của Nhà nước không phải bao giờ cũng được áp dụng thống nhất cho tất cả các
đối tượng dân tộc thiểu số. Mặt khác, trong cùng một dân tộc, nhưng thuộc những đối tượng
khác nhau cũng có mức thụ hưởng chính sách khác nhau. Người nghèo thường được nhận
nhiều ưu tiên của nhà nước hơn so với các đối tượng còn lại. Khoảng cách giữa nhóm nghèo
và cận nghèo thường rất mong manh. Nhưng nếu là người nghèo, sẽ nhận được rất nhiều sự
13

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


trợ giúp của nhà nước, còn các hộ cận nghèo hầu như không được hỗ trợ gì. Vì vậy, việc nảy
sinh tâm lý so bì giữa các hộ dân là khó tránh khỏi.
3. Những vấn đề về tri thức bản địa
3.1. Tri thức bản địa là cơ sở đảm bảo đời sống của các dân tộc thiểu số nhưng hiện tại đang
chịu nhiều thách thức
Tri thức bản địa là cơ sở để đảm bảo đời sống người dân các dân tộc thiểu số, bình ổn xã hội
và phát triển trong trường kỳ lịch sử. Đó cũng chính là những yếu tố cốt lõi của văn hóa

truyền thống của mỗi cộng đồng người. Các tri thức bản địa biểu hiện ở những khía cạnh
chính như kỹ thuật, quản lý cộng đồng và các giá trị tinh thần bền vững.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, các tri thức bản địa của người dân các dân tộc thiểu
số đang phải đối mặt với nhiều thử thách: i) Không đủ ứng phó với sự thay đổi quá nhanh của
điều kiện sống; ii) Giá trị của tri thức bản địa chưa được nhận thức và đánh giá đầy đủ ở các
cơ quan có quyền ra quyết định; iii) Đối mặt với nguy cơ mai một; iv) Người dân không được
bảo hộ về Quyền sở hữu trí tuệ.
3.2. Nguyên nhân chủ quan của những thách thức đối với tri thức bản địa
Những thách thức mà hệ thống tri thức bản địa của các dân tộc thiểu số đang phải đối mặt bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khách quan, không thể không kể đến mức tăng
dân số tự nhiên, sự biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến những thất thường của thời tiết, quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá. Về chủ quan, những nguyên nhân có
tính chất quyết định lại bắt nguồn từ những chính sách xã hội của Nhà nước:
i) Chính sách mới về quản lý đất đai và việc sắp xếp lại lao động với quy mô lớn của Nhà
nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XX đã không chỉ khiến cho không gian sinh tồn của người dân
các dân tộc thiểu số bị thu hẹp mà còn đẩy họ ra khỏi môi trường tự nhiên, không gian văn
hóa - xã hội quen thuộc.
ii) Chính sách quản lý nhà nước những năm qua đã trực tiếp hay gián tiếp phủ nhận các thiết
chế truyền thống, khiến cho cấu trúc tổ chức thôn làng bị phá vỡ, tính cộng đồng bị tổn
thương, các thông lệ và chuẩn mực xã hội thay đổi. Nhà nước coi các thể chế truyền thống là
phi quan phương và dành nhiều nỗ lực để tạo ra những thay đổi xã hội. Sự áp đặt các tiêu chí
của người Kinh ở miền xuôi lên miền núi và vùng dân tộc thiểu số đã phá vỡ các cơ cấu
truyền thống, taọ nên sự bất bình đẳng trong văn hóa.
iii) Đức tin của các cộng đồng người bị giải thiêng và áp đặt. Một trong những kênh thể hiện
rất tập trung tâm thức dân tộc chính là đời sống tinh thần, trong đó có yếu tố tín ngưỡng. Các
dân tộc thiểu số Việt Nam đều phổ biến nhiều hình thức tôn giáo sơ khai và tin vào quan
niệm vạn vật hữu linh. Niềm tin tôn giáo phản ánh vũ trụ quan và triết luận nhân sinh của mỗi
cộng đồng. Đó chính là phần hồn của các thực thể văn hóa mỗi dân tộc, mỗi thôn làng. Các lễ
hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam là một cấu trúc văn hóa dân gian tổng thể”, không
chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn thể hiện rất rõ các đặc trưng văn hóa của mỗi tộc

người. Nhưng cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa được tiến hành trong những những năm
nửa sau thế kỷ XX đã từng bước giải thiêng đức tin và xoá bỏ những nỗi ám ảnh lâu đời, vốn
là điểm tựa vô hình nhưng rất quan trọng của các chủ thể văn hóa.
iv) Hầu hết các chính sách đã được ban hành và thực hiện trong giai đoạn trước năm 1986
đều theo kiếu áp đặt/can thiệp trực tiếp, tác động thẳng đến các chủ thể văn hóa, không tuân
theo quy luật thẩm thấu và chọn lọc qua cộng đồng, không cho phép người dân được lựa
chọn. Với các chính sách như vậy, người dân các dân tộc thiểu số được trang bị các tri thức
mới, kỹ năng mới; các quan hệ được mở ra theo nhiều chiều, tầm với ngày càng rộng; lối
14

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


sống của họ ngày càng đa dạng hơn, văn hóa tiêu dùng cũng thay đổi căn bản với nhiều tiện
ích hơn. Nhưng mặt khác, sự can thiệp của Nhà nước cũng đẩy các chủ thể văn hóa ngày
càng xa rời các cơ sở/điểm tựa truyền thống (tự nhiên, xã hội và ngưỡng hành vi). Quá trình
này diễn ra nhanh, mạnh, tạo nên sự đột biến/đứt gãy/đổ vỡ văn hóa ở nhiều dân tộc.
4. Những vấn đề về sự tham gia
Trước khi chính quyền dân chủ nhân dân được xác lập, thôn làng là tổ chức xã hội cao nhất ở
đa số các dân tộc thiểu số Việt Nam. Sự tham gia của người dân trong mỗi thôn làng có sự
kết hợp hài hoà giữa hình thức dân chủ đại diện với hình thức toàn dân (thực hiện, giám sát,
điều chỉnh). Quá trình tham gia của người dân trong xã hội truyền thống mang tính tự giác
cao bởi đó là một trong những quyền lợi sát sườn, đồng thời cũng là một nghĩa vụ bắt buộc
gắn với những nỗi ám ảnh thường xuyên. Với tư cách là một đơn vị xã hội cơ sở độc lập, các
quá trình kinh tế - xã hội của mỗi thôn làng luôn do chính những người dân trong thôn làng
quyết định, không có sự áp đặt khuôn mẫu hay can thiệp, cũng không có sự hỗ trợ từ bên
ngoài. Trong bối cảnh đó, tham gia các công việc của thôn làng vừa đồng nghĩa với quá trình
cộng sinh, vừa như một hình thức thoả mãn nhu cầu cộng cảm để từ đó khơi nguồn cho sự
sáng tạo nên những giá trị tinh thần. Thông qua việc tham gia công việc chung của thôn làng,
mỗi người đều cảm thấy được phần nào giải phóng khỏi những nỗi ám ảnh và cảm thấy tự tin

