Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận vận dụng kế toán định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.12 KB, 15 trang )

A. Tổng quan về hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp
1. Hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, làn sóng hợp nhất sáp nhập ở các nước có
nền kinh tế phát triển diễn ra mạnh mẽ. Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế,
hợp nhất sáp nhập là một trong những giải pháp cơ cấu lại doanh nghiệp nhằm nâng
cao hiệu quả. Hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp đối với thế giới không còn là hoạt
động mới, nhưng đây là một bước đi mới đối với Việt Nam. Đặc biệt là sau khi gia
nhập WTO, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn về thu hút vốn đầu tư nước ngoài
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ thu hút vốn đầu tư nước
ngoài theo các hình thức truyền thống thì không đón bắt được xu hướng đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước phát triển.
Mua lại là hoạt động xảy ra khi một doanh nghiệp mua lại một phần hay toàn bộ
cổ phần của một doanh nghiệp khác, coi đó như một chi nhánh của mình. Thương
hiệu của doanh nghiệp bị mua lại có thể được giữ nguyên hay bị thay đổi tùy theo
quyết định của doanh nghiệp tiến hành mua lại. Mục tiêu của doanh nghiệp đi mua lại
doanh nghiệp khác là nhằm đạt được lợi thế quy mô, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh và tăng thị phần.
Trong hoạt động mua lại, một công ty có thể mua lại một công ty khác bằng tiền
mặt, cổ phiếu hay kết hợp cả hai loại trên. Một hình thức khác phổ biến trong những
thương vụ mua bán nhỏ hơn là mua tất cả tài sản của công ty bị mua.
Một loại hình mua lại khác là sáp nhập ngược, diễn ra khi một công ty tư nhân
mua lại một doanh nghiệp đã niêm yết trên sàn trong một thời gian tương đối ngắn.
Công ty tư nhân sẽ sử dụng hình thức này khi công ty đó có triển vọng lớn và muốn
tăng vốn. Sau khi thương vụ diễn ra, công ty tư nhân biến mình và được phát hành cổ
phiếu.
Theo Điều 153 Luật Doanh nghiệp: “Một hoặc một số công ty cùng loại có thể
sáp nhập vào một công ty khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công
ty bị sáp nhập”.
Như vậy, sáp nhập là hoạt động xảy ra khi các doanh nghiệp, thường là các
doanh nghiệp trong cùng một ngành, đồng ý hợp lại thành một doanh nghiệp mới có


quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh cao hơn. Kết quả của việc sáp nhập là cho ra đời
một công ty mới, khác biệt với công ty trước khi hợp nhất. Công ty mới này có thể sử
dụng một tên hoàn toàn khác so với các công ty sáp nhập hoặc tên của công ty mới là
sự kết hợp tên của các công ty sáp nhập. Cho dù có thay đổi hoặc không thay đổi tên
doanh nghiệp sau khi sáp nhập, nhưng thương hiệu của doanh nghiệp cũ vẫn được duy
trì và phát triển về sau.
Dựa vào cấu trúc của doanh nghiệp, có khá nhiều hình thức sáp nhập khác nhau.
Dưới đây là một số hình thức sáp nhập được phân biệt dựa vào mối quan hệ giữa hai
công ty tiến hành sáp nhập:
+ Sáp nhập cùng ngành (hay còn gọi là sáp nhập chiều ngang): Diễn ra đối với
hai công ty cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ cùng dòng sản phẩm và thị trường.

1


+ Sáp nhập dọc: Diễn ra đối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng như
giữa một công ty với khách hàng hoặc nhà cung cấp của công ty đó.
+ Sáp nhập mở rộng thị trường: Diễn ra đối với hai công ty bán cùng loại sản
phẩm, nhưng ở những thị trường khác nhau.
+ Sáp nhập mở rộng sản phẩm: Diễn ra đối với hai công ty bán những sản phẩm
khác nhau, nhưng có liên quan với nhau trong cùng một thị trường.
+ Sáp nhập kiểu tập đoàn: Diễn ra khi hai công ty không có cùng lĩnh vực kinh
doanh, nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động kinh doanh đa ngành đa nghề.
Dựa trên cách thức cơ cấu tài chính, có hai hình thức sáp nhập là:
+ Sáp nhập mua: Loại hình này xảy ra khi một công ty mua lại một công ty khác.
Việc mua công ty được tiến hành bằng tiền mặt hoặc thông qua một số công cụ tài
chính.
+ Sáp nhập hợp nhất: Cả hai công ty được hợp nhất dưới một pháp nhân mới và
một thương hiệu công ty mới được hình thành. Tài chính của hai công ty sẽ được hợp
nhất trong công ty mới.

