Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

KINH NGHIỆM VỀ DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.85 KB, 41 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Khoa học và công nghệ (KH&CN) đóng một vai trò trọng yếu đối với xã hội, kinh
tế và môi trường. Sự khai thác công nghệ thành công đã trở thành nhân tố quan trọng để
đạt được khả năng cạnh tranh. Do vậy, cả những quốc gia phát triển lẫn đang phát triển
đều có sự quan tâm và đầu tư lớn nhằm phát triển những năng lực nhận dạng những công
nghệ mới đang nổi lên và thiết lập những lĩnh vực/mục tiêu ưu tiên để phân bổ ngân sách
một cách tối ưu. Dự báo và lựa chọn công nghệ ưu tiên đã đóng một vai trò rất quan trọng
đối với công tác xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển KH&CN và nhận được sự
quan tâm rất lớn của cả các Chính phủ lẫn doanh nghiệp.
Để giúp bạn đọc có được hiểu biết về kinh nghiệm các nước trong hoạt động dự
báo và lựa chọn những công nghệ được ưu tiên đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D),
Trung tâm Thông tin KH&CNQG biên soạn và xuất bản Tổng quan “ KINH NGHIỆM
VỀ DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI”.

Xin trân trọng giới thiệu.
TRUNG TÂM THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA

1


I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ
CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. KỸ THUẬT DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN
1.1.1. Tầm quan trọng của dự báo và lựa chọn công nghệ ưu tiên
KH&CN đóng một vai trò trọng yếu đối với xã hội, kinh tế và môi trường, nó góp
phần vào quá trình tạo ra của cải và cải thiện chất lượng cuộc sống. Sự khai thác công
nghệ thành công đã trở thành nhân tố quan trọng để đạt được khả năng cạnh tranh kinh tế.
Tuy nhiên, thế giới hiện đang thay đổi rất nhanh và phải đối mặt với những vấn đề môi
trường toàn cầu, chẳng hạn như tình trạng ấm lên toàn cầu đang nổi lên thành mối đe dọa


đối với sự tiến bộ. Để đối phó với những thay đổi này, các hệ thống KH&CN cần phải có
khả năng ứng phó và thay đổi bằng cách làm thích ứng những công nghệ hiện có hoặc
phát triển và ứng dụng những công nghệ mới. Một khía cạnh quan trọng của kinh tế tri
thức là khả năng tiếp cận và ứng dụng những công nghệ đang nổi. Những công nghệ đó
tạo cơ sở cho một loạt những triển vọng thương mại khả dĩ.
Có 2 loại hình chiến lược chủ yếu liên quan đến những công nghệ đang nổi lên. Loại
hình chiến lược thứ nhất dựa trên việc không tham gia phát triển những công nghệ đó do
không muốn đầu tư hoặc thiếu năng lực. Áp dụng chiến lược này nghĩa là phải chấp nhận
tình trạng bị gạt ra ngoài lề, không chiếm hữu được những tri thức hàm chứa liên quan
đến công nghệ, mà chỉ tiếp cận được với công nghệ nhờ mua công nghệ đó với giá do
bên sở hữu công nghệ định ra. Với công nghệ mua được, họ theo đuổi lợi ích thương mại
bằng cách phát triển một loạt những ứng dụng thích hợp với điều kiện địa phương.
Loại hình chiến lược thứ hai dựa vào việc đầu tư phát triển những công nghệ đang nổi
và cơ sở tri thức của chúng vào thời điểm khi những sản phẩm thương mại của chúng vẫn
chưa thể dự đoán được chắc chắn. Mục tiêu đặt ra là được tiếp cận với tri thức ẩn của
công nghệ để có khả năng hình thành công nghệ và phát triển kết cấu hạ tầng cần thiết,
tạo vị thế để đưa những sản phẩm tương lai ra thị trường, với ưu thế của người định giá
công nghệ do mình chiếm lĩnh được.
Để theo đuổi loại hình chiến lược thứ hai, điều chú trọng trước tiên là phải am hiểu về
những sức mạnh có khả năng định hình dạng thức và những đặc trưng của các công nghệ
đang nổi, làm sao để sự đầu tư vào những năng lực đó có thể được định hướng thích hợp
nhất. Đối với những nền kinh tế phát triển, những quyết định này phần lớn là do khu vực
tư nhân tự quyết, còn Chính phủ chỉ đầu tư hỗ trợ phát triển những kỹ năng và kết cấu hạ
tầng cần thiết, đồng thời cung cấp thông tin về tiềm năng của những công nghệ đang nổi
để định hướng. Đối với những nền kinh tế đang phát triển, với cơ cấu công nghiệp kém
phát triển và nguồn lực hạn chế, áp lực đối với họ càng lớn hơn để đảm bảo làm sao
những nguồn lực ít ỏi của mình dành cho phát triển công nghệ được hướng vào những
lĩnh vực hoặc những mục tiêu có lợi nhất cho quốc gia.
Do vậy, cả những quốc gia phát triển lẫn đang phát triển đều có sự quan tâm và đầu tư
lớn để phát triển những năng lực cho hiểu biết tốt hơn về những sức mạnh có tác dụng

định hình sự nổi lên của những công nghệ mới và để thiết lập những lĩnh vực/mục tiêu ưu
tiên phát triển công nghệ phù hợp với các nhu cầu của mình. Phát triển công nghệ chiến
lược là rất quan trọng đối với khả năng cạnh tranh lâu dài của các nền kinh tế và vì thế
nhận được sự quan tâm chiến lược của Chính phủ lẫn doanh nghiệp.
Có một số công cụ lập kế hoạch chiến lược có thể góp phần tạo lập những mối liên kết
giữa các khu vực Chính phủ, hàn lâm và doanh nghiệp, cũng như để nhận dạng những
lĩnh vực ưu tiên đầu tư. Một số những công cụ này nằm trong nhóm gọi là Dự báo
(Forecasting) và dựa vào sự ngoại suy xu hướng hoặc ứng dụng những mô hình để phát
triển một tương lai độc nhất. Những công cụ này thực chất giả định rằng tương lai là sự
2


tiếp nối của hiện tại, nghĩa là kinh tế, xã hội và công nghệ sẽ tiếp tục diễn ra theo mô thức
ổn định. Ở cách tiếp cận này, những rủi ro liên quan đến những sự kiện bất ngờ thường là
được giảm thiểu hoặc không xem xét đến.
Một nhóm kỹ thuật hoàn toàn khác, đó là Technology Foresight (TF), tạm dịch là định
trước/nhìn trước công nghệ, bao gồm cả dự báo lẫn lựa chọn những công nghệ ưu tiên
phát triển. TF liên quan đến việc phát triển một loạt những tương lai khả dĩ, nảy sinh từ
tập hợp giả định khác nhau về những xu hướng và cơ hội đang nổi lên. Nhóm kỹ thuật
này không dựa vào việc ngoại suy những mô thức hiện có; nó thừa nhận công khai rằng
tương lai là bất định và những sự kiện đột biến có thể và sẽ xảy ra. Quan trọng nhất là vai
trò của TF không chỉ nhằm chuẩn bị tốt cho tương lai, mà còn nắm lấy mọi cơ hội để
định hình và sáng tạo tương lai.
Nhiệm vụ then chốt của TF là tạo ra sự cân đối cần thiết giữa một bên là các chính
sách của Chính phủ được hoạch định theo phương pháp từ trên xuống đối với hoạt động
nghiên cứu và đổi mới và một bên là các sáng kiến từ dưới lên, do thị trường thúc đẩy.
Công tác này tiến hành để xếp hạng các lựa chọn và phát triển sự đồng thuận trong phạm
vi hệ thống đổi mới quốc gia (NIS). Theo quan điểm đã được sự nhất trí rộng rãi, việc
cùng kết hợp để thực hiện công tác TF đã trở thành một công cụ chính sách quan trọng để
kết nối, do vậy tăng cường được hiệu quả hoạt động của NIS.

Công tác TF đặt ra mục đích khuyến khích để đưa ra được các quyết định tốt hơn, tạo
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mọi người tư duy về con đường đi tới của đất nước và
tăng cường sự chuẩn bị để đón nhận những thay đổi xảy ra. Sức mạnh của công tác TF
nằm ở khả năng kết hợp các quy trình phân tích và thông tin chính quy. Do vậy, TF bao
hàm một quá trình hệ thống, trong đó cố gắng quan sát để "nhìn thấy những hướng đi
trong tương lai của KH&CN, kinh tế-xã hội, nhằm mục đích nhận dạng các lĩnh vực
nghiên cứu chiến lược và các công nghệ lớn đang nổi lên có khả năng đem lại những lợi
ích kinh tế-xã hội lớn nhất.
TF được dùng để kết nối các bộ phận nằm trong NIS, thông qua truyền thông, hợp tác
và nối mạng những nhà phát triển, những nhà sản xuất và những nhà sử dụng công nghệ,
đồng thời nêu bật nhu cầu phải tạo lập được các điều kiện chung, các quy định và kết cấu
hạ tầng tốt hơn để thực thi các lĩnh vực KH&CN được chọn làm ưu tiên.
TF được sử dụng để giúp mọi người đều nhận thức được các công nghệ, thị trường
và chiến lược cho tương lai, thông qua sự tranh luận về chúng và tác động của chúng
tới kinh tế-xã hội (với sự tham gia của xã hội dân sự) và thông qua sự hiểu biết tốt
hơn về các động lực đem lại một số chức năng của NIS. Nếu thực hiện tốt, TF sẽ đưa
ra một quy trình tư vấn mang tính tập thể, với những quy trình mà bản thân chúng
cũng đóng vai trò quan trọng không kém so với sản phẩm do công tác này đem lại.
1.1.2. Định nghĩa và yếu tố căn bản của TF
TF không phải là một kỹ thuật mới; nó đã được phát triển từ 30 năm qua và đã áp dụng
những cách tiếp cận khác nhau. Có thể phân biệt 3 thế hệ TF như sau:
- Thế hệ 1 - là những dự báo công nghệ được thúc đẩy bởi những nhà nghiên cứu;
- Thế hệ 2 - là những nhìn nhận về tương lai công nghệ được liên kết với thị trường và
được thúc đẩy bởi các nhà nghiên cứu và ngành công nghiệp;
- Thế hệ 3 - là những tiên định tương lai được liên kết với xã hội và được thúc đẩy bởi
các nhà nghiên cứu, ngành công nghiệp và các nhóm lợi ích.
Nhiều định nghĩa khác nhau về TF đã được đề xuất và định nghĩa hiện nay được Trung
tâm TF APEC sử dụng để phản ánh TF thế hệ 3 là:
"TF bao hàm những cố gắng có hệ thống để nhìn vào tương lai của KH&CN, xã hội3



kinh tế và những quan hệ tương tác của chúng để thúc đẩy lợi ích kinh tế-xã hội và môi
trường".
Định nghĩa này có một số hàm ý như sau:
1. Những cố gắng nhìn vào tương lai cần phải dựa vào sự phân tích kỹ lưỡng hiện
trạng, những xu thế và tác động khả dĩ của những phát triển;
2. Những cố gắng này cần phải liên quan đến tầm trung hạn và dài hạn, thường là 1020 năm;
3. TF là một quá trình chứ không phải là một tập hợp kỹ thuật và bao gồm sự tư vấn và
tương tác giữa cộng đồng khoa học, những người sử dụng kết quả nghiên cứu và những
nhà hoạch định chính sách;
4. Quá trình này cần đưa đến những hành động nhằm hình thành nên tương lai khả dĩ
tốt nhất.
Một đề xuất gần đây là có thể định nghĩa TF đơn giản là sự hiểu biết tương lai. TF
nhằm vào 3 thách thức lớn đặt ra bởi tương lai, gồm:
1. Sự phức hợp: Các quan hệ nhân quả không phải lúc nào cũng rõ ràng. Những yếu tố
nhân quả có thể tương tác, vì vậy có thể có sự chậm trễ giữa nguyên nhân và kết quả hoặc
có thể có những khác nhau giữa các xã hội;
2. Bất định: Nhiều mối quan hệ là quá phức hợp để khám phá toàn bộ, thậm chí
những mối quan hệ đơn giản cũng có thể liên quan tới độ bất định cao, nếu như cơ
sở tri thức còn chưa tồn tại hoặc nếu con người bất lực trước kết quả sẽ xảy ra;
3. Không rõ ràng: Có thể có những diễn giải khác nhau đối với cùng một thông tin và
dữ liệu do có những quyền lợi và niềm tin khác nhau.
1.1.3. Những cấu phần của TF
Một đặc điểm quan trọng trong việc thành lập quá trình TF là xác định mục đích, vì
điều này quyết định bản chất của mối liên hệ với quá trình đưa ra quyết định. Có 6 mục
đích khả dĩ gồm:
1. Lập phương hướng - những định hướng rộng về chính sách khoa học và phát triển
một lịch trình về các phương án tùy chọn;
2. Xác định những ưu tiên - một mục đích quan trọng của TF và động lực của nhiều
nước để tiến hành là dựa trên sự hạn chế về nguồn lực và những yêu cầu ngày càng tăng