hơn. Đồng thời, tham gia công việc của thôn làng còn là quá trình chia sẻ, trao truyền các trải
nghiệm/kinh nghiệm giữa các thành viên, các thế hệ trong cộng đồng. Đó chính là môi trường
dung dưỡng, kế thừa, nâng cao hơn nữa năng lực của các tri thức bản địa ở mỗi cộng đồng.
Ngày nay, mặc dù đã có Pháp lệnh Dân chủ cơ sở nhưng trong thực tế, sự tham gia của người
dân ở vùng dân tộc thiểu số hiện có nhiều vấn đề tồn tại: i) Có sự khác biệt ở những nhóm
dân tộc khác nhau, nhất là với các dân tộc tương đối cách biệt về địa lý và ngôn ngữ; ii) Nặng
tính hình thức, ít có hiệu quả thực tế; và iii) Ngay ở những nơi được triển khai tương đối tốt,
vẫn chưa lôi kéo được sự tham gia của những người nghèo, những đối tượng cá biệt.
Những trở ngại đối với việc người dân tham gia vào quá trình ra quyết định được bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân:
i) Trong khung pháp lý, dùng thuật ngữ “dân chủ ở cơ sở” để đồng nhất với “dân chủ ở
xã/phường/thị trấn” lâu nay là chưa đúng với mục đích yêu cầu của quá trình dân chủ hoá
nông thôn. Các tổ chức xã hội cơ sở được hình thành trên một cộng đồng dân cư, cộng đồng
lãnh thổ bền vững, dưới cấp này không còn một cấp nào khác ở nông thôn hiện nay chính là
thôn làng. Do đó, nếu dân chủ ở cơ sở là dân chủ trực tiếp thì thuật ngữ “Dân chủ ở cơ sở”
cần phải được hiểu là quá trình mà người dân làm chủ trước hết từ thôn làng của mình chứ
không phải ở cấp xã (phường, thị trấn). Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết khi các thôn
làng (bản, buôn, ấp, phum/sóc) được định danh và có khung pháp lý phù hợp.
ii) Năng lực cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế cũng là một trong những trở ngại chính và là vấn
đề nóng bỏng nhất hiện nay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều cán bộ HĐND và
UBND xã không được đào tạo về chính trị, về chuyên môn hoặc quản lý nhà nước. Họ hoạt
động dựa vào kinh nghiệm và uy tín cá nhân. Hầu hết trưởng thôn ở các dân tộc thiểu số cũng
mới chỉ dừng ở mức độ lớp 4 lớp 5, không lĩnh hội được tinh thần nội dung Dân chủ cơ sở để
truyền đạt lại cho người dân.
iii) Rào cản ngôn ngữ và các truyền thống xã hội cũng là một trong những nguyên nhân cơ
bản khiến cho việc thực hiện Dân chủ cơ sở gặp nhiều khó khăn và nguyện vọng của người
dân không thể đến được với chính quyền. Mặt khác, theo truyền thống của tất cả các dân tộc
thiểu số, nam giới bao giờ cũng là người đảm nhiệm việc giao tiếp bên ngoài còn phụ nữ chỉ
lo công việc nội trợ và gia đình mà thôi. Điều này xảy ra cả với các cộng đồng theo chế độ
15


Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


mẫu hệ như người Chăm, người Raglai hay Ê-đê. Phụ nữ chỉ tham dự các cuộc họp khi người
đàn ông trong gia đình đi vắng hoặc chết.
iv) Thiếu các cơ chế và hình thức phù hợp để người dân tham gia. Những hình thức tuyên
truyền và kêu gọi người dân tham gia vào quá trình Dân chủ cơ sở hiện nay chủ yếu là họp
dân (ở quy mô thôn làng), tiếp xúc cử tri, dùng loa phóng thanh và các phương tiện thông tin
đại chúng (TV, radio). Mỗi hình thức đều có các ưu và nhược điểm nhất định nhưng nhìn
chung đều mang tính chất một chiều, ít có tính phản hồi/phản biện.
v) Các tổ chức hội đoàn quần chúng (Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên…) chưa phát huy được vai trò xã hội và hoạt động kém hiệu quả.
vi) Người dân ít/hoặc không tham gia vì họ đã trở nên thiếu tự tin vào chính bản thân mình và
cảm thấy bị phân biệt đối xử. Họ vốn quen chia sẻ với những người đồng tộc, những người
mà họ tin cậy chứ không phải với những người đến từ các cộng đồng bên ngoài. Họ vốn suy
nghĩ dựa trên sự quan tâm đối với các lợi ích thiết thực của bản thân, gắn với cộng đồng,
được luật tục và thiết chế truyền thống bảo vệ chứ không phải sự áp đặt từ thể chế khác. Vì
thế, họ lúng túng, bối rối trước sự thay đổi đột ngột trong các phương thức quản lý xã hội mới
đối với các nguồn lực tự nhiên, đối với việc luật pháp thay thế luật tục, đối với thể chế mới
mà ở đó các vị trí xã hội truyền thống và người già không còn giữ vai trò quyết định…. Bên
cạnh đó, không thể không kể đến thái độ kỳ thị của những người đến từ ngoài cộng đồng.
Thực tế cho thấy, thái độ phân biệt đối xử giữa các dân tộc là hiện tượng có thật, tuỳ vùng,
tuỳ bối cảnh quan hệ mà những biểu hiện có thể mang màu sắc và mức độ khác nhau. Không
chỉ có sự phân biệt giữa người Kinh với người dân tộc thiểu số, mà giữa các dân tộc thiểu số
với nhau cũng có sự phân biệt. Tâm lý/tư tưởng lấy bản thân và cộng đồng tộc người mình
làm trung tâm tương đối phổ biến là nguyên nhân chính dẫn đến thái độ kỳ thị biểu hiện trong
ngôn ngữ và hành vi hàng ngày.
5. Tình trạng số văn hoá và các bối cảnh tổn thương mới
5.1. Khái niệm sốc văn hoá

Khái niệm “Sốc”, không phải dưới góc độ sinh học mà dưới góc độ kinh tế - văn hoá - xã hội,
hiện nay thường được dùng để chỉ trạng thái lo lắng, bất an, rối loạn, bối rối, mất phương
hướng của một cá nhân hay cộng đồng trước các tác động của tự nhiên (động đất, thiên tai,
bão lũ…) hay do con người gây ra (chiến tranh, sự xâm lăng, sự áp đặt văn hoá - lối sống…
của quốc gia này đối với quốc gia khác, cộng đồng này lên cộng đồng khác, cá nhân này lên
cá nhân khác). Một trong những hiệu ứng không mong đợi do việc thực hiện các chính sách
của Đảng và Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số chính là hiện tượng sốc văn hóa và sự phát
sinh những bối cảnh tổn thương mới. Hiệu ứng đó có thể để lại những hậu quả lâu dài, rất khó
khắc phục. Đồng thời, việc khắc phục các bối cảnh tổn thương ở cộng đồng này lại có thể tạo
nên những bối cảnh tổn thương mới ở những cộng đồng khác.
5.2. Những tác nhân gây sốc hay tạo ra bối cảnh tổn thương của chính sách
i) Tạo bước chuyển đột ngột về điều kiện sinh thái nhân văn: Trường hợp này từng xảy ra
trong quá trình vận động người dân các dân tộc thiểu số đang du canh du cư ở các khu vực
núi cao và núi giữa xuống núi định cư; hoặc trong các chương trình tái định cư bắt buộc để
xây dựng các công trình thuỷ điện - thuỷ lợi. Đa số các trường hợp này thường bị điều
chuyển đến những vùng đất mới mà ở đó các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thuỷ văn, thảm
thực vật…) tương đối xa lạ, không thể áp dụng các kinh nghiệm/tri thức truyền thống để mưu
sinh và ổn định cuộc sống.
ii) Tạo bước chuyển đột ngột về quyền tiếp cận tài nguyên: Với chính sách đất đai mới,
quyền quản lý tài nguyên của các thôn làng bị thu hẹp, người dân không còn được tự do khai
16