2. Lợi ích của hoạt động hợp nhất sáp nhập đối với doanh nghiệp
Giá trị của một doanh nghiệp được nhà đầu tư đánh giá thông qua các kỳ vọng về
doanh nghiệp đó trong tương lai. Phương pháp đơn giản nhất để thực hiện định giá
một doanh nghiệp là việc đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu
về hiện tại với mức lãi suất chiết khấu hợp lý. Tùy theo mức đòi hỏi tỷ suất sinh lợi
khác nhau của từng nhà đầu tư mà họ sẽ quyết định đầu tư hay không. Cổ đông của
doanh nghiệp luôn luôn kỳ vọng vào khả năng sinh lợi hiệu quả khi quyết định đầu tư
vào các cơ hội đầu tư có nhiều . Chi phí sử dụng vốn được xem xét như một yếu tố
then chốt khi các nhà quản trị thực hiện quyết định đầu tư. Chi phí sử dụng vốn của
doanh nghiệp có ý nghĩa như là tỷ suất sinh lợi đòi hỏi ở mức tối thiểu trong một
quyết định đầu tư. Tiềm năng hoạt động của doanh nghiệp (chính là dòng tiền tương
lai có thể mang lại cho các cổ đông) luôn luôn bao gồm các cơ hội đầu tư và các rủi ro
đi kèm. Hợp nhất sáp nhập là một cơ hội đầu tư hiệu quả được các nhà quản trị lưu
tâm do hoạt động này mang lại những lợi ích nhất định cho doanh nghiệp
Sự hợp tác có lợi cho cả đôi bên: Các doanh nghiệp thực hiện các chiến lược có
lợi cho cả đôi bên có thể chọn việc thực hiện kế hoạch mua lại. Điều này, đặc biệt
đúng trong trường hợp một tập đoàn đang bị cạnh tranh quyết liệt. Khi đó, một công
ty chiến lược lớn hoặc một quỹ đầu tư vốn cổ phần sẽ quyết định mua lại các đối thủ
cạnh tranh nhỏ hơn để giảm bớt áp lực cạnh tranh và tạo thành một tập đoàn hợp nhất.
Ví dụ như lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử. Đây là một lĩnh vực đòi hỏi chi phí
nghiên cứu và phát triển (R&D) rất lớn. Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện điện tử
thường đầu tư rất nhiều vào hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm liên tục cho ra
đời các loại chip thế hệ mới. Các doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực này đã liên kết với
doanh nghiệp lớn, có doanh số cao nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu
và phát triển. Điều này, sẽ làm tăng doanh thu ròng. Khi các sản phẩm nhiều hơn, chất
lượng cao hơn, doanh nghiệp sẽ gia tăng lợi thế cạnh tranh.