đối với các nhà nghiên cứu;
3. Phân tích dự báo - nhận dạng những xu hướng đang nổi lên và những hàm ý lớn đối
với việc đề ra quyết định tương lai;
4. Tạo ra sự đồng thuận - thúc đẩy sự nhất trí cao hơn của các nhà khoa học, các cơ
quan cấp vốn và những nhóm lợi ích đối với những nhu cầu hoặc cơ hội đã nhận dạng;
5. Cố vấn - thúc đẩy những quyết định chính sách phù hợp với những ưu tiên của các
nhóm lợi ích cụ thể trong hệ thống R&D;
6. Truyền thông và giáo dục - thúc đẩy truyền thông nội bộ trong giới khoa học, thúc
đẩy truyền thông bên ngoài với những người sử dụng nghiên cứu và giáo dục rộng rãi
hơn công chúng, các chính khách và quan chức.
Như vậy, có một số hoạt động có thể tụ họp lại trong một dự án TF, một số là tương
đối cũ, một số khác mới được đưa ra. Có một quan điểm rộng khắp cho rằng bối cảnh
kinh tế, thể chế và văn hóa của những quốc gia khác nhau có thể ảnh hưởng đến việc lựa
chọn giữa các cách tiếp cận quốc gia, do vậy các quốc gia khác nhau áp dụng những kỹ
thuật khác nhau.
4


Trong quá trình tiến hành dự án TF, cần duy trì triển vọng cân đối giữa "sức đẩy của
khoa học" và "sức kéo của nhu cầu thị trường".
- Những nhân tố đẩy của khoa học bao gồm việc tạo ra những cơ hội công nghệ hoặc
thương mại mới nhờ nghiên cứu khoa học, và sức mạnh và những nguồn lực khai thác
chúng;
- Những phát triển của công nghệ và sản xuất có thể tạo ra ứng dụng các kết quả
nghiên cứu hiện có hoặc những kết quả mới thông qua cơ chế sức kéo của nhu cầu. Các
nhân tố nhu cầu bao gồm những ưu tiên và nhu cầu của cộng đồng rộng hơn.
Do bản chất tương tác của TF, nên những đầu ra của quá trình thường cũng có thể
quan trọng như những sản phẩm của TF. Những lợi ích mà TF đưa lại gồm:
- Giao thiệp - đưa những nhóm người riêng rẽ lại với nhau và cung cấp cho họ một cơ
cấu để tương tác và giao thiệp;

- Tập trung - về lâu dài, những thành viên tham gia sẽ nhìn tiếp vào tương lai nhờ đã
kinh qua quá trình TF;
- Phối hợp - tạo khả năng cho những nhóm khác nhau hình thành các quan hệ đối tác
R&D hiệu quả;
- Đồng thuận - nhờ đã tạo ra một bức tranh rõ nét về những phương hướng khác nhau
trong tương lai và những ưu tiên nghiên cứu;
- Cam kết - tạo ra sự cam kết đối với những kết quả ở những người sẽ chịu trách nhiệm
thực hiện những thay đổi;
- Am hiểu - khuyến khích những người tham gia hiểu được những thay đổi đang diễn
ra trong kinh doanh hoặc trong ngành chuyên môn ở cấp toàn cầu và đề ra sự kiểm soát
nào đó với những sức khỏe này.
Mức độ thành công của TF có thể được đo và đánh giá căn cứ vào 6 tiêu chí này.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng TF có thể được tiến hành ở một số cấp, từ những cơ quan
chịu trách nhiệm điều phối chính sách KH&CN quốc gia, tới các hiệp hội ngành nghề,
các doanh nghiệp hoặc tổ chức nghiên cứu.
Những điểm quan trọng cần lưu ý để một dự án TF được thực hiện thành công là:
- Mục đích của TF phải được vạch rõ ngay từ đầu;
- Tất cả những người sử dụng R&D, thực hiện R&D và cấp vốn đều được thu hút vào
quá trình
- Luồng ý kiến cố vấn "từ dưới lên" ít nhất cũng được chú ý bằng với luồng "từ trên
xuống";
- Cơ chế thực hiện phải có sẵn để những quyết định đưa ra trong quá trình có thể và sẽ
được thực hiện;
- Quá trình TF nhạy cảm với những bất ngờ, bởi vậy các kế hoạch có thể được cải
biến;
- Quá trình không phải là "làm một lần là xong", mà lặp lại theo định kỳ để xem xét
những phản hồi và những phát triển mới.
Một dự án TF có thể chia làm 3 pha
- Pha chuẩn bị - xác định các mục tiêu, phát triển tài liệu khái niệm, xem xét những tài
liệu hiện có và nếu cần ủy nhiệm thực hiện những xem xét mới;

- Pha thực hiện - sử dụng một hoặc một số kỹ thuật nêu dưới đây để tập hợp các
chuyên gia và các nhóm lợi ích tiến hành chia sẻ những ý tưởng, phát triển những
tầm nhìn tương lai, vạch ra những vấn đề lớn, đánh giá những nhu cầu hành động
(Trung tâm TF APEC cho rằng kỹ thuật xây dựng kịch bản là rất đắc lực cho công
việc này) và soạn thảo báo cáo.
5


- Pha hậu TF - Trình báo cáo cho những nhà hoạch định chính sách/những nhà
đưa ra quyết định và các nhóm lợi ích, tiếp tục làm việc với các thành viên về những
sản phẩm của công trình và công bố rộng rãi những kết luận (Đây là pha khó nhất
nhưng cũng quan trọng nhất).
1.1.4. Các phương pháp luận TF
1. Khảo sát Delphi
(Tên gọi Delphi là lấy từ một địa danh ở đền Apollo, cổ Hy Lạp, theo truyền thuyết là
nơi gặp gỡ của các vị thần để trao đổi về những điều tiên tri của mình)
Thuật ngữ Phương pháp Delphi đề cập đến vô số những quy trình giao thiệp nhóm để
dự báo và đề ra quyết định. Khái niệm cơ bản của nó xuất hiện vào thập niên 50 của thế
kỷ trước, tại tổ chức Ran Corporation, là kết quả của công trình nghiên cứu được Không
lực Mỹ tài trợ, để tìm ra những phương thức đúng đắn trong việc sử dụng những ý kiến tư
vấn của các chuyên gia. Quá trình điều tra khảo sát này sử dụng ý kiến của các chuyên
gia để nhận dạng những phát triển công nghệ khả dĩ trong 10-20 năm tới và ước tính khả
năng xảy ra cũng như thời gian thực thi chúng. Phương pháp bao gồm việc gửi phiếu điều
tra tới một ban chuyên gia lớn, lặp lại nhiều lần để thúc đẩy sự tương tác nhóm. Các
thành viên của ban chuyên gia thường đưa ra những ước tính với sự khác nhau rất nhiều
ở mỗi câu hỏi khi bắt đầu quy trình, nhưng cùng với diễn tiến của quá trình, những ước
tính đó bắt đầu hội tụ lại. Tuy nhiên, một điều quan trọng cần ý thức được là đôi khi
những người ngoài cuộc lại thấy được tương lai tốt hơn so với đa số.
Kỹ thuật Delphi có một số ưu điểm. Một là, nó cho phép tổng hợp quan điểm của một
số lượng lớn chuyên gia. Hai là, nó thích hợp để xem xét những thay đổi dài hạn, kể cả

những thay đổi có thể xảy ra. Ba là, nó rất công hiệu để đem lại những lợi ích quy trình
(như sự đồng thuận và sự tập trung). Cuối cùng là, nó có thể áp dụng cho những quốc gia
khác nhau, do đó cho phép nhà nghiên cứu so sánh những kết quả để nhận dạng tác động
của mọi ảnh hưởng quốc gia. Một trong những nhược điểm là những khảo sát quy mô lớn
thường tốn kém và cần nhiều thời gian, đồng thời cần sự tham gia của một số lượng lớn
chuyên gia nắm những kết quả có tầm quan trọng về thống kê.
Kỹ thuật này được áp dụng nhiều ở châu Á, nhất là Nhật, Hàn Quốc và Thái Lan, cũng
như ở châu Âu như Đức và Pháp.
Phương pháp thống kê được dùng trong khảo sát Delphi
Trọng lượng và mức độ chuẩn y của các chuyên gia
Có 2 giả thiết trong khảo sát Delphi: (1) Những phán xét của những chuyên gia rất
quen thuộc với công nghệ có tầm quan trọng hơn nhiều so với những chuyên gia chỉ quen
thuộc công nghệ, vì những phán xét phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức chuyên ngành của
chuyên gia. Bởi vậy, những ý kiến của những chuyên gia không quen thuộc với công
nghệ có thể loại bỏ trong quá trình xử lý dữ liệu. (2) "Mức độ đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế", "mức độ đóng góp vào cải thiện chất lượng cuộc sống" và "mức độ đóng góp
vào việc đảm bảo an ninh quốc gia" được coi là có tầm quan trọng như nhau khi cân nhắc
về tầm quan trọng của chủ đề công nghệ.
Phán xét của những chuyên gia đã tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu một thời gian dài
rõ ràng là đáng tin cậy hơn những chuyên gia khác. Bởi vậy, trọng lượng phán xét chuyên
gia được phân thành 4 mức: "rất quen thuộc", "quen thuộc", "biết một số" và "không
biết". Mức độ chuẩn y tri thức được tính là tỷ lệ giữa số lượng những chuyên gia đã trả
lời câu hỏi trên tổng số toàn bộ các chuyên gia đã trả lời và được tính theo công thức sau:
E = Oi1x4 + Oi2x2 + Oi3x1 + Oi4x0
1x4 + E2x2 + E3x1 + E4x0
Trong đó Oi1 - số những người trả lời (câu hỏi về chủ đề rất quen thuộc với chủ đề
6


công nghệ), Oi2 - số những người trả lời câu hỏi về chủ đề (quen thuộc), Oi3… (biết một

số về chủ đề công nghệ), Oi4… (không biết). E1, E2, E3, E4 là số những người trả lời tự
đánh giá là mình "rất quen thuộc", "quen thuộc", "biết một số" và "không biết" đối với
chủ đề tương ứng.
2. Tư vấn
Kỹ thuật này sử dụng cách tiếp cận ở phạm vi rộng khắp cộng đồng để phát triển
những triển vọng của các tương lai được trông đợi, có khả năng xảy ra và được ưa thích,
xét về dài hạn. Những tương lai được trông đợi là dựa trên cơ sở phân tích của các
chuyên gia về những xu thế hiện nay và ngoại suy. Những tương lai khả dĩ cung cấp một
loạt những phương án tùy chọn đối với thế giới, có thể có những thay đổi lớn theo thời
gian. Những tương lai được ưa thích là những tương lai cộng đồng muốn đạt tới; chúng
bao hàm những giá trị và kỳ vọng cá nhân, những chiến lược của các công ty và các tổ
chức cộng đồng và những kế hoạch của Chính phủ. Bằng cách so sánh những phương án,
có thể nhận dạng những vấn đề then chốt đối với sự thay đổi, cần phải giải quyết trong
quá trình phát triển chiến lược quốc gia để đạt tới một tương lai mong muốn, đồng thời
đối phó với những thay đổi khả dĩ.
Kỹ thuật này có tác dụng tốt để đem lại những lợi ích của quá trình, như thúc đẩy sự
giao thiệp, phối hợp, cam kết và am hiểu. Cũng như phương pháp Delphi, phương pháp
này cũng tốn kém và mất nhiều thời gian, vì phải tư vấn rất nhiều người. Nhưng khác với
Delphi, nó có xu hướng mang tính đặc thù với từng quốc gia và từng nền văn hóa, vì vậy
không thể so sánh kết quả nhận được.
Kỹ thuật tư vấn đã được sử dụng ở Ôxtrâylia và Hà Lan. Công trình TF gần đây ở Anh
gồm cả kỹ thuật tư vấn lẫn khảo sát Delphi.
3. Xây dựng kịch bản
Phương pháp này sử dụng cách tiếp cận tập trung hơn để phát triển những kịch bản
cho tương lai và đánh giá những hàm ý của chúng. Những nhóm nhỏ các chuyên gia và
những người liên quan xem xét hiện trạng R&D ở một lĩnh vực và nhận dạng những phát
triển khả dĩ của công nghệ ở một lĩnh vực cụ thể trong vòng ví dụ như 10-20 năm tới.
Tiếp đó, họ nhận dạng những động lực thay đổi và những bất định. Những động lực đó
có thể phân thành 5 nhóm: S-xã hội, T-công nghệ, E-Kinh tế, E-môi trường và P-chính trị
(gộp lại thành STEEP). Tiếp đó, những nhóm đó được suy đoán về những bất định có thể