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


thác các nguồn tài nguyên tự nhiên để thực hiện các sinh kế của mình. Trong bối cảnh nền
kinh tế sản xuất chưa kịp chuyển đổi theo hướng chuyên canh, thâm canh, các sinh kế còn lệ
thuộc nhiều vào tự nhiên, người dân không khỏi bối rối
iii) Tạo bước chuyển đột ngột trong cơ cấu kinh tế và phương thức canh tác: Các cơ cấu kinh
tế truyền thống luôn bám sát vào tự nhiên, vào kinh nghiệm và khả năng tự điều chỉnh của

cộng đồng. Các chủ trương chính sách của nhà nước trong mấy chục năm qua đã và đang tác
động đến tận gốc rễ của cơ cấu kinh tế này, nhằm đưa chúng ra khỏi tình trạng khép kín, tăng
năng lực sản xuất và hạn chế vai trò của tước đoạt tự nhiên. Quá trình này diễn ra với nhiều
biện pháp đồng bộ: Tổ chức lại sản xuất, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ
khuyến nông, đầu tư kỹ thuật… Tuy nhiên, do giới hạn về ngôn ngữ, tập quán, thói quen lâu
đời của người dân… không phải bao giờ những nỗ lực của nhà nước cũng mang lại hiệu quả
như mong đợi. Mặt khác, do ở một số địa phương, công tác chuẩn bị chưa được thực hiện chu
đáo, người dân thiếu thông tin, nên nhận thức của họ không theo kịp diễn biến của tình hình.
Mặt khác, các tập quán canh tác cũ đã được hình thành từ rất lâu đời, việc thay đổi không thể
chỉ bằng các văn bản chủ trương, chính sách. Nó đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về nhận
thức, tri thức và cả về vật chất cho người dân
iv) Tạo bước chuyển đột ngột về lối sống: Các thôn làng của người dân tộc thiểu số xưa được
hình thành ít nhiều mang tính tự phát. Nếp sống của mỗi thôn làng được duy trì dựa trên sự
thoả thuận, hợp tác giữa các thành viên trong công xã. Ý chí, kết quả của sự thỏa thuận đó
được thể hiện tập trung trong các bộ luật bất thành văn vẫn được gọi chung là “luật tục”. Với
các cuộc vận động hạ sơn hay các chủ trương tái định cư bắt buộc, các thôn làng cổ truyền
gần như đã bị phá vỡ về cơ cấu và từ trên cơ sở của các mảnh vỡ đó, đã hình thành nên các
thôn làng mới không theo mong muốn, thói quen và tập quán mưu sinh của người dân. Một
xu thế thay đổi lối sống trong những năm gần đây gắn với quá trình đô thị hoá đang cũng
diễn ra ngày một mạnh mẽ ở tất cả các vùng dân tộc thiểu số. Bước chuyển đột ngột từ nông
dân/nông thôn sang thành cư dân thành thị khiến cho nhiều người bị sốc. Các thói quen gắn
với không gian thoáng đãng của đồng ruộng, vườn ao (đôi khi có phần tuỳ tiện và cẩu thả)
của người nông dân không phải một sớm một chiều có thể thay đổi được.
v) Tạo bước chuyển đột ngột trong cơ chế quản lý xã hội: Đối với đa số các dân tộc thiểu số,
tổ chức xã hội truyền thống cao nhất là buôn, sóc, bản, làng (gọi chung là thôn làng), dựa trên
cơ sở của bộ máy tự quản được hình thành do dân cử với các tiêu chí quan trọng nhất là tuổi
tác, kinh nghiệm và uy tín. Cơ sở vận hành của các thể chế tự quản thôn làng chính là luật
tục, các thông lệ và cả những ngưỡng hành vi. Khi thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, các yếu
tố văn hoá truyền thống trong quản lý cộng đồng thôn làng đã không được bảo lưu. Các
nguyên tắc quản lý xã hội đã và đang thay đổi tận cùng gốc rễ. Vốn quen với cuộc sống tự

quản, có quyền tự do tiếp cận các nguồn tài nguyên để thực hành sinh kế, mọi hành vi ứng xử
đều tuân theo các quy định của luật tục được để lại từ nhiều đời, không phải người dân nào
cũng dễ dàng thích ứng được với hệ thống pháp luật nhà nước. Thêm vào đó, sự bất đồng
ngôn ngữ cũng đem đến cho họ những trở ngại rất lớn trong việc nhận biết cơ cấu, vai trò của
từng vị trí trong thể chế mới, các quy định mới. Chính vì thế, không ít người dân tỏ ra bối rối
trước sự thay đổi này.
vi) Sức ép của kinh tế thị trường và văn hoá tiêu dùng mới: Chỉ trong khoảng thời gian ngắn,
người dân các dân tộc thiểu số đã ít nhất phải đối mặt với những sự thay đổi lớn trong cơ cấu
tổ chức quản lý kinh tế. Họ thực sự bị choáng trước 2 thách thức rất lớn: 1/ Nền kinh tế mà
họ đang tham dự không còn mang tính chất khép kín, tự cấp tự túc như xưa nữa. Muốn cải
thiện nâng cao được đời sống, hay ít nhất là cũng thoát cảnh nghèo đói, không thể duy trì các
truyền thống cũ; và 2/ Sự xuất hiện của các tiện ích mới đã làm thay đổi tận gốc rễ văn hoá
tiêu dùng của người dân vốn chủ yếu dựa vào các sản phẩm nông nghiệp tại chỗ và sản vật tự
17

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


nhiên. Điện thắp sáng, các phương tiện đi lại (xe máy, xe đạp), nghe nhìn (Radio, TV, đầu
VIDEO, đầu đĩa), các mặt hàng nhu yếu phẩm công nghiệp (xà phòng, thuốc đánh răng, bánh
kẹo, mỳ ăn liền, thuốc lá điếu, rượu bia....) đã khiến cho người dân choáng ngợp, nhất là đối
với lớp trẻ.
5.3. Diễn biến sau sốc và bối cảnh bị tổn thương
i) Sự thay đổi các chuẩn mực xã hội: Bên cạnh tác động tích cực, các chính sách can thiệp
Nhà nước còn dẫn đến sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và làm biến dạng một số giá trị văn
hoá truyền thống. Mỗi dân tộc, mỗi thôn làng đều có các quan niệm, các tiêu chí/chuẩn mực
khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, ứng xử, đạo đức… được quy định trong
luật tục, trong gia quy của dòng họ hay trong các thông lệ, cũng có thể ẩn tàng trong suy
nghĩ, tâm thức của từng lớp người. Trong thể chế xã hội mới, phần lớn các chuẩn mực xã hội
cũ bị phủ nhận, văn hoá truyền thống bị đổ vỡ, đồng nghĩa với việc mất đi sức đề kháng trước

ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, mất đi các thang giá trị, chuẩn mực đạo đức và phương
pháp giáo dục truyền thống. Đó cũng là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự “đứt gãy” văn hóa,
suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên dân tộc thiểu số hiện nay.
ii) Các ngôn ngữ hành vi, xung đột và bạo loạn: Ngôn ngữ hành vi là hình thức phản ứng một
cách tiêu cực của người dân trước các thay đổi của bối cảnh xã hội mới. Khi không thể cất
lên tiếng nói của mình, người dân đã phản hồi bằng chính những hành động trái ngược với
các quy định chung. Các ngôn ngữ hành vi mang tính tự phát và khá phổ biến ở tất cả các
vùng dân tộc thiểu số. Có rất nhiều cách thức biểu hiện khác nhau của ngôn ngữ hành vi. Đó
có thể là nạn uống rượu tràn lan, là sự bất hợp tác của một bộ phận dân chúng đối với chính
quyền cơ sở, là sự hình thành các nhóm xã hội phi quan phương, là việc âm thầm trở lại với
những giá trị và phương thức sinh nhai cũ… Bên cạnh các ngôn ngữ hành vi, còn có những
mâu thuẫn/xung đột xã hội trong mọi lĩnh vực (sở hữu, kinh tế, chính trị, tôn giáo - tín
ngưỡng…), với nhiều hình thức (ẩn tàng, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, bạo loạn…)
và quy mô khác nhau.
iii) Phân cực xã hội và sự hình thành các chủ thể văn hóa mới xa rời truyền thống: Xã hội
truyền thống các dân tộc thiểu số vốn mang tính cộng đồng cao, giữa các thành viên dễ dàng
tìm kiếm sự cảm thông, chia sẻ. Ở nhiều dân tộc, cho đến trước ngày chính quyền cách mạng
được thiết lập còn chưa có sự phân hoá giai cấp; sự phân hoá giàu nghèo cũng chỉ có tính
chất tương đối/ước lệ. Việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước đã nhanh
chóng phá vỡ các đặc điểm đó, dẫn đến sự phân cực và hình thành những nhóm xã hội mới
chủ yếu dựa trên quan hệ lợi ích, có sự khác biệt đáng kể trong khả năng tiếp cận các nguồn
lực (cả tự nhiên, xã hội và tài chính), các dịch vụ công và điều tất yếu dẫn đến là sự khác biệt
trong thu nhập và mức sống. Trên cơ sở đó, các chủ thể văn hóa hiện nay đã và đang bị biến
dạng, xa rời các điểm tựa và tiêu chí truyền thống.
6. Một số kiến nghị và giải pháp
6.1. Những giải pháp chung
i) Giải quyết những vấn đề cơ bản trong lý luận và hành lang pháp lý liên quan đến dân tộc
thiểu số trong bối cảnh mới: Hội đồng lý luận Trung ương cần tổ chức thực hiện các nghiên
cứu cơ bản để minh định vấn đề dân tộc thiểu số dưới góc độ triết học, bổ sung vào hệ thống
lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc/ethnic trong mối

quan hệ với dân tộc/Nation. Trên cơ sở bổ sung các quan điểm lý luận, Quốc hội cũng cần có
sự tu chỉnh một số bộ luật cho chặt chẽ hơn, nhất là các bộ luật liên quan đến lĩnh vực xã hội
và văn hoá. Quốc hội cần sớm ban hành Luật Kế hoạch, trong đó quy định rõ các mục
tiêu/chỉ tiêu/chỉ số liên quan đến việc bảo tồn văn hoá các dân tộc; chỉ đạo ngành thống kê
lượng hoá các chỉ tiêu/chỉ số trong mục tiêu bảo tồn văn hoá để phục vụ công tác lập kế
18

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


hoạch của các cấp nhà nước. Mặt khác, Quốc hội cũng cần có sự bổ sung cần thiết để Pháp
lệnh Dân chủ cơ sở dễ vận dụng và có thể đạt hiệu quả như mong đợi; định dạng cụ thể cho
cấp thôn làng để khai thông những vướng mắc hiện nay đang tồn tại trong quá trình thực hiện
dân chủ cơ sở.
ii) Tăng cường sự tham gia và chất lượng tham gia của người dân nhằm thực thi tốt hơn Pháp
lệnh Dân chủ cơ sở. Đảng và Nhà nước cần đẩy nhanh hơn nữa sự phân cấp/phân quyền, nhất
là ở cấp xã; đồng thời, cần có chính sách tài chính đầy đủ cho việc huy động người dân tham
gia. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cần tuân thủ chặt chẽ quy trình “Phát triển theo định
hướng cộng đồng”, có biện pháp huy động sự tham gia của nhiều bên. Muốn vậy, cần thực
hiện nhiều giải pháp đồng bộ: Tăng tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong các cơ quan
nhà nước ở địa phương; đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm khắc phục các rào
cản về trình độ học vấn, tình trạng thiếu thông tin và cả thái độ tự ti, thờ ơ bất hợp tác của
người dân. Cần tăng cường công tác theo dõi/giám sát và cải tiến cơ chế phản hồi thông tin
nhằm minh bạch hoá tất cả các quá trình kinh tế - xã hội ở địa phương; giảm thiểu ảnh hưởng
của quan hệ họ hàng và các nhóm xã hội phi quan phương đến quá trình ra quyết định ở địa
phương. Muốn vậy, ngoài việc kiện toàn cơ cấu tổ chức hành pháp và tư pháp, còn cần tăng
cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức Hội/Đoàn (mà về nguyên tắc là có tính độc lập với
chính quyền) thông qua việc bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, tập huấn nâng
cao năng lực và có chính sách đãi ngộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ.
iii) Chú ý đến tính đặc thù của từng dân tộc và các đặc trưng văn hoá vùng: Văn hoá của mỗi