2



Mở rộng thị trường: Các nhà quản trị thực hiện các vụ mua lại như một cách
thức để gia tăng, mở rộng thị trường. Thông thường một doanh nghiệp thực hiện việc
bán hàng hiệu quả hơn kết hợp với một doanh nghiệp chuyên môn hoá về marketing.
Các nhà quản trị sẽ tạo nên mối liên kết giữa hai doanh nghiệp như cử những nhân
viên bán hàng xuất sắc nhất và giao nhiệm vụ cho những nhà quản trị marketing tốt
nhất, để họ có thể phối hợp hiệu quả nhất thực hiện mục tiêu bán hàng của doanh
nghiệp. Ngược lại, hoạt động mua lại cũng giúp các doanh nghiệp có thể cắt giảm các
nhân sự bán hàng hoặc các sản phẩm không hiệu quả. Như vậy, quá trình huấn luyện
và bán hàng mới đã làm tăng tổng doanh thu cho doanh nghiệp thông qua việc đưa
nhanh hàng hoá đến với người tiêu dùng. Những kiểu liên kết như vậy không chỉ giới
hạn trong lĩnh vực bán hàng và marketing, mà còn có thể áp dụng trong tất cả các lĩnh
vực có thể kết hợp với nhau. Các vụ mua lại và các phối hợp thành công thường gắn
với các công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, hay sản xuất… Việc
tăng cường áp dụng các quy trình tối ưu trong các bộ phận khác nhau đã làm cho một
tổ chức trở nên mạnh hơn và được thị trường đánh giá cao.
Giá cả cạnh tranh: Một số công ty chủ động thực hiện hoạt động hợp nhất sáp
nhập nhằm mở rộng thị trường. Thị phần cao hơn sẽ dẫn đến hiện tượng sức mua tăng
cao hơn khả năng cung ứng. Các đơn đặt hàng gia tăng, doanh nghiệp sản xuất nhiều
sản phẩm hơn, và do đó chi phí sản xuất sẽ giảm xuống, công ty sẽ đưa ra mức giá
cạnh tranh hơn. Khi nhà cung cấp thực hiện được việc giảm chi phí biên trên mỗi đơn
vị, họ cũng sẵn sàng chiết khấu nhiều hơn cho khách hàng. Điều này, cho thấy vòng
quay sản phẩm và dịch vụ tăng nhanh hơn. Nếu lợi nhuận biên trên mỗi đơn vị sản
phẩm giảm, nhưng số lượng hàng bán tăng đạt đến một mức nào đó thì xét về tổng
thể, các nhà cung ứng vẫn tạo được nhiều lợi nhuận hơn. Ví dụ Wal- Mart, xét về
doanh thu, đây là công ty bán lẻ lớn nhất thế giới, sức mua của người dân luôn cao
hơn khả năng của nhà cung cấp. Với chiến lược như vậy, Wal-Mart đã tạo ra được sản
phẩm có giá cả cạnh tranh hơn so với các đối thủ.
Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ: Các công ty cũng tiến hành mua lại các công ty
khác có các sản phẩm, dịch vụ bổ sung nhằm mục đích đa dạng hoá các sản phẩm và
dịch vụ của mình. Bằng cách tăng thêm các lựa chọn đối với hàng hoá và dịch vụ mà

công ty cung cấp cho các khách hàng tiêu dùng hiện tại, các nhà quản trị có thể tạo ra
nhiều doanh thu hơn cho công ty của mình. Như các hãng, đại lý bán xe hơi không chỉ
bán xe mà họ còn cung cấp các đồ phụ tùng thay thế kèm theo, thực hiện các dịch vụ
hậu mãi và tạo cho khách hàng có cảm giác tiện lợi hơn. Thường thì các dịch vụ sửa
chữa sau khi mua có khả năng tạo ra lợi nhuận tốt hơn, thậm chí còn tạo ra mức lợi
nhuận biên cao hơn so với sản phẩm do chính doanh nghiệp cung cấp.
Hiệu quả vận hành: Các vụ mua lại cũng có thể được sử dụng để cải thiện khả
năng vận hành của một doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất.
Bởi vì các khách hàng doanh nghiệp sẽ thường xuyên đánh giá khả năng cung ứng
hàng hoá định kỳ, nên một khi mọi quy trình sản xuất được vận hành nhịp nhàng thì
doanh nghiệp có thể gia tăng khả năng sản xuất và sự tín nhiệm của khách hàng cũng
theo đó mà được gia tăng. Đây chính là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công
của một doanh nghiệp. Thêm nữa, các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động mua lại
với nhau sẽ có nhiều biện pháp để giảm hoặc hạn chế các bộ phận giống nhau hoặc
các chức năng chồng chéo nhau.

3


B. Kế toán định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành hợp nhất sáp nhập
doanh nghiệp
1. Tổng quan về định giá doanh nghiệp
1.1 Khái niệm giá trị doanh nghiệp
Giá trị của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các khoản thu nhập
mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là giá trị vốn chủ sở hữu của một
doanh nghiệp mà là tổng giá trị của tất cả các tài sản sử dụng trong quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó nhằm mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu và
các nhà cung cấp tín dụng. Như vậy, giá trị vốn chủ sở hữu chỉ là một phần của giá trị
doanh nghiệp