hoặc thậm chí không thể xảy ra, có khả năng làm thay đổi mô thức phát triển, chẳng hạn
như dịch bệnh, chiến tranh, thảm họa thiên nhiên - Tiếp theo, những kịch bản được xây
dựng bằng cách sử dụng những tổ hợp của những điều này để đưa ra các bức tranh gắn
kết về những tương lai khác nhau. Nhờ xem xét những kịch bản này, có thể nhận dạng
những điểm quyết định quan trọng để làm cơ sở phát triển chiến lược, cho phép ứng phó
linh hoạt với sự thay đổi lớn.
Kỹ thuật xây dựng kịch bản đã được các công ty/tổ chức nghiên cứu sử dụng để phát
triển chiến lược kinh doanh và bổ sung cho công tác lập ra những ưu tiên. Kỹ thuật này
có công dụng tốt để đem lại những lợi ích của quá trình.
4. Phân tích patent
Đây là cách tiếp cận mang tính ngắn hạn, sử dụng các cở dữ liệu patent để nhận dạng
những công nghệ đang nổi lên và những khả năng ứng dụng chúng cho những lĩnh vực
khác. Đây là một kỹ thuật nổi tiếng, được ứng dụng trong lập kế hoạch đổi mới công ty
và phân tích đối thủ cạnh tranh, nhưng cũng cần phải thận trọng khi ứng dụng cho TF, vì
phần lớn dữ liệu quốc gia đều thiên về quốc gia khởi xướng và không thể dùng để so sánh
quốc tế. Có lẽ nên coi đây là kỹ thuật nằm trong nhóm kỹ thuật Dự báo, chứ không phải
là của TF, vì nó ít cân nhắc đến những yếu tố bất định.
Ưu điểm chính của kỹ thuật phân tích patent là có thể thực hiện với những cơ sở dữ
7


liệu online ở quy mô thường xuyên với phí tổn và công sức bỏ ra không lớn lắm. Kỹ
thuật này được nhiều công ty công nghệ cao của Đức áp dụng.
5. Xác định những công nghệ trọng yếu cần được đầu tư và phát triển
Kỹ thuật này sử dụng một nhóm nhỏ những chuyên gia được lựa chọn, hoạt động theo
kiểu ad-hoc, để xây dựng danh mục những công nghệ chung liên quan đến công cuộc
phát triển kinh tế tương lai của một ngành hoặc một quốc gia. Kỹ thuật này đã được ứng
dụng để xác định những công nghệ trọng yếu cho ngành công nghiệp và quốc phòng của
Mỹ, cũng như cho công cuộc phát triển KH&CN của Pháp.
Ưu điểm chính của kỹ thuật này là tương đối dễ thực hiện, nhưng cũng có một vài

nhược điểm, như độ chính xác và mức độ cụ thể không được cao.
1.2. HOẠT ĐỘNG DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN CỦA CÁC
NƯỚC (Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á)
Hoạt động dự báo và lựa chọn công nghệ đã được tiến hành mạnh mẽ ở các châu lục.
Ở Bắc Mỹ, Canada và Mỹ đã sử dụng kỹ thuật này để xây dựng chiến lược và kế hoạch
phát triển KH&CN. Năm 1997, Canada có công trình nghiên cứu phát triển chiến lược
KH&CN dài hạn, dựa vào kỹ thuật TF. Hai công trình dự báo quy mô lớn, mang tầm
quốc tế của Mỹ là “TẦM NHÌN CỦA CÔNG NGHIỆP CHẾ TẠO TỚI NĂM 2020” và
“CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ TOÀN CẦU 2020” đã có công dụng định hướng
cho các nước để phát triển ngành chế tạo và KH&CN .
Năm 1996, Cục Thiết kế kỹ thuật và Chế tạo của Hội đồng Nghiên cứu Mỹ đã thành
lập Ủy ban về những thách thức tương lai của công nghiệp chế tạo. Nhiệm vụ của Ủy ban
này là nghiên cứu để nhận dạng những thách thức lớn đặt ra cho các xí nghiệp chế tạo tới
năm 2020 và những công nghệ cần được ưu tiên R&D để đối phó với những thách thức
đó. Ngoài việc xem xét những công trình dự báo đã hoàn thành, như Nền công nghiệp
chế tạo thế hệ mới, hoàn thành vào năm 1997, Tầm nhìn công nghệ 2020, hoàn thành
vào năm 1996, Ủy ban đã sử dụng những phương pháp sau để dự báo và lựa chọn:
 Tổ chức hội nghị gồm những thành viên (chủ yếu là đến từ Mỹ) có tri thức rộng
lớn và sâu sắc về ngành chế tạo. Hội nghị đã nghe các báo cáo và thảo luận về
những xu hướng tương lai trong kinh tế, thực tiễn kinh doanh, những quan tâm
môi trường và những vấn đề của ngành chế tạo;
 Khảo sát Delphi quốc tế đã được tiến hành (trên 40% chuyên gia chế tạo là của
nước ngoài,
Dựa trên những thông tin đã thu thập, những báo cáo bổ sung của những nhà lãnh đạo
các ngành chế tạo và quá trình xem xét, thảo luận kỹ lưỡng, Ủy ban đã xây dựng và công
bố Báo cáo về Tầm nhìn của công nghiệp chế tạo tới năm 2020. Ủy ban châu Âu (EC) đã
dựa trên chính Báo cáo này để xây dựng Lộ trình phát triển các công nghệ chế tạo để các
nước thành viên của mình thực hiện.
Dự báo về cuộc Cách mạng công nghệ toàn cầu 2020 do RAND-một tổ chức của Mỹ,
chuyên nghiên cứu và phân tích các vấn đề chính sách và các giải pháp để ứng phó hữu

hiệu với những thách thức đặt ra cho nghiên cứu KH&CN, khảo sát và công bố. Khởi
thủy của công trình là vào năm 2001, với Báo cáo đưa ra, nhan đề Cuộc Cách mạng Công
nghệ Toàn cầu 2015: Sự kết năng của các công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và
công nghệ nano với công nghệ thông tin, để phục vụ cho Dự án “Các xu thế toàn cầu
2015” (Global Trends 2015) của Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ (NIC). Tháng 4/2006,
RAND lại công bố một Báo cáo tiếp theo: Cuộc Cách mạng Công nghệ toàn cầu 2020:
Phân tích sâu về các xu thế, động lực, rào cản và hàm ý xã hội của công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu, công nghệ nano và công nghệ thông tin, được hoàn thành cũng theo
sự đặt hàng của NIC, phục vụ cho Dự án” Lập bản đồ tương lai toàn cầu” của cơ quan
8


này. Đây là dự báo mới nhất của RAND về cuộc Cách mạng công nghệ toàn cầu diễn ra
hiện nay cho đến năm 2020, với những tác động KT-XH của nó và sự khác biệt giữa các
nước trên toàn cầu về khả năng chiếm lĩnh và thực hiện các ứng dụng công nghệ do cuộc
Cách mạng này đưa lại.
Các đặc khu kinh tế-công nghệ của Trung Quốc đã dựa vào các Báo cáo nói trên và đặt
hàng cho tổ chức RAND của Mỹ để đề ra những hướng công nghệ cần ưu tiên ứng dụng
và thúc đẩy từ nay tới năm 2020, nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và những
nhu cầu phát triển của Trung Quốc. RAND đã hoàn thành công trình này vao đầu năm
2009, với Báo cáo Áp dụng cuộc Cách mạng toàn cầu 2020 vào hoàn cảnh thực tiễn
Trung Quốc, trong đó khuyến nghị 7 lĩnh vực công nghệ nên được ưu tiên ứng dụng và
thúc đẩy R&D tại 2 đặc khu kinh tế-công nghệ Trung Quốc.
Tại châu Âu, Chính phủ từng quốc gia, như Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch, Hà Lan...
cũng đã tiến hành các hoạt động dự báo và lựa chọn ưu tiên để hỗ trợ việc lập kế hoạch
KH&CN quốc gia. Năm 2006, lần đầu tiên Chính phủ Đức đã phát triển một chiến lược
quốc gia toàn diện cho tất cả các Bộ thực hiện nhằm đưa đất nước lên vị trí hàng đầu thế
giới ở những thị trường quan trọng nhất trong tương lai. Tất cả các ngành có ảnh hưởng
tới R&D đều sẽ được hiệu chỉnh để hướng tới một mục tiêu đã xác định rõ ràng: đưa
chính sách đổi mới lên hàng đầu và là tâm điểm của các hoạt động của Chính phủ. Chiến

lược công nghệ cao thiết lập những mục tiêu cho 17 lĩnh vực mũi nhọn của tương lai những lĩnh vực sẽ tạo ra những việc làm mới và thịnh vượng cho đất nước - và lập ra cho
mỗi mục tiêu một lịch trình rõ ràng trên cơ sở xét đến kinh phí nghiên cứu và những điều
kiện thịnh hành. Hoạt động dự báo và lựa chọn công nghệ hiện đã được mở mang thành
những cuộc khảo sát toàn châu Âu, được EU tiến hành để phát triển Khu vực Nghiên cứu
châu Âu và cũng vươn thành những cuộc khảo sát khu vực, thường là xuyên quốc gia.
Phương pháp TF cũng được sử dụng ngày càng nhiều ở khu vực các nước thành viên
trong Diễn đàn Kinh tế châu Á-TBD (APEC). Chính phủ Hoàng gia Thái Lan đã thành
lập Trung tâm Technology Forresight của APEC có trụ sở đặt tại Bangkok, với nhiệm vụ
là truyền bá TF ra toàn khu vực, hỗ trợ và thúc đẩy các quốc gia thành viên tiến hành hoạt
động này. Trung tâm không chỉ hỗ trợ cho các nền kinh tế thành viên của APEC trong
việc tiến hành TF cho riêng từng nước, mà còn tiến hành những công trình khảo sát ở cấp
đa quốc gia. TF đã đóng góp vào phát triển chiến lược và chính sách đối với những vấn
đề rộng lớn xuyên qua ranh giới quốc gia. Một số công trình nổi bật gồm: “Cung cấp và
quản lý nước sạch”, “Công nghệ phục vụ học tập và văn hóa”, “Những siêu thành phố
lành mạnh”, “Công nghệ nano-công nghệ của thế kỷ 21”. Trung tâm đã đi tiên phong
trong lĩnh vực TF đa phương. Những tổ chức khác cũng góp phần hỗ trợ những công
trình TF đa phương gồm Viện nghiên cứu công nghệ triển vọng, có trụ sở đóng tại
Seville, Tây Ban Nha và Tổ chức Phát triển của Liên Hợp Quốc, có trụ sở đóng tại Viên,
Áo.
Nhật Bản và Hàn Quốc, với kinh nghiệm lớn về phát triển công nghiệp dựa vào công
nghệ và với những công trình khảo sát TF, đã có khả năng vạch ra những công nghệ quan
trọng tiềm tàng trong tương lai với mức độ chi tiết đáng kể, kể cả những thành tựu công
nghệ và thị trường khách quan. Năng lực này đã tăng cường rất nhiều độ chính xác và độ
tin cậy của những phát hiện trong các cuộc khảo sát Delphi, và năng lực này chỉ phát
triển được dần theo thời gian. Đây có thể được coi là một cấu phần quan trọng trong kết
cấu hạ tầng của nền kinh tế tri thức được sự hỗ trợ bởi công nghệ.
Ở Nhật Bản, cứ 4-5 năm một lần, Hội đồng Chính sách KH&CN quốc gia lại công bố
những công trình Dự báo và lựa chọn công nghệ cho Nhật Bản với tầm thời gian là 30
năm. Công trình khảo sát Delphi lần thứ 7 được công bố vào năm 2001 đề cập tới các
công nghệ tương lai của Nhật Bản tới năm 2030, phục vụ cho công tác xây dựng Kế

hoạch cơ bản về KH&CN lần thứ 2. Tổng cộng 1065 chủ đề công nghệ đã được đưa ra,
9


nằm trong 6 lĩnh vực công nghệ lớn và 16 tiểu lĩnh vực. Những công nghệ liên quan tới
thông tin, tới sự sống, tới Trái đất và môi trường đã là những công nghệ giành được ưu
tiên cao nhất để thúc đẩy R&D. Tuy nhiên, sau năm 2010, vị trí ưu tiên của những công
nghệ liên quan tới thông tin đã có sự thay đổi lớn, với sự tài trợ giảm xuống chỉ còn một
nửa. Sở dĩ như vậy vì nhiều chuyên gia tin rằng những lĩnh vực mới nổi lên khi những
công nghệ liên quan đến thông tin ngày càng trở nên mang tính cơ sở và hòa nhập cùng
với những lĩnh vực khác sẽ không còn nằm trong khung khổ “những công nghệ liên quan
đến thông tin” nữa, và do vậy làm giảm bớt tầm quan trọng của những công nghệ này.
Những công nghệ liên quan đến sự sống, Trái đất và môi trường vẫn nằm trong số những
công nghệ ưu tiên cao nhất sau năm 2010. Công trình khảo sát TF lần thứ 8 đã được hoàn
thành vào năm 2005, nhằm mục đích cung cấp thông tin cho quá trình lập Kế hoạch cơ
bản về KH&CN lần thứ ba, giai đoạn 2006-2010, tầm nhìn tới 2015. Công trình khảo sát
này gồm 4 thành phần: Công trình phân tích Delphi vẫn được thực hiện giống như những
cuộc khảo sát trước đây, nhưng còn có 3 công trình bổ sung nữa để giúp cho công tác
phân tích là: (1) Khảo sát về những nhu cầu KT-XH (tư duy về những xã hội tương lai và
những nhu cầu của chúng), (2) Khảo sát về những lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển
nhanh (để tìm những lĩnh vực công nghệ đang nổi lên thông qua quá trình phân tích cơ sở
dữ liệu các trích dẫn), và (3) Phân tích kịch bản (để tạo ra những kịch bản khác nhau dựa
trên quan điểm của những chuyên gia am hiểu sâu sắc thời cuộc). Do vậy, công trình lần
thứ 8 cung cấp một cách nhìn toàn diện về tương lai của KH&CN tới năm 2035, từ
nghiên cứu cơ bản đến tác động xã hội, từ những quan điểm mang tính chủ quan và
tiêu chuẩn đến những triển vọng mang tính khách quan và ngoại suy. Trong đợt khảo
sát Delphi lần này, 13 lĩnh vực đã được đưa ra để thăm dò ý kiến chuyên gia (gồm
CNTT-TT; điện tử; khoa học sự sống; y tế/chăm sóc sức khỏe/phúc lợi; khoa học
nông/lâm/ngư nghiệp/thực phẩm; khoa học tiên phong (không gian, đại dương và
Trái đất); năng lượng/tài nguyên; môi trường; công nghệ nano/công nghệ vật liệu;