dân tộc đều có các đặc trưng riêng, từ lịch sử hình thành, diễn trình phát triển đến hiện trạng
và xu thế tương lai. Chỉ khi nào hiểu rõ được tâm lý của các dân tộc thiểu số thể hiện qua nền
văn hoá của họ, mới có thể dễ dàng đưa các chủ trương/chính sách xuống mà không sợ tạo
nên các cú sốc hay làm tổn thương môi trường xã hội vốn có của họ và giảm thiểu đến mức
tối đa các hiệu ứng không mong đợi. Vì thế, trong việc đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội
hay hiện trạng của các vùng dự án (chính phủ và phi chính phủ) cần chú trọng tìm hiểu các
yếu tố văn hoá, tâm lý tộc người trước khi đề xuất kế hoạch khả thi. Hơn nữa, phát triển vùng
dân tộc thiểu số không thể không tính đến các tri thức bản địa phù hợp, coi đó là một trong
những ưu tiên hoặc lợi thế so sánh để lập kế hoạch cho tương lai.
Không chỉ có các đặc trưng văn hoá tộc người, văn hoá Việt Nam còn là sự thống nhất của
các tiểu vùng văn hoá - những dạng thức mang tính chất liên văn hoá ở các tiểu vùng lãnh thổ
có sinh thái khác nhau. Văn hoá vùng là kết quả của quá trình lịch sử lâu dài, những đặc
trưng của nó đã trở thành truyền thống khá ổn định, truyền từ đời này sang đời khác và luôn
giữ vai trò là tảng nền cho sự phát triển xã hội của địa phương. Các truyền thống đó phần
nhiều còn phù hợp và giữ vai trò tích cực trong sự phát triển xã hội hiện nay. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cũng không phải không có những mặt hạn chế, lỗi thời, thậm chí trở thành vật cản
cho sự phát triển xã hội. Do vậy, việc nhận thức văn hoá vùng, các truyền thống văn hoá địa
phương có ý nghĩa thiết thực cho việc định hướng phát triển trong hiện tại và tương lai của
mỗi vùng, mỗi địa phương. Các chủ trương, chính sách chung, khi được hoạch định và triển
khai cần tính đến yếu tố đặc thù của mỗi vùng hay tiểu vùng văn hoá để có kế hoạch tương
thích và cách tiếp cận hợp lý.
iv) Cần tuân thủ các quy trình theo hướng cộng đồng: Phát triển lấy cộng đồng làm định
hướng cũng có nghĩa là sẽ phải xây dựng tốt “quan hệ đối tác” giữa các bên tham gia. Nhà tài
trợ (Chính phủ và các NGO) không chỉ có các động thái tăng cường công tác tài chính mà
còn cần đẩy mạnh các tổ chức cộng đồng có trách nhiệm và thu hút được sự tham gia rộng rãi
của người dân. Cộng đồng cần được nhận sự hỗ trợ tham gia qua việc tạo điều kiện tiếp cận
thông tin, cần được tạo môi trường thuận lợi qua sự gắn kết giữa các tổ chức quan phương và
phi quan phương. Thay vì hoạch định chính sách và lập kế hoạch dựa vào sự phán đoán và ý
19


Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


tưởng chủ quan của một bộ phận có quyền ra quyết định, cần có sự tham gia của các nhà
khoa học, các tư vấn chính sách và tổng hợp ý kiến/nguyện vọng của người dân. Để đạt được
điều đó, người dân các dân tộc thiểu số cần tham gia vào các công đoạn: i/ Khảo sát, đánh
giá; ii/ Xây dựng chính sách; iii/ Tiếp cận/chia sẻ và phản hồi thông tin; iv/ Xây dựng kế
hoạch hành động và khung theo dõi/giám sát/đánh giá; v/ Cùng hành động và chịu trách
nhiệm đối với các chương trình/chính sách; vi/ Theo dõi/giám sát và điều chỉnh chính sách;
vii/ Phân chia việc hưởng lợi từ các chương trình/chính sách mà nhà nước đầu tư thực hiện.
v) Nâng cao năng lực thực hành ở địa phương: Những bất cập về năng lực của cán bộ cần
sớm được khắc phục để thoả mãn nhu cầu của phát triển. Đây cũng là một trong những điều
kiện đảm bảo cho người dân được hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề đó, trong những năm qua, các dự án tài trợ của các tổ chức phi
chính phủ và các nhà tài trợ khác đã rút ra nhiều kinh nghiệm về phương pháp và nội dung
đào tạo, xây dựng năng lực cho cán bộ xã, thôn, cán bộ khuyến nông, lãnh đạo các tổ chức
của nông dân. Thế nhưng hầu hết các hoạt động này vẫn có xu hướng thiên về tổ chức đào
tạo theo hợp đồng để thoả mãn nhu cầu trước mắt chứ không giải quyết vấn đề cơ bản và lâu
dài là làm thế nào để tăng cường năng lực quản lý và kỹ thuật một cách bền vững ở cấp xã và
thôn bản. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần mở rộng khuôn khổ hệ thống đào tạo
chính thức, thông qua các trường chính trị cấp tỉnh và cấp huyện; đa dạng hoá các hình thức
đào tạo, đối tượng đào tạo; đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp truyền đạt cho phù
hợp với yêu cầu thực tiễn và trình độ tiếp thu của các học viên.
vi) Cần chú ý đến năng lực tiếp nhận của người dân: Một mặt, Chính phủ vừa phải tìm các
biện pháp nâng cao học vấn thông qua các chương trình quốc gia về giáo dục, đẩy mạnh công
tác đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, coi đó là mục tiêu, cũng là giải pháp lâu dài để
phục vụ phát triển bền vững. Nhưng mặt khác, cũng cần tìm ra các giải pháp trước mắt, nhằm
đưa các chính sách về với người dân một cách dễ hiểu nhất và kéo họ tham gia vào các
chương trình, dự án cụ thể. Có thể tham vấn những đề xuất mà nhóm nghiên cứu ghi nhận
được từ các địa phương: i) Tăng cường đội ngũ cán bộ cấp huyện và xã là người dân tộc thiểu

số để tối đa hoá khả năng giao tiếp với người dân; ii) Khuyến khích các cán bộ là người Kinh
công tác ở vùng dân tộc thiểu số học tiếng dân tộc, coi đó là một trong những điều kiện để đề
bạt/xét nâng ngạch lương; iii) Đổi mới phương pháp và hình thức tập huấn, tuyên truyền ở
vùng dân tộc thiểu số; thay vì các bài giảng mang tính kinh viện, có phần giáo điều, nên tăng
cường phương thức thị phạm, cầm tay chỉ việc; thay vì những tập tài liệu dày dặn có rất nhiều
chữ, cần bổ sung các hình thức tài liệu hình vẽ, tranh ảnh, panô/áp phích.
vii) Tăng cường công tác theo dõi, giám sát: Công tác theo dõi, giám sát ở các địa bàn tham
vấn hiện còn rất nhiều bất cập, chưa đạt được kết quả như mong đợi và chưa đáp ứng được sự
kỳ vọng của nhân dân. Từ những thách thức và nguyên nhân đã được nêu ở phần trên, những
giải pháp chính cần được xem xét để nâng cao hiệu quả hoạt động và tác dụng của công tác
theo dõi/giám sát là: 1/ Sớm ban hành quy chế, quy trình nhằm tăng cường sự phối hợp của
các bên tham gia; 2/ Tổ chức các lớp tập huấn, các chương trình đào tạo phù hợp nhằm nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia công tác theo dõi/giám sát; 3/ Xử lý kịp thời,
nghiêm minh các trường hợp sai phạm được phát hiện trong quá trình theo dõi/giám sát; 4/
Có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với các cán bộ tham gia theo dõi/giám sát; 5/ Cải tiến các
hình thức, phương pháp truyền tin để tăng khả năng giám sát của các cơ quan chuyên môn;và
6/ Tăng cường công tác chỉ đạo đối với hoạt động theo dõi/giám sát ở mọi cấp độ.
6.2. Một số biện pháp cần thực hiện để tri thức bản địa trở thành cơ sở của công tác lập kế
hoạch phát triển bền vững
i) Đối với việc nghiên cứu, vận dụng các tri thức bản địa trong sinh kế, trước hết cần thay đổi
về nhận thức, xác định rằng, tri thức bản địa là một trong những nguồn tài nguyên quí giá, là
20