Giá trị vốn chủ sở hữu

=

Giá trị doanh nghiệp

-

Giá trị nợ phải trả

Giá trị của một doanh nghiệp có thể mang lại cho các nhà đầu tư có thể xem xét
trên 2 góc độ: Giá trị thanh lý (ngừng hoạt động) và giá trị hoạt động liên tục. Giá trị
thanh lý của một doanh nghiệp là số tiền tạo ra khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động
và bán tất cả các tài sản của nó, còn giá trị hoạt động liên tục là giá trị hiện tại của
dòng tiền tạo ra trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Mục đích của định giá doanh nghiệp
Xét trên một góc độ nào đó, tất cả các quyết định kinh doanh đều liên quan đến
việc xác định giá trị doanh nghiệp (Định giá doanh nghiệp).
Đối với nội bộ doanh nghiệp, khi tiến hành lập dự toán ngân sách cần xem xét
những ảnh hưởng của các dự án cụ thể tới giá trị doanh nghiệp; hoặc khi lập các kế
hoạch chiến lược cần xem xét giá trị doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng như thế nào bởi
các kế hoạch hoạt động đó.
Đối với bên ngoài doanh nghiệp, các nhà đầu tư cần phải định giá doanh nghiệp
để làm cơ sở cho các quyết định kinh doanh của họ. Với các thông tin về định giá
doanh nghiệp, các nhà đầu tư có thể biết được giá thị trường của các cổ phiếu cao hơn
hay thấp hơn so với giá trị thực của nó, để từ đó có quyết định mua, bán cổ phiếu
đúng đắn. Việc định giá cũng vô cùng cần thiết trong quá trình cổ phần hóa, sáp nhập
hay giải thể doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp này cũng như các đối tượng có
liên quan đều phải tiến hành định giá doanh nghiệp trước khi thực thi các quyết định
cổ phần hóa, sáp nhập hay giải thể. Ngay cả đối với nhà cung cấp tín dụng có thể

không quan tâm một cách rõ ràng tới giá trị doanh nghiệp, nhưng ít nhất họ cũng phải
ngầm quan tâm tới giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nếu họ muốn phòng tránh
rủi ro trong hoạt động cho vay.
1.3 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
1.3.1 Các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố này không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp và chịu
tác động bởi bối cảnh kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định của Nhà nước,
bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát, lãi suất tín dụng, hoạt động

4


của TTCK, …tất cả các nhân tố này đều tác động đến tỷ lệ hoàn vốn, thu nhập dự
kiến, tỷ suất rủi ro,… và do đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
1.3.2 Các nhân tố bên trong
Đây là các nhân tố nằm trong khả năng kiểm soát của chính doanh nghiệp, bao
gồm:
a. Hiện trạng tài sản cố định (TSCĐ)
Tài sản trong một doanh nghiệp bao gồm: tài sản lưu động (TSLĐ) và TSCĐ.
Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp là sản xuất, kinh doanh hay thương mại, dịch
vụ mà cơ cấu và tỷ trọng tài sản trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất: do đặc điểm phải sử dụng nhiều máy móc
thiết bị, phương tiện làm việc để tạo ra sản phẩm nên cơ cấu TSCĐ sẽ chiếm tỷ trọng
lớn, do vậy TSCĐ là một trong những yếu tố quyết định kết quả sản xuất kinh doanh
(SXKD). Như vậy, hiện trạng TSCĐ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động SXKD
của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
b. Giá trị thương hiệu của doanh nghiệp
Thương hiệu là một tài sản vô hình đặc biệt, nó được xem là tài sản quan trọng
nhất do những hiệu quả kinh tế mà thương hiệu mang lại. Thương hiệu ảnh hưởng đến
sự lựa chọn của người tiêu dùng, nhà đầu tư góp phần tạo ra giá trị cho cổ đông.

Giá trị thương hiệu là những lợi ích mà doanh nghiệp có được khi sở hữu thương
hiệu này, những lợi ích này bao gồm:
- Có thêm khách hàng mới: nhờ có lợi thế về thương hiệu mà người tiêu dùng tin
tưởng vào chất lượng và uy tín của sản phẩm, qua đó công ty có thể phát triển và thu
hút thêm lượng khách hàng mới thông qua chương trình tiếp thị.
- Duy trì khách hàng trung thành: sự trung thành về thương hiệu sẽ giúp công ty
duy trì lượng khách hàng trung thành của mình, do họ quen thuộc với thương hiệu mà
họ đã từng sử dụng, nên sẽ không có thói quen thay đổi sự lựa chọn khác. Sự trung
thành sẽ được tạo ra bởi 4 nhân tố trong tài sản thương hiệu là:


Sự nhận biết thương hiệu,



Chất lượng cảm nhận,



Thuộc tính thương hiệu,



Các yếu tố khác.