chế tạo; kết cấu hạ tầng công nghiệp; kết cấu hạ tầng xã hội công nghệ xã hội). Xuất
phát từ nhu cầu tạo dựng những hệ thống toàn diện, tạo khả năng để công nghệ đáp
ứng các nhiệm vụ xã hội, đã bổ sung thêm lĩnh vực công nghệ xã hội. Ngoài ra, cũng
đã bổ sung thêm lĩnh vực kết cấu hạ tầng công nghiệp, bao hàm những công nghệ
không thuộc công nghiệp chế tạo để mở rộng các lĩnh vực quản lý và phân phối
trước đây, đồng thời các lĩnh vực khoa học Trái đất và khoa học không gian đã được
kết hợp vào lĩnh vực khoa học tiên phong mới. Lĩnh vực dịch vụ đã được phân bổ
vào các lĩnh vực CNTT-TT, y tế/chăm sóc sức khỏe/phúc lợi và công nghệ xã hội.
Ở Hàn Quốc, những cuộc khảo sát Delphi đã được thực hiện vào năm 1994 và 1999,
gần đây nhất là vào năm 2004. Những cuộc khảo sát này phần lớn là làm theo mô hình
của Nhật Bản, nhưng đã có một loạt chủ đề được xây dựng một cách độc lập. Trong Dự
án 1994, 1127 chủ đề công nghệ đã được đưa ra để đánh giá lựa chọn, trong đó chỉ có
25% là tương tự với những chủ đề của Nhật Bản.
Tầm nhìn 2025 là kết quả của Dự án hoàn thành vào năm 2004, đã nhận dạng 40
nhiệm vụ và đưa ra 20 khuyến nghị để giúp Hàn Quốc vươn tới một nền kinh tế tiên tiến
và thịnh vượng thông qua công cuộc phát triển KH&CN. Mục tiêu đặt ra cho 3 giai đoạn
tới 2025 là như sau:
 Giai đoạn 1 (tới 2005)
Đưa năng lực KH&CN của Hàn Quốc lên mức cạnh tranh với 12 quốc gia dẫn
đầu thế giới và vượt những nền kinh tế châu Á bằng cách huy động các nguồn lực,
mở rộng kết cấu hạ tầng công nghiệp hóa và cải tiến những luật định liên quan;
 Giai đoạn 2 (tới 2015): Trở thành trung tâm nghiên cứu của khu vực châu Á TBD,
tích cực tham gia vào các công trình nghiên cứu khoa học quốc tế và tạo lập một
10


môi trường thuận lợi để xúc tiến R&D;
 Giai đoạn 3 (tới năm 2025): Đảm bảo sức cạnh tranh KH&CN với các quốc gia
thuộc nhóm G7 ở những lĩnh vực đã lựa chọn bằng cách thúc đẩy những ngành
đặc thù.

Gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đã thực hiện những dự án TF, hỗ trợ cho việc
lập kế hoạch KH&CN và kinh tế.
Trong khoảng thời gian 2002-2005, Trung Quốc đã tiến hành Dự án TF dựa vào khảo
sát Delphi, chú trọng vào 6 lĩnh vực công nghệ: CNTT-TT, CNSH, công nghệ vật liệu,
năng lượng, môi trường và tài nguyên và chế tạo tiên tiến. Những khảo sát này đã xem
xét thời gian thực thi những công nghệ cụ thể, những hệ quả đối với kinh tế-xã hội và
môi trường, khoảng cách trình độ giữa Trung Quốc và những quốc gia dẫn đầu, cơ sở
R&D ở Trung Quốc, tác động đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao và truyền
thống. Trên cơ sở cân nhắc những tiêu chí như vậy, dự án đã nhận dạng những ưu tiên
cho nghiên cứu và đầu tư phát triển công nghệ.
Ở Ấn Độ, Hội đồng Thông tin và Đánh giá Công nghệ (TIFAC) đã xây dựng một tầm
nhìn dài hạn cho Ấn Độ tới năm 2020 ở những lĩnh vực công nghệ quan trọng đang nổi
lên. 17 lĩnh vực công nghệ đã được nhận dạng và đóng vai trò quan trọng. Phương pháp
luận được Hội đồng áp dụng bao gồm việc phân tích những động lực và xu thế, được tăng
cường thêm bởi những phương pháp luận TF khác nhau. Những báo cáo Tầm nhìn Công
nghệ 2020 đã được xuất bản năm 1996. Kể từ đó, một Chương trình được liên tục cập
nhật những báo cáo này và soạn ra những báo cáo chi tiết hơn về những phân ngành cụ
thể. Những Báo cáo gần đây nhất đã đề cập đến xu hướng phát triển của pin nhiên liệu,
chip sinh học vi mạng, chất dẻo phân hủy bằng sinh học, composit tiên tiến và cây trồng
biến đổi gen. Một số Báo cáo trong đó đề cập đến tiềm năng của những công nghệ mới.
Một số khác quan tâm nhiều hơn đến việc cung cấp cho những thị trường tiềm năng được
dự đoán là sẽ tăng trưởng mạnh ở Ấn Độ và tìm cách dỡ bỏ những rào cản có thể gây trở
ngại cho quá trình tăng trưởng.
Ở cấp tổng quát, những ưu tiên của Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ có một
mức độ gần giống nhau. Cả 4 nước đều nhấn mạnh rất nhiều đến những phát triển mới
của CNTT và các khoa học về sự sống, cùng thừa nhận về những nhu cầu và cơ hội ở
những lĩnh vực vật liệu mới, năng lượng và môi trường.
Tuy nhiên, sự chú trọng cụ thể lại hơi khác nhau giữa 4 nước, phản ánh sự khác nhau
về năng lực và giai đoạn phát triển công nghệ. Trong khi cả Trung Quốc và Ấn Độ đều
chú trọng vào phát triển tiếp công nghệ vật liệu bán dẫn và phần mềm, thì Nhật và Hàn

Quốc coi những công nghệ đó thực sự đã quá trưởng thành, bởi vậy nếu tiếp tục đầu tư
thì lợi nhuận thu được sẽ suy giảm. Cho nên, chú trọng của Nhật và Hàn Quốc phần lớn
là vào những ứng dụng mới của CNTT, chẩn đoán y học và chăm sóc sức khỏe và nhằm
giải quyết những thách thức để tăng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Tương tự, cũng có sự khác biệt rõ nét giữa sự chú trọng của Hàn Quốc vào những vật
liệu mới, chẳng hạn như bộ nhớ nguyên tử và vi cảm biến cho những hệ thống giác quan
nhân tạo với sự chú trọng của Trung Quốc vào vật liệu sắt thép xây dựng và Ấn Độ chú
trọng vào nam châm đất hiếm, gốm cấu trúc.
Công trình của các nước đều nhận dạng những phát triển mới của công nghệ năng
lượng là có tầm quan trọng, nhưng sự chú trọng lại khác nhau. Ấn Độ chú trọng vào cải
tiến công nghệ phát điện thông thường. Trung Quốc kết hợp sự quan tâm vào than, hạt
nhân và các nguồn thực vật. Nhật chú trọng vào công nghệ pin nhiên liệu, tàng trữ an
toàn phế thải hạt nhân của nhà máy điện nguyên tử, thực chất chúng đều là vấn đề môi
trường.
11


Cùng là những mối quan tâm đến môi trường, nhưng mỗi quốc gia lại có nhu cầu và sự
chú trọng khác nhau. Nhật Bản chú trọng vào cải thiện công nghệ tái chế các vật liệu sản
xuất, Trung Quốc chú trọng đến vấn đề cung cấp nước sạch và xử lý nước thải, ô nhiễm
không khí, còn Ấn Độ chú trọng hơn đến công tác quản lý tài nguyên.

II. DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN TỚI
NĂM 2020 CỦA MỸ
2.1. NHỮNG CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO ĐƯỢC ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN ĐẾN
NĂM 2020 CỦA MỸ
2.1.1. Những công nghệ để tiến hành đồng loạt tất cả các nguyên công chế tạo
(Concurrent Manufacturing)
Các công nghệ mới sẽ phải hỗ trợ cho các khái niệm tổ chức mở, có thể tạo khả năng
cho các đơn vị công tác được phân bố rộng khắp về mặt địa lý, với những thành viên

tham gia có tính đa văn hoá và đa ngành, làm việc đồng loạt và thích ứng nhanh chóng
với sự thay đổi.
Mức độ hoạt động đồng loạt trong tương lai sẽ cần đến những tiến bộ công nghệ ở 4
lĩnh vực then chốt:
(1) Năng lực lập mô hình hệ thống
Mô hình các hệ thống có khả năng tổng hợp mọi khía cạnh của một doanh nghiệp chế
tạo, sẽ đảm bảo mọi quyết định hoạt động đều góp phần vào giải pháp khả thi, thậm chí
tối ưu. Lập mô hình và mô phỏng toàn bộ doanh nghiệp chế tạo sẽ được sử dụng trong
khâu lập kế hoạch đồng thời, ở quy mô toàn doanh nghiệp và để đưa ra các quyết định
hoạt động ở thời gian thực (Real time). Mô hình các hệ thống trong tương lai sẽ cần phải
kết hợp mọi khâu chế tạo, bao gồm các thiết bị, quy trình và các phương thức mọi người
tương tác với chúng trong các hệ thống sản xuất (chẳng hạn như các giao diện người-máy
và các quy trình/phân hệ giúp nâng cao hiệu quả con người và thúc đẩy vận dụng trí tuệ.
Những vấn đề này phức tạp và bao gồm những cân nhắc về khả năng nhận thức và học
hỏi của mọi người.
(2) Phương pháp luận thiết kế kiểu môđun và có khả năng thích ứng
Để hỗ trợ việc chế tạo đồng thời, các thiết kế sẽ phải sẵn sàng thích ứng với một phạm
vi rộng các sản phẩm, quy trình và các tham số quy trình. Các phương pháp luận thiết kế
sẽ dựa vào các “thư viện”, trong đó lưu trữ những môđun thiết kế có khả năng tái sử
dụng, cân nhắc được sự phát sinh phế thải, sử dụng nguyên vật liệu và nguồn lực, chi phí
sản xuất, thời gian bảo trì và các tham số khác.
(3) Các quy trình và thiết bị có khả năng thích ứng
Ngành chế tạo theo phương thức đồng thời sẽ đòi hỏi các quy trình trong đó phải có khả
năng nhanh chóng thích ứng với nhiệm vụ chế tạo sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu thay đổi
nhanh của thị trường. Để sản xuất ra một số lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng
dựa vào cùng một dây chuyền sẽ đòi hỏi các quy trình và hệ thống phải có khả năng thích nghi,
nhanh chóng thay đổi cấu hình cho phù hợp. Việc biểu diễn bằng số (Digital Representation)
các đồ án sản phẩm sẽ phải được phát triển nhanh chóng và biến thành thành phẩm với thời
gian lắp đặt, hiệu chỉnh và sự can thiệp tối thiểu. Các thiết bị kiểu môđun sẽ được sử dụng mỗi
khi có thể, với các cấu phần phần cứng và phần mềm có khả năng tích hợp, hoạt động được

ngay (Plug and Play).
(4) Vật liệu và quy trình
Việc thực thi nhanh các sản phẩm mới sẽ đòi hỏi những quy trình phải có khả năng tạo
12