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


cơ sở của sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực. Những kiến thức này có ý nghĩa quan trọng đối với
các nhà khoa học, các nhà lập kế hoạch phát triển bền vững. Nó cần được xem xét và so sánh
với kiến thức hiện đại để từ đó xác định những khía cạnh bổ ích hoặc có thể cải tiến thông
qua công nghệ mới. Nhưng đồng thời, cũng cần hiểu rằng, mặc dù đã chứng tỏ được giá trị

trong nhiều trường hợp, song không phải tất cả các tri thức bản địa đều đưa ra được giải pháp
bền vững cho những vấn đề sinh kế phát sinh ngày nay. Tri thức bản địa không nên được vận
dụng và quảng bá khi chưa được xem xét thận trọng dưới nhiều góc độ khác nhau (lợi thế so
sánh, khả năng ứng dụng, mức độ phổ cập, mạng lưới dịch vụ và nhu cầu thị trường). Cũng
không nên tách kiến thức bản địa ra khỏi bối cảnh hình thành mà phải đặt nó trong bối cảnh
của từng dân tộc, từng địa phương mới có thể phát huy giá trị. Các giải pháp mang tính địa
phương luôn phải được xét trong từng bối cảnh cụ thể. Đối với một dự án phát triển, việc xác
định một phương pháp hoàn toàn bản địa hay đã được xen lẫn với kiến thức từ bên ngoài du
nhập vào, được bản tộc hoá/bản địa hoá là không quan trọng. Thay vì việc tìm hiểu nguồn
gốc, cần tập trung tìm hiểu xem cộng đồng đó đã có những gì; từ đó có những phương cách
trợ giúp các giải pháp kỹ thuật cho người dân để sử dụng kiến thức được coi là thích hợp và
có ích vào phát triển bền vững.
Thứ hai, cần đảm bảo các điều kiện cho nghiên cứu - ứng dụng. Khó khăn lớn nhất hiện nay
phải kể đến việc tìm kiếm, phát hiện các tri thức bản địa còn tiềm ẩn, phục hồi các tri thức có
nguy cơ bị mất. Thực tế, có nhiều tri thức bản địa hiện chưa có điều kiện xác định và đánh
giá chính xác do các khó khăn về nhân lực thực hiện, địa lý, giao thông và tài chính. Đã đến
lúc Nhà nước, các cơ quan liên quan và các địa phương cần quan tâm đúng mức đến kế hoạch
bảo tồn, ứng dụng các tri thức bản địa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
nói chung, từng vùng, từng dân tộc nói riêng; tránh hiện tượng nghiên cứu đơn lẻ, cục bộ,
phân tán. Việc nghiên cứu dĩ nhiên cần tiến hành với sự tham gia của những người sở hữu
kiến thức bản địa và cộng đồng địa phương trong khu vực. Bên cạnh đó, cần phải có sự cổ vũ
về mặt tinh thần vì những kiến thức địa phương thường ít được áp dụng hơn so với khoa học
kỹ thuật phương Tây trong cả lĩnh vực phát triển cũng như khoa học. Một trong những điều
kiện tiên quyết của toàn bộ quá trình thu thập, ứng dụng và phổ biến kiến thức bản địa là sự
tham gia đầy đủ của người dân địa phương. Điều này chỉ có thể đạt được khi cộng đồng địa
phương được tham gia với một vị trí tương xứng. Vì vậy, nếu việc duy trì hệ thống kiến thức
truyền thống được ủng hộ tích cực thì vấn đề xây dựng đội ngũ và nâng cao năng lực nhân sự
trở thành vấn đề then chốt và thiết yếu. Đây cũng chính là nhược điểm cần khắc phục ở Việt
Nam, nếu chúng ta muốn biến tri thức bản địa thành nền tảng cơ sở của phát triển bền vững ở
vùng dân tộc thiểu số. Đó chính là quá trình kiện toàn tổ chức và đào tạo nhằm trang bị tốt

hơn cho người dân các dân tộc thiểu số cũng như các nhà khoa học để họ có thể tiến hành
nghiên cứu, ứng dụng các tri thức bản địa vào thực tiễn. Điều này chỉ có thể đạt được khi có
sự cộng tác giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức thế giới và người dân.
Thứ ba, cần có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức bản địa. Nhận thức về
giá trị của kiến thức bản địa, đặc biệt là khả năng đóng góp của nó vào phát triển bền vững và
xoá đói giảm nghèo, đang dần được nâng cao. Cũng chính vào lúc này, nhiều câu hỏi quan
trọng đang được đặt ra: Ai sở hữu những kiến thức bản địa và ai có thể sử dụng chúng? Ai
quyết định việc sử dụng những kiến thức đó và sử dụng như thế nào, cho mục đích gì? Những
người sở hữu kiến thức bản địa được hưởng những lợi ích gì? Và ai là người bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với các tri thức bản địa cho cộng đồng các dân tộc thiểu số?...
Việc sử dụng tri thức truyền thống đem lại lợi ích đáng kể về kinh tế, văn hóa, xã hội cho mỗi
quốc gia. Vấn đề quan trọng đang đặt ra hiện nay là cần phải có các công cụ pháp lý hữu hiệu
để bảo vệ các tri thức truyền thống đó. Liên quan đến vấn đề này, nhiều tài liệu đã đề cập đến
các phương cách khác nhau. Tuy nhiên, muốn bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ của cộng
21

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


đồng đối với các tri thức bản địa, cần có các khung pháp lý cụ thể, chi tiết hơn. Cần đưa các
tri thức bản địa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Di sản văn hóa và điều chỉnh Luật Sở hữu
trí tuệ theo chiều hướng có lợi cho người dân. Đồng thời, phải có được bộ máy hành pháp, tư
pháp đủ mạnh để đảm bảo các quyền của người dân đối với tri thức bản địa luôn được tôn
trọng đầy đủ.
ii). Đối với việc nghiên cứu, vận dụng những tri thức trong quản lý xã hội, trước hết cần xác
định bản chất của thôn làng hiện đại. Trước khi đề xuất các phương pháp thực hành cụ thể,
cần phải có sự thống nhất nhận thức trong quan điểm chỉ đạo và sự pháp lý hoá các quan
điểm nhận thức đó về bản chất của đơn vị thôn làng và thiết chế tổ chức thôn làng hiện nay.
Vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải đáp trước khi có được sự định hướng là: Thôn làng có vị trí
như thế nào trong bộ máy nhà nước và bản chất của nó là gì? Là một cấp hành chính, là một