Chất lượng cảm nhận và thuộc tính thương hiệu cộng thêm sự nổi tiếng của
thương hiệu sẽ tạo thêm niềm tin và lý do để khách hàng mua sản phẩm.
- Thiết lập một chính sách giá cao hợp lý: tài sản thương hiệu sẽ giúp cho công
ty thiết lập một chính sách giá cao và ít lệ thuộc hơn đến các chương trình khuyến
mãi. Trong khi với những thương hiệu có vị thế không tốt thì thường phải sử dụng

chính sách khuyến mãi nhiều để hỗ trợ bán hàng.
- Mở rộng kênh phân phối, phát triển thương hiệu: tài sản thương hiệu sẽ tạo một
nền tảng cho sự phát triển thông qua việc mở rộng thương hiệu. Một thương hiệu

5


mạnh sẽ làm giảm chi phí truyền thông rất nhiều khi mở rộng thương hiệu, tận dụng
tối đa kênh phân phối.
- Tạo rào cản với đối thủ cạnh tranh: tài sản thương hiệu còn mang lại lợi thế
cạnh tranh và cụ thể là sẽ tạo ra rào cản để hạn chế sự thâm nhập thị trường của các
đối thủ cạnh tranh mới.
c. Trình độ quản lý
Chính là bộ máy quản lý của doanh nghiệp, một doanh nghiệp với một đội ngũ
cán bộ quản lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng động chắc
chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp và ngược lại.
d. Loại hình kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, loại hình kinh doanh có ảnh hưởng quan trọng đến
giá trị doanh nghiệp. Một loại hình kinh doanh có tỷ suất sinh lợi cao, ổn định và đang
có xu hướng phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp này sẽ được quan tâm hơn và sẽ
có cơ hội nâng cao giá trị lớn hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp ở những ngành nghề
kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất lợi nhuận thấp và rủi ro cao thì giá trị
cũng bị giảm đi.
e. Vị trí địa lý
Một vị trí địa lý thuận lợi, phù hợp với ngành nghề kinh doanh, gần các trung
tâm buôn bán, gần mặt đường lớn, thuận tiện trong vận chuyển thì doanh nghiệp sẽ có
rất nhiều thuận lợi khi quan hệ giao dịch với khách hàng, nắm bắt nhanh nhạy nhu
cầu, thị hiếu của khách hàng, để điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình…
Vị trí địa lý tốt sẽ là một lợi thế của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ làm cho giá trị của
doanh nghiệp cao hơn giá trị sổ sách rất nhiều.

f. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Bảng Cân đối kế toán
- Bảng Kết quả hoạt động kinh doanh
Các báo cáo này phản ánh tình hình “sức khỏe” của doanh nghiệp vào thời điểm
cần định giá. Với các báo cáo tài chính này, người ta có thể đánh giá được khả năng
tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng dự đoán dòng tiền,
cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
2. Một số phương pháp định giá doanh nghiệp khi tiến hành hợp nhất sáp
nhập doanh nghiệp
Hạch toán đối với sáp nhập hợp nhất doanh nghiệp: Sáp nhập hợp nhất doanh
nghiệp đều không hình thành mối quan hệ công ty mẹ, công ty con nên xét về phương
diện kế toán, bản chất của hai hoạt động này có những điểm tương đồng, cụ thể:
- Bên bị mua sẽ phải giải thể;
- Việc hợp nhất kinh doanh chỉ thực hiện vào ngày mua (ngày nắm quyền kiểm
soát). Sau đó, pháp nhân mới sẽ hạch toán như một doanh nghiệp độc lập.

6


Trên cơ sở lý thuyết, giá trị doanh nghiệp gồm có tổng giá trị tài sản hiện có (tài
sản hữu hình và tài sản vô hình), khả năng sinh lời của doanh nghiệp, …cộng với giá
trị thương hiệu của doanh nghiệp. Giá trị thương hiệu là một yếu tố vô hình, giá trị
này chỉ có thể định được ở một mức độ tương đối cho một doanh nghiệp đã có một
quá trình hoạt động ổn định lâu dài và phần lớn đã được khách hàng chấp nhận.
Có nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp, trong đó, đối với các hoạt động
hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp sẽ có một trong các phương pháp sau. Các phương
pháp này sẽ xác định giá trị doanh nghiệp có thể định lượng được (kèm theo chương
trình phần mềm ứng dụng để minh họa), sẽ bỏ qua các yếu tố mang tính định tính của