ra những vật liệu và hình dạng hoàn toàn mới. Các quy trình này có thể giúp sử dụng
được các vật liệu mới có các tính chất và cấu trúc mới. Các vật liệu cho những sản phẩm
cùng một loại có thể được tạo ra chỉ để sử dụng một lần. Các vật liệu và hình dạng mới
phù hợp với nhu cầu khách hàng sẽ đòi hỏi những quy trình có khả năng kiểm soát được
ở cấp phân tử, nhờ vậy tạo ra được những loại vật liệu tổng hợp, đáp ứng những mục đích
đặc thù. Điều này đòi hỏi phải có các năng lực lập mô hình, trên cơ sở đó có thể nhận
được các tính chất của vật liệu nhờ việc bố trí các cấu trúc nguyên tử.
Công nghệ sinh học (CNSH) sẽ tham gia vào các hệ thống, trong đó các quy trình sinh
học được sử dụng để tạo ra các vật liệu được xác định ở cấp phân tử, sau đó những vật
liệu này được sử dụng để tạo ra thành phẩm. CNSH sẽ tham dự vào những quy trình phụ
phức tạp, tương tự như những quy trình đã được dùng trong ngành công nghiệp hoá chất,
và dùng cho quá trình tăng trưởng hữu cơ.
2.1.2. Những công nghệ để giúp tích hợp các nguồn nhân lực và công nghệ
Thách thức đặt ra là tới năm 2020 phải phát triển được các công nghệ giúp nâng cao sự
đóng góp trí lực của mọi người vào công việc, cung cấp thông tin và các năng lực phối
hợp cho toàn bộ chuỗi cung cấp và giúp mọi người đưa ra các quyết định để đương đầu
với những bất định. Các công nghệ sẽ phải thực hiện được các chức năng như sau:
 Đảm bảo cho mọi người luôn học hỏi khi thực hiện nhiệm vụ;
 Cung cấp thông tin ở thời gian thực về hiện trạng của từng khâu trong chuỗi cung
cấp, từ khảo sát thị trường tới sản xuất rồi tới việc sử dụng của người tiêu dùng;
 Tạo khả năng để mọi người cộng tác chặt chẽ ở mọi khâu của chuỗi cung cấp;
 Tạo khả năng để mọi người mô phỏng được các quyết định về những phương án
hoạt động khác để đối phó với sự bất định;
 Tạo khả năng để mọi người thay đổi các quy trình và sản phẩm một cách nhanh

chóng để đáp ứng các nhu cầu thay đổi của thị trường mà không có sự tham gia
của con người vào các hoạt động thường nhật;
 Cung cấp kỹ năng và tri thức để mọi người dành thời gian cho những công
việc không thường nhật, để những công việc thường nhật cho máy móc thực
hiện;
 Cung cấp các hệ thống để vận hành hiệu quả các mạng đa văn hoá của con người
và máy móc.
Cần phải có những tiến bộ công nghệ và xã hội đáng kể để phát triển các hệ thống con
người/kỹ thuật tối ưu. Những lĩnh vực kỹ thuật được nhận dạng dưới đây là có tầm quan
trọng nhất để phát triển các hệ thống sản xuất để có thể tích hợp các nguồn lực con người
và kỹ thuật:
2.1.3. Những công nghệ thân thiện với môi trường
Các nhà chế tạo có thể nhận dạng và phát triển các quy trình giúp cải thiện được rất nhiều
mức độ tiêu thụ năng lượng, nhân lực và tài nguyên. Các xí nghiệp sẽ phải đối mặt với 2 thách
thức môi trường chủ yếu, đó là:
(a) Khắc phục khoảng cách giữa sự hiểu biết hiện nay về các tác động môi trường và các
công nghệ đã được phát triển với sự hiểu biết cần thiết về mục tiêu môi trường trong
tương lai;
(b) Thay đổi ý thức của các xí nghiệp đối với vấn đề môi trường.
Các công nghệ cần phát triển như sau:
 Lập mô hình và đánh giá rủi ro môi trường
 Các quy trình chế tạo có phát thải ở mức tối thiểu
13


Đòi hỏi phải có các phương pháp thiết kế, trong đó cân nhắc đến toàn bộ vòng đời của sản
phẩm. Các nhà chế tạo sẽ phải đánh giá việc sản xuất và tái chế ở tững công đọan trong quá
trình chuyển hóa, xem xét tát cả phế thải và phụ phẩm của quá trình để dùng chúng làm
nguyên vật liệu cho các quá trình khác. Công tác quản lý môi trường sẽ phải tận dụng ưu thế
của CNTT phân tán. Chú ý phát triển các công nghệ sản sinh ít phế thải, chẳng hạn như

phương pháp chế tạo sản phẩm có hình dạng kích thức gần như thực, xử lý sinh học và tự lắp
ráp phân tử.
 Giảm năng lượng tiêu thụ
Các quy trình khi được tối ưu hóa để giảm phất thải thì đồng thời cũng tiêu tốn ít năng
lượng hơn. Cần đặc biệt quan tâm đến khả năng thu hồi để tận dụng một lượng nhiệt lớn thải ra
từ các thiết bị/quy trình hiện nay, như lò luyện kim, thiết bị làm lạnh v.v...
2.1.4. Những công nghệ để biến thông tin thành tri thức
 Công nghệ giáo dục
Sẽ phải thực hiện những thay đổi công nghệ giáo dục và đào tạo để đáp ứng các nhu cầu về
nguồn nhân lực, vì các doanh nghiệp sẽ càng mang tính toàn cầu, đòi hỏi phải có sự thay đổi
một cách căn bản các kỹ năng nghề nghiệp, các công nghệ và quy trình chế tạo mới được áp
dụng và sự thuyên chuyển nhân lực. Đào tạo bằng máy tính sẽ ngày càng trở nên phổ biến.
Một nhiệm vụ lớn đặt ra là phải tạo được các công cụ không phụ thuộc vào ngôn ngữ và văn
hóa, để cho bất cứ ai cũng có thể sử dụng được ngay, cho dù là người đó ở đâu và xuất xứ từ
đâu.
 Công nghệ cộng tác, hội thảo từ xa và có mặt từ xa (Telepresence)
Vì các công việc và xí nghiệp sẽ phân bố rộng khắp trên toàn cầu, nên CNTT ở thời gian
thực sẽ là công cụ cộng tác hữu hiệu nhất. Sẽ phải phát triển các công cụ để cho phép tương tác
từ xa một cách dễ dàng, đơn giản và tiện lợi
Xử lý ngôn ngữ tự nhiên: Những tiến bộ trong công nghệ giáo dục và hợp tác sẽ đòi hỏi
phải có công cụ truyền thông phiên dịch được tức thời. Công nghệ này có thể được coi là sự
ngọai suy từ xu thế hiện nay, tuy nhiên, để thực hiện ở quy mô toàn cầu thì sẽ vô cùng khó
khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có những tiến bộ lớn về công nghệ.
 Các bộ lọc thông tin và tác tử trí tuệ
Những khối lượng thông tin khổng lồ, bao gồm cả những thông tin dư thừa, thông tin sai
lệch và thông in vô bổ khiến cho công tác chọn lọc, tìm kiếm và lưu trữ dữ liệu trở nên hết sức
cần thiết. Các tác tử trí tuệ, tức là các bộ lọc tri thức được “thiết kế” theo nhu cầu của từng cá
nhân sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng quá tải thông tin.
 An ninh hệ thống
Các xí nghiệp tương lai sẽ cần đến thông tin đầy đủ và chính xác. Sẽ phải phát triển các hệ

thống an ninh hiệu quả để bảo vệ thông tin, dữ liệu và tri thức. Để mất thông tin có thể gây ra
hậu quả nghiêm trọng
Các thiết bị cảm biến và dẫn động tự động để kiểm soát quy trình và thiết bị. Ví các xí
nghiệp sẽ có mức độ tự động hóa ngày càng cao, nên các quy trình và thiết bị sẽ phải được
kiểm sóat chặt chẽ để đảm bảo chất lượng cao, chi phí và phế thải ở mức thấp. Các xí nghiệp
sẽ ngày càng phải dựa nhiều vào các thiết bị cảm biến tự động, đa chức năng và có “trí thông
minh” ở tất cả các cấp quy trình và xí nghiệp.
 Lập mô hình và mô phỏng kết hợp
Các mô hình thông minh sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian và nguồn lực cho xí nghiệp.
Các mô hình xí nghiệp được kiểm định và kết hợp dựa trên những thông tin được cập nhật sẽ
giúp tất cả mọi người ở các cấp khác nhau đưa ra quyết định tốt hơn và nhanh chóng hơn.
Những mô hình này đòi hỏi phải hoàn thiện CNTT-TT, gồm công nghệ hiển thị, tốc độ tính
toán, tốc độ truyền thông và giao diện người dùng.
2.1.5. Những công nghệ để tạo khả năng thay đổi cấu hình
14


 Thay đổi cấu hình doanh nghiệp
Những công nghệ tạo khả năng để thay đổi cấu hình doanh nghiệp bao gồm các công cụ
pháp lý, chẳng hạn như các hợp đồng mẫu, các mô hình về các nhân tố KT-XH định tính, các
mối quan hệ tổ chức và nhân lực, các CNTT (những ứng dụng tin học và truyền thông).
Các công nghệ phần mềm có thể được nhóm lại thành một phần mềm tích hợp để hỗ trợ kế
hoạch chung, từ khâu phát triển khái niệm đến khâu vận hành, bao gồm: các thuật ngữ chuẩn
để mô tả liên minh; lập mô hình hệ thống toàn doanh nghiệp các môđun mô phỏng để bao hàm
các nhân tố pháp lý, KT-XH định tính và các mối quan hệ tổ chức/nhân lực; các công cụ phân
tích lý thuyết. Nền phần mềm này sẽ hướng dẫn liên minh kinh qua các giai đoạn hoạt động và
cung cấp phương tiện mô phỏng các tác dụng tiềm năng của các quyết định. Các công nghệ
truyền thông sẽ bao gồm các tiêu chuẩn thống nhất để trao đổi thông tin, các cơ chế đơn giản
để tiến hành hội thảo từ xa, các giao thức mạng lưới đặc thù cho các nhu cầu của liên minh.
 Thay đổi cấu hình tổ chức

Thành lập và giải thể các nhóm ở trong một tổ chức không khác nhiều lắm so với việc thành
lập/giải thể các liên minh và đều đưa lại những vấn đề tương tự. Các tổ chức sẽ được lợi nếu
vận dụng lý thuyết nhóm (những thành viên có các mục tiêu chung), hơn là lý thuyết trò chơi
(những thành viên có các mục tiêu khác nhau, có thể mâu thuẫn nhau). Các nhóm trong một tổ
chức sẽ có khuynh hướng chú trọng vào một loại sản phẩm/họ sản phẩm và sẽ cần các năng
lực lập mô hình, thiết kế và mô phỏng.
 Thay đổi cấu hình các nguyên công chế tạo
Để sản xuất các sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu người dùng, cần phải nhanh chóng
thay đổi cấu hình các nguyên công chế tạo, với những năng lực như sau:
 Tạo được mô hình hệ thống cho tất cả các nguyên công;
 Có được những hiểu biết cơ bản về các quy trình sản xuất;
 Có được các công nghệ tổng hợp và kiến trúc để biến thông tin thành tri thức;
 Có được các phương thức và giao thức truyền thông thống nhất để trao đổi thông tin;
 Có được các giao diện giữa máy và người dùng để nâng cao hiệu quả làm việc;
 Có được các quy trình và hệ thống sản xuất thích ứng và tái cấu hình (chẳng hạn như
các quy trình tổng hợp sinh học và các quy trình tạo hình linh hoạt, có khả năng lập
trình và có kích thước chính xác, không đòi hỏi phải có các máy móc gia công tinh).
 Có công nghệ cảm biến để kiểm soát chính xác quy trình.
Tái cấu hình các nguyên công sản xuất sẽ bao hàm những khái niệm và công nghệ khác với
trường hợp tái cấu hình doanh nghiệp hoặc tổ chức. Ở đây, mục tiêu đặt ra là tạo khả năng
thích ứng cho các nguyên công sản xuất để tạo ra những thay đổi nhanh chóng ở sản phẩm,
hoặc thậm chí chế tạo ra các sản phẩm khác. Để thực thi một xí nghiệp có khả năng tái cấu
hình cần phải có các công cụ có thể kết hợp được các nguyên công cơ bản theo những cách
thức linh hoạt để tạo ra một loạt các quy trình, giống như cách mà các từ gốc được kết hợp với
nhau bằng những cú pháp linh hoạt để sản ra vô số các chương trình phong phú trong ngôn
ngữ. Khả năng tái cấu hình theo cách thức này vượt xa mức độ tái cấu hình bằng cách sắp
xếp/bố trí lại các thiết bị.
2.1.6. Những công nghệ để giúp phát triển những quy trình mới
Tới năm 2020, những quy trình và năng lực mang tính cách mạng sẽ được tạo ra bởi những
công nghệ mà hiện nay mới ở giai đoạn phát triển ban đầu. Một trong những công nghệ hứa

hẹn là phương pháp kết tủa vật liệu trực tiếp, giống như quy trình được sử dụng để chế tạo
nguyên mẫu nhanh. Mặc dù đã đạt được những kỳ tích lớn, nhưng quy trình này chưa sử dụng
được để chế tạo các chi tiết. Để thực hiện được điều đó, cần có 2 đột phá:
(1) Khả năng sử dụng các quy trình với những vật liệu được dùng làm các chi tiết cần sản
xuất,
15