đơn vị xã hội tự quản hay chứa đựng cả yếu tố hành chính và tự quản? Cách hiểu có vẻ như
dễ được chấp nhận nhất hiện nay là sự thừa nhận về nguyên tắc tính chất của một đơn vị xã
hội cơ sở có quyền tự quản cao. Nhưng thực tế, tính chất tự quản của thôn làng đã bị biến đổi
đáng kế. Về mặt pháp lý, hiện nay thôn làng không phải là một đơn vị hành chính lãnh thổ,
không phải là một cấp chính quyền mà chỉ là đơn vị tụ cư mang tính truyền thống, tự nhiên;
là nơi thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân nhưng không hoàn toàn là một đơn vị
tự quản. Mặt khác, dường như cũng sẽ rất khó xác định được ranh giới, mức độ ảnh hưởng
của phạm trù “tính chất tự quản” với “thể chế hành chính” trong các thôn làng - những trường
hợp nào thì được hành xử như một đơn vị tự quản và trường hợp nào thì được coi là một đơn
vị hành chính. Sự chậm trễ trong xác định quan điểm về vấn đề này đã gây nên những cản trở
nhất định trong quá trình triển khai một số chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Thứ hai, cần có các biện pháp tái xác lập tính cộng đồng của thôn làng. Thôn làng là một đơn
vị mang tính cộng đồng cao, thể hiện ở nhiều yếu tố: Cộng cư, cộng sinh, cộng đồng văn hoá,
tâm linh tín ngưỡng… Rời khỏi môi trường cộng đồng, các thành viên trở nên thiếu tự tin. Bị
phá vỡ tính cộng đồng, quan hệ trong các thôn làng trở nên lỏng lẻo, rối loạn và mất khả năng
chống chịu trước các áp lực đa chiều của một nền kinh tế đầy biến động và một xã hội mà sự
bùng nổ thông tin đang kéo mỗi người ra khỏỉ sự khép kín để hoà vào với thế giới rộng lớn.
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử trong thời hiện đại, cơ cấu thôn làng các dân tộc thiểu số đã
có nhiều thay đổi. Một trong những hệ quả của những thay đổi đó chính là sự suy giảm của
tính cộng đồng. Vai trò của các cá nhân có quyền lực (những người có lợi thế về điền sản,
những người có địa vị xã hội) và cả các nhóm xã hội phi quan phương có lợi thế về điền sản
đang ngày càng lấn lướt. Họ không chỉ chi phối các thể chế truyền thống mà thậm chí còn có
thể ảnh hưởng đến thể chế nhà nước. Vì thế, muốn tận dụng các lợi thế của văn hoá thôn
làng, trong đó có tri thức quản lý cộng đồng, vào việc thúc đẩy tăng trưởng, trước hết cần
phải tái xác lập và bảo lưu tính cộng đồng thôn làng với tư cách là một cộng đồng cư trú với
những điều kiện và khả năng phát triển phù hợp phong tục tập quán của từng dân tộc; một
cộng đồng có chung đặc điểm tâm lý, ý thức nguồn cội thể hiện qua các đặc trưng văn hoá,
phong tục, tập quán mang tính dân chủ, bình đẳng theo quan niệm cộng đồng và luật pháp;
một cộng đồng tâm linh lành mạnh, thể hiện trên các phương diện tín ngưỡng, tôn giáo...
Thứ ba, cần xây dựng Quy ước thôn làng nhằm khắc phục các bất cập về thể chế: Một trong

những vấn đề bức xúc hiện nay ở các thôn làng chính là sự tồn tại song hành của 2 thể chế
nhưng chưa đạt hiệu lực cần thiết trong việc điều chỉnh các hành vi và giữa 2 thể chế đó có
những khoảng trống có thể lợi dụng để trục lợi cá nhân. Muốn khắc phục được tình trạng đó,
việc xây dựng một bản Quy ước thôn làng có sự kết hợp giữa các yếu tố luật tục truyền thống
với cơ sở luật pháp là cần thiết. Trên cơ sở của khung pháp lý, các bản Quy ước thôn làng
phải phản ánh những đặc trưng văn hoá của từng dân tộc, từng vùng văn hoá. Các điều khoản
của Quy ước sẽ là khung điều chỉnh hành vi cho hoạt động của mọi thành viên trong thôn
22

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


làng. Để bản Quy ước thôn làng có hiệu lực cần thiết, bên cạnh những căn cứ pháp luật, cần
có sự tham vấn người dân, nhất là các già làng và các trưởng tộc của mỗi dòng họ. Tiếp thu ý
kiến của những người này sẽ khắc phục được sự bất cập trong việc tận dụng các yếu tố tích
cực của phong tục, tập quán. Đồng thời, sự tham gia của đông đảo người dân còn đảm bảo
cho việc củng cố mối liên kết cộng đồng và sự bình đẳng giữa các dòng họ trong thôn làng.
Thông qua hoạt động này, có thể giúp người dân tìm lại được sự tự tin bởi tiếng nói của họ đã
được trân trọng.
Thứ tư, cần tăng cường và đổi mới hình thức đối thoại với người dân: Trên nền tảng của Pháp
lệnh Dân chủ cơ sở, cần có các biện pháp thực tế, hiệu quả tạo điều kiện cho người dân được
tham gia quá trình ra quyết định trong chiến lược phát triển thôn làng, cả về kinh tế - xã hội
và văn hoá. Muốn vậy, Nhà nước cần bổ sung khung pháp lý (trong Pháp lệnh Dân chủ cơ sở,
Luật Di sản văn hoá, xây dựng Luật Kế hoạch…) để xác lập cơ chế cụ thể về sự tham gia của
cộng đồng trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện, theo dõi và đánh giá
các chương trình/dự án đầu tư. Bảo đảm nguyên tắc thực sự trao quyền cho người dân từ lựa
chọn mục tiêu, phân bổ nguồn lực đến tổ chức thực hiện, kiểm tra; bảo đảm tính minh bạch,
phổ biến công khai rõ ràng của các quyết định, chủ trương của Nhà nước về xóa đói giảm
nghèo, các đối tượng và lĩnh vực được thụ hưởng ưu đãi đầu tư hỗ trợ; bảo đảm công bằng,
hiệu quả và bền vững trong việc phân bổ, xây dựng các dự án đầu tư và duy trì được năng

lực, người hưởng lợi được tự chủ...

23

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


I. GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa sắc thái văn hoá. Chính sách dân tộc luôn là một bộ
phận hết sức quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đối với hệ thống chính sách dân tộc, trong hơn 30 năm kể từ ngày thống nhất đất nước, Nhà
nước đã có những sự thay đổi căn bản trong nhận thức và áp dụng thực tiễn. Từ chỗ tập trung
bao cấp, áp đặt từ trên xuống (những năm 1975-1986); đã dần chuyển sang thực hiện các
sáng kiến trong việc đẩy mạnh sự tham gia của người dân (1987-2000) và hiện nay đang thực
hiện theo phương châm phát triển theo định hướng cộng đồng (từ sau năm 2000). Hệ thống
chính sách mà nhà nước Việt Nam đã ban hành trong thời kỳ đổi mới khá toàn diện, tác động
đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Nhờ có các chính sách đó
mà vùng dân tộc thiểu số đã có bước phát triển quan trọng, cơ cấu kinh tế bước đầu có sự
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được sự tăng trưởng khá; cơ sở
hạ tầng ngày càng được cải thiện, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao.
Theo đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước về dân tộc và nghèo đói (Uỷ ban Dân tộc,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cũng như các tổ chức quốc tế (Ngân hàng Thế giới,
các tổ chức phi chính phủ…), bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình phát triển kinh
tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số cũng bộc lộ những vấn đề cần sớm được khắc phục. Tốc độ
tăng trưởng vùng dân tộc thiểu số tương đối nhanh song chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm, mức chênh lệch về đời sống giữa đồng bào dân tộc thiểu số và người Kinh
có xu hướng ngày càng tăng, sự tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ xã hội cơ bản như
y tế, giáo dục còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong quá trình phát triển, ở vùng dân tộc thiểu số
đã và đang nảy sinh những mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc văn hoá