(2) Cần tăng tốc độ của quá trình lên rất cao.
Hai công nghệ khác có thể giúp đưa lại những quy trình mang tính cách mạng để chế tạo
các chi tiết sản phẩm là CNNN và CNSH. Cả hai công nghệ này đều đòi hỏi có những bước
đột phá lớn để có thể ứng dụng trong thực tiễn chế tạo.
CNNN có thể đem lại khả năng chế tạo các cấu trúc mới dựa trên việc kiểm soát chính xác
đối với kiến trúc vật liệu ở cấp phân tử hoặc nguyên tử. Để có khả năng tổ chức vật liệu ở cấp
nano, cần phải có các phương pháp lắp ráp phân tử. Công nghệ chế tạo ở cấp nano bao gồm
những loại quy trình sau đây:
 Gia công ở cấp nano (trong phạm vi 0,1-100 nano) để tạo ra các cấu trúc nano bằng
cách bổ sung hoặc rút bớt vật liệu từ các cấu phần vĩ mô;
 Chế tạo ở cấp phân tử để tạo dựng các hệ thống từ cấp nguyên tử hoặc phân tử.
Các quy trình sản xuất sinh học đều diễn ra ở các điều kiện môi trường bình thường và ít
sinh ra phế thải. Các hệ thống sinh vật rất thành thạo trong việc kiểm soát chính xác đối với các
quy trình tổng hợp và lắp ráp ở cấp phân tử để tạo ra một loạt các cấu phần mà chỉ cần đến một
số lượng hạn chế các vật liệu hợp phần. Một số các quy trình sinh học có thể đưa lại những
bước tiến có tính cách mạng cho ngành chế tạo gồm:
 Các phương pháp tổng hợp sinh học để tạo ra các polyme protein bằng kỹ thuật gen;
 Các quy trình tự lắp ráp, dựa trên tác nhân bề mặt sinh học, có hiệu quả ở phạm vi 11000 nano;
 Các phương pháp tổng hợp, liên kết và quy trình tự lắp ráp để tạo ra các cấu trúc định
hướng và chức năng;
 Cấp tế bào và kỹ thuật mô để tạo khả năng sản xuất trong ống nghiệm da và màng;
2.2. CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ TOÀN CẦU 2020

2.2.1. Các xu hướng công nghệ
Có một số xu hướng quan trọng liên quan tới công nghệ đang tạo ra ảnh hưởng lớn đến toàn
cầu. Những xu hướng đó chịu sự chi phối của các công nghệ đang nổi lên hiện nay, bao gồm
công nghệ sinh học (CNSH), công nghệ nano (CNNN), công nghệ vật liệu (CNVL) và công
nghệ thông tin (CNTT). Những ảnh hưởng này là khác nhau và bao hàm các yếu tố xã hội,
chính trị, kinh tế, môi trường v.v… ở nhiều trường hợp, tầm quan trọng của những công nghệ
này đều phụ thuộc vào tính kết năng xảy ra nhờ sự kết hợp của các tiến bộ với nhau, cũng như
quan hệ tương tác lẫn nhau của chúng.
Những tiến bộ của các lĩnh vực công nghệ trên đang kết hợp với nhau, đem lại những sản
phẩm với những ảnh hưởng ở quy mô toàn cầu trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và an
ninh của từng người cũng như của cả cộng đồng, các hệ thống kinh tế và xã hội, kinh doanh và
thương mại. Cuộc cách mạng công nghệ đang nổi lên này, cùng với quá trình toàn cầu hoá
đang diễn ra, một mặt đem lại khả năng kéo dài tuổi thọ, phát triển kinh tế, nâng cao mức sống,
nhưng mặt khác cũng làm nảy sinh những khó khăn mới liên quan đến vấn đề bí mật cá nhân
và đạo đức. Đã có nhiều lập luận cho thấy rằng việc tăng tốc độ thay đổi công nghệ có thể làm
rộng thêm hố ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Tuy nhiên, sự tăng cường kết nối toàn cầu cũng có thể tạo phương tiện để nâng cao giáo dục
và năng lực công nghệ ở địa phương, giúp cho các vùng nghèo khó và kém phát triển cũng có
thể tham gia và được hưởng lợi ích của các tiến bộ công nghệ.
Những ảnh hưởng mang tính cách mạng này làm phát sinh nhiều vấn đề. Cần phải khẩn
trương giải quyết tất cả những mối quan tâm và những quyết định khác nhau liên quan tới đạo
đức, kinh tế, luật pháp, môi trường, an ninh và nhiều vấn đề xã hội khác, vì mọi ngưòi trên
khắp thế giới sắp tới sẽ phải chịu ảnh hưởng của những xu hướng công nghệ đối với cuộc sống
và nền văn hoá của mình. Những vấn đề quan trọng nhất bao gồm tính bí mật, sự cách biệt
16


kinh tế, những đe doạ đối với văn hoá (kể cả những phản ứng), và đạo đức sinh học. Đặc biệt,
những vấn đề như ưu sinh học, nhân bản vô tính ở người và biến đổi gen đã dấy lên những
phản ứng mạnh mẽ nhất liên quan đến đạo đức. Hiểu được những vấn đề đó rất phức tạp vì

chúng vừa là động lực dẫn đến những hướng đi mới, vừa ảnh hưởng lẫn nhau theo những cấp
bậc khác nhau. Mọi công dân và những nhà làm quyết định đều phải trang bị những thông tin
về công nghệ, lắp ráp và phân tích những mối tương tác phức tạp để thực sự hiểu được cuộc
tranh luận đang diễn ra xoay quanh những công nghệ đó. Những bước đi như vậy sẽ giúp tránh
được việc đưa ra những quyết định ấu trĩ, phát huy được tối đa lợi ích của công nghệ và nhận
dạng được những điểm ngoặt, tại đó những quyết định có thể đem lại ảnh hưởng cần thiết mà
không bị phủ định bởi vấn đề chưa được phân tích.
Sự hứa hẹn của công nghệ hiện nay đã được minh chứng và sẽ còn tiếp tục khẳng định. Nó
sẽ có những ảnh hưởng rộng khắp trên toàn cầu. Nhưng những ảnh hưởng của cuộc cách mạng
công nghệ sẽ không đồng nhất và sẽ có tác dụng khác nhau tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận, mức độ
đầu tư và nhiều quyết định khác nữa. Tuy nhiên sẽ không có gì đảo lộn được xu thế này, quá
trình toàn cầu hoá sẽ làm thay đổi hoàn cảnh của mỗi nước. Thế giới đang lao vào công cuộc
biến đổi, khi những tiến bộ phát huy tác dụng ở phạm vi toàn cầu.
Các hướng phát triển của công nghệ
Các hướng phát triển
Công nghệ cũ
Kim loại và gốm
Kỹ thuật và sinh học
tách biệt
Sinh sản chọn lọc
Tích hợp quy mô nhỏ
Phép in lito cấp micron
Máy tính lớn

Công nghệ hiện nay
Composit và polyme
Vật liệu sinh học

Công nghệ trong tương lai
Vật liệu thông minh

Kỹ thuật gen/sinh học

Biến nạp gen
Tích hợp quy mô lớn và rất lớn
Phép in lito ở cấp nhỏ hơn micron
Máy tính cá nhân

Máy tính riêng lẻ

Máy tính kết mạng

Kỹ thuật gen
Tích hợp siêu lớn
Lắp ráp ở cấp nano
Máy tính nhỏ kết hợp vào
mọi vật dụng
Những máy nhỏ và mạng
hỗ trợ

Các xu hướng lớn
Đơn ngành
Các hệ vĩ mô
Địa phương
Vật chất

Các ngành song hành/phân cấp
Các hệ vi mô
Khu vực
Thông tin


Đa ngành
Các hệ nano
Toàn cầu
Tri thức

Những sản phẩm CNTT dưới đây được coi là khả thi vào năm 2020:
 Mạng Internet không dây phổ biến trên toàn thế giới, phục vụ cho tầng lớp trung lưu và
thượng lưu, kể cả các nước đang phát triển và các vùng nông thôn;
 Các máy tính mang trên người (Wearable Computer) được tăng cường để kiểm soát các
thiết bị y tế và các hệ thống giải trí;
 Các cơ sở dữ liệu lớn (hy vọng có độ an toàn cao), chứa đựng thông tin cá nhân, chẳng
hạn như lịch sử và các lượng thông tin đã được xem và xử lý, cũng như các thông tin
khác như tiểu sử bệnh tật, thông tin hệ gen…;
 Các thiết bị lưu trữ kích thước nhỏ, giá rẻ dùng để lưu trữ các khối lượng dữ liệu lớn,
chẳng hạn như âm thanh, hình ảnh và các trang web;
 Năng lực tìm kiếm ngày càng được cải thiện để định vị không chỉ những câu văn bản, mà
17


cả các câu ngữ nghĩa, tranh ảnh và video;
 Các thẻ FRID dùng để theo dõi hàng hoá mua bán, mô thức mua sắm của người dùng,
thậm chí cả động thái cá nhân phục vụ mục đích an ninh và quảng cáo;
 Sinh trắc học (chẳng hạn như vân tay, mống mắt/võng mạc) được ứng dụng rộng khắp để
đảm bảo an ninh (kể cả việc tiếp cận với máy tính, địa điểm và dịch vụ thương mại);
 Các mạng cảm biến và camera sẽ có mặt ở khắp nơi, ngày càng có kích thước nhỏ, khó
phát hiện.
Những ứng dụng CNSH khả thi về kỹ thuật vào năm 2020
 Thực hiện nhiều xét nghiệm sinh học khác nhau cùng một lúc ở trên một mẫu, tạo khả
năng nhận dạng phân tích nhanh từ những khối lượng rất nhỏ, phục vụ cho chẩn đoán
bệnh và đánh giá pháp lý;

 Kỹ thuật y tế được tiến hành phù hợp với từng cá nhân, dựa vào các cơ sở dữ liệu lớn về
thông tin bệnh nhân và tình trạng bệnh tật, cũng như khả năng lập chuỗi gen một cách
nhanh chóng và song song;
 Phát triển được các loài côn trùng biến đổi gen (GM), chẳng hạn như các loài sâu sản
sinh ra những loài vô sinh, hoặc không truyền bệnh;
 Có được năng lực rộng khắp để biến đổi gen các cây lương thực chủ yếu, có tác động
mạnh tới đời sống ở các nước đang phát triển;
 Có khả năng thiết kế và thử nghiệm các loại thuốc mới dựa trên phương pháp mô phỏng
bằng máy tính, cũng như có khả năng thử nghiệm các ảnh hưởng phụ có hại dựa trên các
hệ thống mô hình được lắp ráp trên các chip máy tính (Phòng thí nghiệm trên con chip);
 Khả năng phóng nạp thuốc vào đúng các bộ phận hoặc khối u, dựa trên việc nhận biết
phân tử;
Các bộ phận giả và cấy ghép có tính năng mô phỏng các chức năng sinh học, phục hồi các
chức năng quan trọng cho các bộ phận hoặc mô hiện có, hoặc thậm chí tăng cường thêm cho các
chức năng đó.
Những vật liệu mới được coi là khả thi vào năm 2020
Căn cứ vào sự phát triển của khoa học, kỹ thuật vật liệu và công nghệ chế tạo, những loại vật
liệu dưới đây là khả thi vào năm 2020:
 Các loại vải có kết hợp nguồn điện, mạch điện tử và sợi quang;
 Các loại vải có khả năng phản ứng với kích thích bên ngoài, chẳng hạn như sự thay đổi
nhiệt độ, hoặc các chất đặc biệt;
 Chế tạo theo nhu cầu đối với các chi tiết và sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân và các
đặc trưng mà doanh nghiệp cần có;
 Áp dụng rộng rãi các phương pháp chế tạo thân thiện với môi trường, giảm đáng kể việc
áp dụng các vật liệu độc hại;
 Các chất phun phủ và vật liệu composit có kết cấu nano, giúp tăng cường độ bền, độ
cứng, độ chịu mòn;
 Các mạch/linh kiện điện tử hữu cơ, giúp tăng cường độ ánh sáng của đèn và màn hình;
 Các pin mặt trời diện rộng được chế tạo từ vật liệu composit có chứa vật liệu kết cấu
nano, vật liệu hữu cơ và vật liệu phỏng sinh học;

 Các hệ thống tinh chế và khử ô nhiễm nước, dựa vào các màng và bộ lọc hoạt hoá có kết
cấu nano;
 Các chất xúc tác hoá học, được thiết kế trên cơ sở kết hợp giữa kỹ thuật tính toán nhanh
với sàng lọc vật liệu;
 Các mô đa chức năng được tạo ra để nuôi cấy trong cơ thể từ các khung (Scaffold) tự
phân huỷ.
18