riêng và xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá. Nhiều tri thức bản địa (trong sinh kế, quản lý xã
hội và đời sống tinh thần) vốn là cơ sở duy trì cuộc sống cộng đồng, cũng là các yếu tố chính
tạo nên bản sắc văn hoá tộc người, đã và đang bị mai một hoặc từng bước bị phủ nhận.
Thực tế ấy đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu nhằm tìm ra một quy trình có tính
chất nguyên tắc hay ít nhất cũng là một khung lý thuyết cho quá trình xây dựng kế hoạch và
thực hiện các dự án phát triển ở vùng miền núi và dân tộc, sao cho vừa đảm bảo được sự phát
triển bền vững, ổn định, ít rủi ro; vừa giúp cho người dân giữ được các đặc trưng văn hoá
riêng của mình. Đồng thời, quá trình phát triển ấy phải được diễn ra trong bối cảnh mà ở đó
nguyên tắc có sự tham gia của người dân luôn được đề cao, những bất bình đẳng về giới được
giảm thiểu đến mức thấp nhất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, nhằm cung cấp thông tin cho các bên liên quan về tính phù hợp (hoặc chưa phù
hợp) của quy trình hoạch định và thực hiện các chính sách đối với dân tộc thiểu số. Qua phân
tích tính logic trong các văn bản chính sách cũng như những bằng chứng xác thực thu thập
được tại các địa bàn điền dã, chỉ ra sự bất cập và đề xuất các khuyến nghị giải pháp khắc
phục để đảm bảo vừa phát triển bền vững kinh tế - xã hội, vừa bảo tồn được các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc thiểu số.
Thứ hai, nhằm đáp ứng nhu cầu thúc đẩy đối thoại thường xuyên giữa các nhà hoạch định
chính sách, chỉ đạo thực hiện chính sách ở cấp trung ương và địa phương; giữa cộng đồng
nghiên cứu và các bên liên quan. Từ hoạt động đối thoại, các khuyến nghị chính sách sẽ dựa
nhiều hơn vào cơ sở khoa học và thực tiễn. Việc chấp nhận đối thoại sẽ khuyến khích giới
nghiên cứu nhanh nhạy hơn, bắt kịp nhu cầu của các nhà hoạch định chính sách; bản thân các
nhà hoạch định chính sách cũng quan tâm, sử dụng nhiều hơn các khuyến nghị dựa trên
những đề xuất được nêu ra trong các báo cáo nghiên cứu của giới khoa học.
24

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


1.3. Các câu hỏi nghiên cứu chính

Quá trình phân tích về các vấn đề đang được đặt ra trong thực tiễn phát triển vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, có rất nhiều yếu tố đã được đề cập đến. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của dự
án này, chúng tôi sẽ chỉ hướng đến giải quyết các vấn đề được coi là then chốt, nhằm trả lời
cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
 Làm thế nào để duy trì và sử dụng các kiến thức bản địa như là cơ sở cho các chương
trình phát triển?
 Làm thế nào để tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng người dân tộc thiểu số nói lên
mối quan tâm và nhu cầu của họ trước các quan chức địa phương và công chúng?
 Làm thế nào để cộng đồng người dân tộc thiểu số đối phó tốt nhất với các cú sốc/sự
thay đổi lớn về văn hoá và sinh kế?
 Làm thế nào để các cơ chế của chính phủ phù hợp với sự lãnh đạo truyền thống để
phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của cộng đồng các dân tộc thiểu số?
 Câu hỏi tổng quát liên quan đến giới và các chính sách phát triển là: Những nội dung
của các chính sách về vai trò giới và quan hệ quyền lực ở cấp độ gia đình và cộng
đồng là gì?
1.4. Quan điểm tiếp cận
Nghiên cứu được thực hiện theo các quan điểm chỉ đạo khoa học chính thức hiện nay của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh 2 nguyên tắc xuyên suốt: Thượng tôn dân tộc/quốc gia và
Khách quan khoa học, nhóm nghiên cứu luôn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc: Coi con người là “tổng hoà các mối quan hệ xã
hội” và “mọi người đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Các thực thể xã hội đều vận động, biến đổi theo các quy luật chung nhất được
chỉ ra trong các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng tham chiếu một số quan điểm hiện đang được giới khoa học
xã hội Việt Nam quan tâm xung quanh vấn đề phát triển bền vững và đảm bảo lợi ích của các
dân tộc thiểu số trên cả bình diện kinh tế, môi trường cũng như văn hoá, xã hội:
-

Tiếp cận hệ thống cấu trúc tổng thể: Coi mỗi dân tộc, mỗi xã hội, mỗi nền văn hoá, mỗi
thôn làng…là một hệ thống cấu trúc tổng thể bao gồm các thành tố có quan hệ chi phối,

tác động lẫn nhau và quan hệ đa chiều với tự nhiên và xã hội. Mỗi sự thay đổi của môi
trường (tự nhiên và xã hội) hay sự can thiệp từ bên ngoài vào đều có thể ảnh hưởng tới
một hay nhiều thành tố văn hoá và vì vậy cũng có thể ảnh hưởng đến cấu trúc văn hoá
tổng thể.

-

Tiếp cận sinh thái học văn hoá: Hệ thống lý thuyết chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa môi
trường tự nhiên và văn hóa, trong đó môi trường tự nhiên đặc thù là cơ sở cho việc hình
thành các mô hình văn hóa khác nhau. Kiểu văn hóa của mỗi tộc người được tạo ra là do
nguồn tài nguyên và những giới hạn của môi trường xung quanh trong quá trình biến đổi
thường xuyên. Tiếp cận sinh thái học văn hóa, giúp nhà nghiên cứu lý giải được những
yếu tố văn hóa khác nhau giữa các vùng miền, từ đó đánh giá mức độ tác động của các
yếu tố đó tới hệ thống kinh tế - văn hoá - xã hội của cộng đồng dân cư tại mỗi vùng sinh
thái khác nhau. Từ khái niệm “Văn hoá” và lý thuyết “Sinh thái học văn hoá”, nhà nghiên
cứu có thể có căn cứ lý giải các hiện tượng được coi là “Đồng quy văn hóa” (các dân tộc
sinh sống trong cùng điều kiện tự nhiên thường có sự tương đồng về văn hóa) hay “Tiếp
biến văn hóa” (các dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử và điều kiện sinh sống nhưng
vẫn có thể có chung những đặc trưng văn hoá do thường xuyên tiếp xúc và biến đổi).
25

Create PDF files without this message by purchasing novaPDF printer ()


×