Những sản phẩm CNNN được coi là khả thi vào năm 2020
 Những cảm biến hóa chất và sinh học mới, kích thước nhỏ, có độ nhạy và chọn lọc cao;
 Các nguồn điện có điện lượng và khả năng quản lý cao;
 Các cảm biến được mang trên người, đặc biệt có ích cho các chiến binh và lực lượng cứu
hộ khẩn cấp;
 Các thiết bị tính toán được lắp đặt vào bên trong các hàng hoá thương mại (hiện đã thực
hiện và sẽ trở nên phổ biến hơn);
 Các thiết bị theo dõi sức khoẻ cá nhân được mang trên người, có khả năng truyền thông
và ghi lại dữ liệu;
 Các cơ cấu nano chức năng để phóng nạp thuốc có kiểm soát và tăng hiệu quả của các
thiết bị cấy ghép/các bộ phận giả;
 Năng lực theo dõi và giám sát rộng khắp đối với con người và môi trường.
2.2.2. Cuộc cách mạng công nghệ và các quốc gia
Trong 15 năm tới, tốc độ của những thay đổi có thể sẽ tăng nhanh nên những phản ứng của
các cộng đồng đối với công nghệ và ảnh hưởng của công nghệ đối với văn hoá có thể sẽ gây ra
nhiều va chạm hơn. Mặc dù có quy mô lớn, nhưng cuộc cách mạng công nghệ này sẽ không
diễn ra đồng đều trên toàn cầu. Có ứng dụng công nghệ, dù về mặt kỹ thuật có khả năng thực
hiện vào năm 2020, nhưng không phải quốc gia nào cũng đều có thể có được nó và đưa vào sử
dụng một cách rộng rãi trong cùng một khoảng thời gian. Trình độ thích hợp về năng lực
KH&CN là yêu cầu tiên quyết đối với nhiều lĩnh vực ứng dụng công nghệ tinh xảo.
Ngoài ra, khả năng đạt được một ứng dụng công nghệ cũng không có nghĩa là khả năng thực

hiện được nó. Tiến hành nghiên cứu hay nhập khẩu bí quyết là một bước cần thiết ban đầu.
Nhưng việc thực hiện thành công ứng dụng công nghệ còn phụ thuộc vào các động lực chi phối
trong một đất nước có khả năng khuyến khích đổi mới công nghệ và các rào cản trên con đường
đi của nó. Các động lực và rào cản đó bao gồm thể chế, con người, cơ sở vật chất của một đất
nước; các nguồn lực tài chính của nước đó và cả môi trường văn hóa, xã hội và chính trị. Từng
yếu tố trong đó đóng một vai trò trong việc quyết định khả năng của một nước có thể đưa được
một ứng dụng công nghệ mới đến tay người sử dụng, làm cho họ có thể nắm bắt được và hỗ trợ
sử dụng rộng rãi.
Công nghệ của năm 2020 sẽ kết hợp những phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau
theo hướng có thể làm chuyển biến chất lượng cuộc sống của con người, kéo dài tuổi thọ, làm
thay đổi diện mạo của công việc, ngành công nghiệp và tạo nên những sức mạnh kinh tế và
chính trị mới trên vũ đài toàn cầu.
2.2.3. Một số ứng dụng công nghệ quan trọng vào năm 2020
RAND dự báo có 56 công nghệ sẽ được ứng dụng vào năm 2020, trong đó có 16 ứng dụng
dưới đây được cho là có tiềm năng thương mại rộng lớn, yêu cầu thị trường cao và tác động tới
nhiều lĩnh vực cùng một lúc như nguồn nước, thực phẩm, đất đai, dân số, điều hành, cấu trúc xã
hội, năng lượng, sức khỏe, phát triển kinh tế, giáo dục, quốc phòng, môi trường,...
. Năng lượng mặt trời giá rẻ: Các hệ thống năng lượng mặt trời có giá thành đủ rẻ để có thể
áp dụng rộng rãi cho các nước phát triển và đang phát triển, cũng như các cộng đồng dân cư còn
thiệt thòi về mặt kinh tế.
. Truyền thông vô tuyến ở các vùng nông thôn: Áp dụng rộng rãi kết nối điện thoại và Internet
không cần cơ sở hạ tầng kết nối mạng bằng dây dẫn.
. Các thiết bị liên lạc phục vụ cho truy cập thông tin ở khắp mọi nơi: Các thiết bị thông tin liên
lạc và lưu trữ, hữu tuyến và vô tuyến, tạo ra khả năng truy cập nhanh tới các nguồn thông tin tại
bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời điểm nào. Bằng việc vận hành các giao thức liên lạc chéo và lưu
19


trữ dữ liệu, các thiết bị này có khả năng lưu trữ không chỉ các văn bản mà cả các siêu văn bản
với các hình thức thông tin kết cấu theo lớp, hình ảnh, giọng nói, âm nhạc, video và các đoạn

phim.
. Cây trồng biến đổi gen (GM): Các loại thực phẩm kỹ thuật gen với các giá trị dinh dưỡng
cao (ví dụ như có bổ sung các vitamin và các chất vi lượng), sản lượng gia tăng (bằng cách lai
tạo các giống cây phù hợp các điều kiện của từng địa phương) và giảm liều lượng thuốc trừ sâu
(do có sức đề kháng côn trùng gia tăng).
. Xét nghiệm sinh học nhanh: Các xét nghiệm có thể thực hiện rất nhanh và đôi khi ngay tức
thì nhằm kiểm tra về sự hiện diện hay thiếu vắng các hợp chất sinh học cụ thể.
. Các bộ lọc và xúc tác: Các kỹ thuật và thiết bị lọc, làm tinh khiết và khử chất ô nhiễm nước
hiệu quả và đáng tin cậy có thể sử dụng rộng rãi và phổ biến tại các địa phương.
. Dẫn thuốc theo mục tiêu: Các phép trị liệu bằng thuốc có thể tấn công các khối u hay các
mầm bệnh cụ thể mà không gây tổn hại tới các mô và tế bào mạnh khỏe.
. Nhà ở tự quản rẻ tiền: Nhà ở tự cung và tự cấp, cho phép người ở có thể thích nghi với các
điều kiện của địa phương và có đủ năng lượng để sưởi ấm, làm lạnh và nấu nướng.
. Sản xuất công nghiệp xanh: Các quy trình sản xuất được thiết kế lại nhằm loại bỏ hoặc giảm
phần lớn các luồng chất thải và giảm lượng sử dụng các nguyên liệu độc hại.
. Thẻ nhận dạng tần số vô tuyến (RFID) trên các sản phẩm thương mại và cá nhân: Sử dụng
rộng rãi các thẻ RFID để theo dõi các sản phẩm bán lẻ, từ nơi sản xuất cho đến nơi bán hàng và
xa hơn, cũng như để theo dõi các cá nhân và sự di chuyển của họ.
. Xe hơi sử dụng động cơ lai: Các loại xe hơi được ứng dụng các động cơ kết hợp sử dụng
động cơ đốt trong với các nguồn nhiên liệu khác, có khả năng phục hồi năng lượng trong khi
hãm phanh.
. Thiết bị cảm biến có mặt khắp nơi: Các bộ cảm biến được lắp đặt tại hầu hết các khu vực
công cộng và các hệ thống dữ liệu cảm biến giúp thực hiện cho sự giám sát ngay trong thời gian
thực.
. Kỹ thuật mô: Thiết kế và tạo ra các mô sống phục vụ cho việc cấy ghép và thay thế.
. Các phương pháp chẩn đoán và phẫu thuật được cải tiến: Các công nghệ cải tiến độ chính
xác của công việc chẩn đoán và làm tăng đáng kể tính chính xác và hiệu quả của các ca phẫu
thuật, trong khi giảm được sự can thiệp và thời gian hồi phục.
. Máy tính mang trên người: Các thiết bị máy tính có thể được gắn trong quần áo hay các đồ
vật mang theo người như túi xách, ví tiền, đồ trang sức.

. Mật mã lượng tử: Các phương pháp cơ học lượng tử mã hóa các thông tin phục vụ cho việc
di dời an toàn.
2.2.4. Năng lực của các quốc gia trong việc gặt hái ích lợi của công nghệ
Sự truyền bá toàn cầu của một ứng dụng công nghệ không mang tính phổ quát, tức là không
phải quốc gia nào trên thế giới cũng sẽ có thể thực hiện được hay thậm chí là chiếm lĩnh được tất
cả các ứng dụng công nghệ vào năm 2020. Trình độ năng lực KH&CN trực tiếp có thể khác
nhau đáng kể từ nước này so với nước khác. Bên trong các khu vực địa lý, các nước cũng có
những khác biệt đáng kể, chi phối khả năng của họ. Những khác biệt đó có thể bao gồm những
khác nhau về độ lớn, các điều kiện tự nhiên (như khí hậu) và vị trí (ví dụ gần biển và nguồn
nước). Quy mô lớn về dân số và các đặc điểm nhân khẩu học (như tỷ lệ sinh đẻ) có thể khác
nhau đáng kể giữa các nước trong cùng một khu vực. Các nước còn có các loại hình Chính phủ,
hệ thống kinh tế và trình độ phát triển kinh tế rất khác nhau.
RAND đã chọn ra 29 quốc gia không chỉ đại diện cho các khu vực địa lý lớn trên thế giới, mà
còn đại diện cho cả những khác biệt đặc trưng giữa các nhóm nước.
20


Có 7 trong số 29 nước lựa chọn được coi là có trình độ “Tiên tiến về khoa học” đến năm
2020. Các nước này sẽ gần như chắc chắn có đủ trình độ năng lực KH&CN để thực thi được tất
cả 16 ứng dụng công nghệ hàng đầu vào năm 2020. Mỹ và Canada thuộc khu vực Bắc Mỹ, Đức
thuộc Tây Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản thuộc châu Á, ở châu Đại dương có Ôxtrâylia và Ixraen
thuộc Trung Đông là những nước nằm trong nhóm này.
Bốn trong số 29 nước được xếp vào hạng “Thành thạo về khoa học” đến năm 2020. Họ sẽ có
một năng lực KH&CN đủ để thực hiện được 12 trong số 16 ứng dụng công nghệ hàng đầu đến
năm 2020. Đó là các nước Trung Quốc và Hàn Quốc ở châu Á, Ba Lan và Nga ở châu Âu.
Bảy trong số 29 nước được xếp vào hạng “Đang phát triển về khoa học” đến năm 2020. Đến
năm 2020, họ sẽ đạt được một trình độ KH&CN đủ để có thể chiếm đoạt 9 trong số 16 ứng dụng
công nghệ hàng đầu. Đó là các nước Chile, Braxin, Colombia thuộc vùng Nam Mỹ, Mêhicô ở
Bắc Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu, Inđônêxia ở châu Á và Nam Phi.
11 nước còn lại được xếp vào hạng “Lạc hậu về khoa học” vào năm 2020. Họ sẽ chỉ có đủ

trình độ để có được 5 trong số 16 ứng dụng công nghệ nêu trên đến năm 2020.
Các nước với việc chiếm lĩnh được 16 ứng dụng công nghệ hàng đầu đến năm 2020:
Trình độ năng lực khoa học
Công nghệ ứng dụng
cần thiết của các nước
Thấp
Năng lượng mặt trời giá thành rẻ
Truyền thông vô tuyến ở các vùng nông thôn
Cây trồng GM
Các thiết bị lọc và xúc tác
Nhà ở tự quản giá rẻ
Trung bình
Xét nghiệm sinh học nhanh
Sản xuất công nghiệp xanh
Thẻ nhận dạng tần số vô tuyến (RFID)
Xe hơi động cơ lai ghép
Cao
Phóng nạp thuốc đúng mục tiêu
Các phương pháp chẩn đoán và phẫu thuật cải tiến
Mật mã lượng tử
Rất cao
Truy cập thông tin ở khắp mọi nơi
Kỹ thuật mô
Thiết bị cảm biến có mặt khắp nơi
Máy tính mang trên người

III. DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN TỚI 2020
CỦA TRUNG QUỐC
3.1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG DỰ ÁN THỰC HIỆN CHO NHỮNG TẦM SỚM HƠN
Là một quốc gia đang phát triển, công tác dự báo và lựa chọn công nghệ ở Trung Quốc đã

trải qua quá trình từ học hỏi phương pháp đến thực tiễn nghiên cứu. Trong giai đoạn chuyển
dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường việc áp dụng kỹ thuật dự
báo trong quá trình đề ra quyết định chiến lược hiện đã được khởi động xuyên suốt một số chủ
đề đặc biệt, chẳng hạn như dân số, tài nguyên, năng lượng, giao thông, kinh tế công nghiệp và
phát triển xã hội, KH&CN.
Trong thập kỷ 90, 2 Dự án nghiên cứu dự báo đã được thực hiện. Dự án “Lựa chọn những
21


công nghệ trọng yếu quốc gia” được tiến hành năm 1992 và hoàn thành năm 1995. Bốn lĩnh
vực công nghệ, bao gồm CNTT, CNSH, công nghệ chế tạo máy và vật liệu mới đã được khảo
sát bởi một tập thể gồm 600 chuyên gia. Sau khi khảo sát và thảo luận, 24 lĩnh vực công nghệ
và 124 chủ đề công nghệ đã được chọn là trọng yếu đối với quốc gia. Kết quả của Dự án này
đã được dùng làm căn cứ tham khảo cho công tác lập kế hoạch KH&CN quốc gia 5 năm lần
thứ 9 của Trung Quốc. Năm 1999, một Dự án khác, “Dự báo công nghệ của những ngành
kinh tế ưu tiên của Trung Quốc”, đã được thực hiện cho những lĩnh vực nông nghiệp, CNTT
và chế tạo.
Dự án dự báo và lựa chọn công nghệ tới năm 2015
Trong thời gian từ 2002-2003, Trung Quốc đã tiến hành Dự án dự báo công nghệ quốc gia,
dưới sự lãnh đạo của Bộ KH&CN (MOST). Dự án này đã dựa vào kết quả phân tích những
nhu cầu phát triển KT-XH của Trung Quốc. Mục tiêu chung của Dự án là đưa ra những nhóm
công nghệ có tầm quan trọng chiến lược trong những lĩnh vực công nghệ cao và mới để phục
vụ công tác xây dựng kế hoạch phát triển KH&CN quốc gia giai đoạn 2006-2015.
Các cuộc điều tra khảo sát đã bao quát 3 lĩnh vực gồm CNTT-TT, khoa học về sự sống và
CNSH và công nghệ vật liệu mới. Những nhiệm vụ chính đặt ra là:
 Phân tích những nhu cầu phát triển KT-XH;
 Nghiên cứu xu hướng phát triển công nghệ trong 10 năm tới;
 Chú trọng vào những công nghệ/kỹ thuật trọng yếu.
Phương pháp Delphi đã được áp dụng trong các cuộc điều tra khảo sát. Quá trình khảo sát
thảo luận gồm sự tham gia của hệ thống chuyên gia tư vấn (mạng lưới chuyên gia ở những lĩnh

vực nghiên cứu khác nhau) và hệ thống điều tra dự báo.
Hệ thống điều tra dự báo gồm một nhóm nghiên cứu đại cương (gồm 15 chuyên gia) và 2
nhóm nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ cao (mỗi nhóm gồm 20 chuyên gia). Những bộ của
hệ thống chuyên gia tư vấn được lực chọn dựa trên sự đề cử của những thành viên của 3 nhóm
nghiên cứu công nghệ cao.
Danh sách chủ đề công nghệ ban đầu là danh sách do 3 nhóm công nghệ cao đề ra, sau đó
được 3 nhóm công nghệ cao thảo luận cùng với nhóm nghiên cứu đại cương, có sự tư vấn với
kế hoạch KH&CN 863 và một số tiến bộ KH&CN thế giới.
Danh sách chủ đề công nghệ sơ bộ được dùng để tiến hành khảo sát Delphi bao gồm
218 chủ đề. 2 vòng khảo sát Delphi đã được thực hiện. Phiếu điều tra gồm 16 câu hỏi như
sau:
 Mức độ của tri thức;
 Mức độ quan trọng đối với quốc gia;
 Khoảng cách với các quốc gia dẫn đầu;
 Cơ sở R&D của quốc gia;
 Phương cách phát triển;
 Quyền sở hữu trí tuệ trong 5 năm tới;
 Tác dụng thúc đẩy những ngành kỹ thuật cao;
 Tác dụng thúc đẩy và tái xây dựng các ngành truyền thống;
 Ảnh hưởng tới môi trường và tài nguyên;
 Triển vọng đưa lên quy mô công nghiệp (công nghiệp hóa);
 Triển vọng cạnh tranh quốc tế để xuất khẩu;
22


 Những phí tổn để công nghiệp hóa;
 Thời gian để thực thi công nghiệp hóa;
 Tác dụng nâng cao điều kiện sống;
 Các biện pháp hiệu quả mà Chính phủ phải đưa ra;
 Những đề xuất khác.

Một số phát hiện quan trọng của Dự án là như sau:
Những lĩnh vực công nghệ Trung Quốc có thế mạnh gồm:
 Công nghệ xử lý thông tin;
 Công nghệ 3G;
 Thiết kế hệ thống siêu máy tính;
 Công nghệ an ninh mạng;
 Hệ điều hành môi trường điện toán nối mạng;
 Công nghệ biến đổi gen thực vật;
 Chất phản ứng phát hiện nhanh những bệnh truyền nhiễm chính;
 Vật liệu sắt thép tiên tiến, có tính năng cao, giá hạ;
 Vật liệu kết cấu nhiệt độ cao (siêu hợp kim);
 Công nghệ phiến bán dẫn đơn tinh thể, đường kính dài;
 Lò phản ứng áp lực cao, công suất lớn (triệu kW);
 Các hệ thống đảm bảo an toàn lưới điện quy mô lớn;
 Công nghệ truyền tải điện đường dài sử dụng siêu tụ điện;
 Những nguyên tắc tạo quặng ở các hệ địa chất;
 Thiết kế và chế tạo nhà máy điện hạt nhân công suất lớn (triệu kW)
Những công nghệ có nhiều tác động tới KT-XH và môi trường gồm:
Tác động mạnh tới nền kinh tế
 Những vật liệu xây dựng mới;
 Công nghệ chế biến nông sản và sản xuất thực phẩm chức năng;
 Vật liệu sắt thép tiên tiến, có tính năng cao, giá hạ;
 Chất phản ứng phát hiện nhanh những bệnh truyền nhiễm chính;
 Mạng cục bộ đô thị-sàn cung cấp dịch vụ kinh doanh tổng hợp;
 Công nghệ cảm biến thông minh;
 Công nghệ truy cập băng thông rộng;
 Công nghệ phần mềm quản lý thông tin doanh nghiệp;
 Kỹ thuật được máy tính hỗ trợ (CAE);
 Quản lý tiêu chuẩn và giám sát chất lượng dược phẩm.
Tác động mạnh tới xã hội

 Chất phản ứng phát hiện nhanh những bệnh truyền nhiễm chính;
 Vật liệu sắt thép tiên tiến, có tính năng cao, giá hạ;
 Ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm không khí đô thị;
 Công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường;
 Công nghệ đảm bảo vệ sinh và an toàn nước sinh hoạt;
 Những cơ chế của các bệnh truyền nhiễm;
23


 Dược phẩm CNSH dựa vào hoạt động của vi khuẩn;
 Những vật liệu cấy ghép cơ thể;
 Dẫn nạp thuốc có kiểm soát và tổ chức những vật liệu kỹ thuật;
 Hệ gen chức năng vi sinh của những mầm bệnh quan trọng.
Tác động nhiều tới môi trường:
 Tái sinh và tận dụng tài nguyên phế thải;
 Công nghệ để tái sử dụng các tài nguyên tái tạo và phế thải;
 Công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường;
 Phục hồi và tái sử dụng đồ điện gia dụng và xe hơi phế thải;
 Công nghệ bảo tồn nguồn nước dùng trong nông nghiệp;
 Phát điện bằng thiết bị đốt rác thải quy mô lớn;
 Công nghệ polyme cao thân thiện với môi trường;
 Các hệ thống xử lý phế thải công nghệp hữu cơ nồng độ cao;
 Công nghệ phong điện;
 Chất dẻo có thể phân hủy bằng sinh học.
Những năng lực cần phát triển để thực thi những công nghệ được chọn
Ở đại bộ phận các lĩnh vực công nghệ, Trung Quốc đều nhận thấy là chậm so với thế
giới 5 năm hoặc nhiều hơn. Hợp tác với các nhà nghiên cứu và công ty nước ngoài được
coi là có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực CNTT-TT, sau đó là CNSH/khoa học về
sự sống.
Một số lĩnh vực được nhận dạng là vẫn còn yếu kém gồm:

 Nghiên cứu và chế tạo chip CPU 24 bit tính năng cao, thông dụng;
 Năng lượng sinh học và nhiên liệu sản xuất bằng vi khuẩn tái tổ hợp;
 Công nghệ tái sinh tài nguyên phế thải;
 Sợi chuyên dụng tính năng cao;
 Vật liệu bảo hộ và vật liệu vô hình;
 Công nghệ tuabin khí công suất lớn;
 Thăm dó và khai thác dầu khí dưới biển;
 Chế tạo mạch bán dẫn quy mô lớn, với các chi tiết nhỏ hơn 45 nanomet.
3.2. DỰ BÁO VÀ LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ TỚI NĂM 2020
Nhóm công tác về TF thuộc Viện Chính sách và Quản lý (IPM) của Viện Hàn lâm Khoa
học Trung Quốc (CAS) đã mở ra Chương trình TF tới năm 2020 ở Trung Quốc vào năm 2003,
dựa trên cơ sở những nghiên cứu trước đó liên quan đến TF. Mục đích của Chương trình là:
(1) Khai thác một tập hợp những phương pháp mang tính hệ thống về TF thích hợp với
trình độ và đặc trưng phát triển của Trung Quốc;
(2) Xây dựng những kịch bản về sự phát triển của Trung Quốc từ năm 2020, căn cứ vào
những nhu cầu chiến lược quốc gia và những xu hướng phát triển KH&CN;
(3) Tiến hành khảo sát Delphi và lập ra ưu tiên phát triển công nghệ và đề ra những
khuyến nghị cần thiết để phát triển công nghệ;
(4) Xây dựng một sàn tương tác cho các khu vực Chính phủ - công nghiệp - trường đại
học - viện nghiên cứu và hình thành cơ chế để truyền thông, tư vấn và phối hợp đối
với những nhóm lợi ích khác nhau;
24


(5) Thúc đẩy môi trường xã hội cho TF, cụ thể là văn hóa dự báo ở Trung Quốc.
Dưới đây đề cập đến 4 phương diện:
(1) Khung TF tới 2020 ở Trung Quốc;
(2) Phương pháp luận TF tới 2020 ở Trung Quốc;
(3) Kết quả chủ yếu của khảo sát Delphi đối với 4 lĩnh vực nghiên cứu gồm: CNTT,
CNSH, công nghệ năng lượng, KH&CN vật liệu;

(4) Tác động của nghiên cứu tới việc đề ra quyết định KH&CN ở Trung Quốc.
Khung TF 2020 ở Trung Quốc
Khung này đã được hình thành trên cơ sở áp dụng những kinh nghiệm của Nhật, Đức, Anh
và Hàn Quốc trong TF. Để đảm bảo thành công cho TF, nhóm công tác đã bổ sung giai đoạn
mô phỏng để phát hiện tất cả những khó khăn tiềm tàng trong quá trình tiến hành kế hoạch TF.
Bằng cách vận dụng những kinh nghiệm hoạt động TF của các quốc gia khác, nhóm công tác
đã đề ra kế hoạch 4 pha để mở ra TF, gồm: pha khảo sát, pha phân tích và pha theo dõi.
Pha khảo sát gồm 4 nhiệm vụ:
(1) Xây dựng kế hoạch khảo sát Delphi;
(2) Lựa chọn những thành viên tham gia khảo sát Delphi và phân tích chính sách;
(3) Lựa chọn các chủ đề công nghệ để khảo sát Delphi;
(4) Thu thập các phiếu điều tra Delphi;
(5) Thực hiện khảo sát vòng 1;
(6) Thực hiện khảo sát vòng 2 dựa trên cơ sở khảo sát vòng 1, là mấu chốt đem lại thành
công cho toàn cuộc khảo sát.
Pha phân tích gồm 4 nhiệm vụ:
(1) Phân tích các kết quả của khảo sát Delphi;
(2) Lựa chọn công nghệ;
(3) Lựa chọn chính sách;
(4) So sánh quốc tế.
Pha theo dõi gồm 3 nhiệm vụ:
(1) Lựa chọn các phương pháp dự báo, đặc biệt là những phương pháp để dự báo ngắn
hạn, kể cả khai thác dữ liệu và trắc lượng trích dẫn để thiết lập một sàn phương pháp
để theo dõi sự thay đổi của các chủ đề công nghệ đã lựa chọn;
(2) Thực hiện những phương pháp ở trên để khai thác những thông tin hữu ích liên quan
đến những tiến bộ được cập nhật của lĩnh vực công nghệ hữu quan;
(3) So sánh những kết quả của khảo sát Delphi với những kết quả dự báo và khai thác dữ
liệu. Trên cơ sở so sánh, có thể xem xét lại những chủ đề đã chọn theo thời gian và
cung cấp sự chuẩn bị cần thiết cho vòng khảo sát Delphi mới. Ngoài ra, những thông
tin cập nhật cũng hữu ích cho Chính phủ và doanh nghiệp hiệu chỉnh chiến lược phát

triển công nghệ.
Lựa chọn chủ đề công nghệ là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến thành
công của khảo sát Delphi. Khó khăn chủ yếu mà nhóm công tác phải khắc phục là thiếu những
chuyên gia cần thiết và có trình độ cao (không quan trọng là từ các viện nghiên cứu, trường đại
học, khu vực Chính phủ hay doanh nghiệp). Phần lớn những thành viên tham gia đều thiếu
kinh nghiệm nhìn vào tương lai dài hạn của KH&CN, kinh tế, môi trường và xã hội nhằm
nhận dạng những lĩnh vực nghiên cứu chiến lược và những công nghệ phổ quát đang nổi lên
có khả năng nhận được những lợi ích KT-XH lớn nhất. Không thể tiến hành khảo sát Delphi
thành công bằng phương pháp bình thường với những chuyên gia này. Bởi vậy, nhóm công tác
25


×