doanh nghiệp sau:
- Nhân sự quản lý;
- Hệ thống tổ chức quản lý;
- Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1 Phương pháp định giá trị thương hiệu
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau, tuy nhiên có thể xem khái niệm giá trị thương
hiệu qua 3 cách tiếp cận chính sau đây:
- Giá trị thương hiệu là chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra đầu tư để có được
thương hiệu. Người ta gọi đó là “Giá thành” (Cost) của thương hiệu. Thông thường
“Giá thành – Cost” của thương hiệu được tính qua các chi phí marketing.
- Giá trị thương hiệu là giá trị có được khi sử dụng thương hiệu có thể bán và thu
được bao nhiêu tiền. Đây là “Giá bán” (Price) của thương hiệu. Thông thường “Giá
bán – Price” của thương hiệu được tính qua thu nhập có được do phí bản quyền
thương hiệu (Royalty) mà doanh nghiệp sở hữu thương hiệu thu được qua các hoạt
động nhượng quyền thương mại (Franchising).
- Ba là cách xác định xem thương hiệu đã mang lại cho doanh nghiệp khoản thu
nhập là bao nhiêu trong quá khứ sẽ còn mang lại bao nhiêu thu nhập trong tuơng lai.
Người ta gọi đó là “Giá trị” (Value) của thương hiệu. Như vậy giá trị thương hiệu là
thu nhập mà thương hiệu có thể mang về cho doanh nghiệp chủ sở hữu thương hiệu.
Do đó, để xác định giá trị thương hiệu, người định giá cần xác định 2 bước quan
trọng như sau:
Bước 1: Tách phần thu nhập do thương hiệu mang lại trong tổng thu nhập của
doanh nghiệp (trong quá khứ cũng như trong tương lai). Như vậy, về thực chất thương
hiệu được xem là một nguồn lực, là tài sản của doanh nghiệp. Những nguồn lực (hữu
hình và vô hình), những tài sản (hữu hình và vô hình) của doanh nghiệp cùng góp
phần tạo nên thu nhập chung cho Doanh nghiệp. Kế toán doanh nghiệp chỉ cung cấp
thu nhập của doanh nghiệp như một tổng thể, ít khi chia tách thu nhập của doanh
nghiệp theo các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề tách thu nhập theo
từng loại tài sản của doanh nghiệp thì chỉ xuất hiện khi khái niệm tài sản vô hình được
định hình.

Đây là một khâu quan trọng của vấn đề định giá thương hiệu. Ở bước 1, người
định giá sẽ xác định phương pháp hay kỹ thuật định giá tách thu nhập do thương hiệu
mang lại từ tổng thu nhập của doanh nghiệp.

7


Bước 2: Định giá thương hiệu như định giá một tài sản (vô hình) khi đã biết
dòng thu nhập do thương hiệu mang lại. Trong đó, có một phương pháp/kỹ thuật tách
thu nhập do thương hiệu mang lại từ tổng thu nhập của doanh nghiệp bằng phương
pháp chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị thương hiệu mà tổ chức Interbrand sử
dụng. Interbrand là một tổ chức có uy tín hàng đầu về định giá thương hiệu. Tổ chức
này nghiên cứu và sử dụng mô hình giá trị kinh tế của thương hiệu, bao gồm cả yếu tố
marketing và yếu tố tài chính trong việc định giá thương hiệu. Phương pháp này bao
gồm 5 bước cơ bản:
Bước 2.1: Phân khúc thị trường (Market Segmentation):
Thị trường của thương hiệu được chia thành nhiều nhóm khách hàng tương đối
đồng nhất với nhau theo những tiêu chuẩn như sản phẩm hay dịch vụ, kênh phân phối,
mẫu tiêu dùng, sự phức tạp trong mua sắm, bằng sáng chế, khu vực địa lý, khách hàng
hiện tại và khách hàng mới, … Vì thương hiệu có ảnh hưởng khác nhau ở các phân
khúc, nên việc tính toán phải được thực hiện ở từng phân khúc riêng và tổng giá trị
của các phân khúc sẽ hợp thành tổng giá trị của thương hiệu.
Bước 2.2: Phân tích tài chính (Financial Analysis)
Xác định và dự báo doanh thu, cũng như lợi nhuận kiếm được từ tài sản vô hình
có được nhờ thương hiệu cho những phân khúc đã được xác định, bằng cách lấy tổng
doanh thu của doanh nghiệp trừ đi chi phí sản xuất, chi phí hoạt động, thuế và các loại
chi phí khác.
Bước 2.3: Phân tích nhu cầu (Demand Analysis):
Đo lường sự ảnh hưởng của thương hiệu đến nhu cầu của khách hàng ngay tại
điểm mua hàng, từ đó ta xác định được tỷ lệ % đóng góp của thu nhập vô hình có

được nhờ thương hiệu, thường gọi là chỉ số “vai trò của thương hiệu” (Role of Brand
Index). Chỉ số này được tính bằng cách xác định những xu hướng nhu cầu khác nhau
về sản phẩm có gắn thương hiệu, sau đó xác định mức độ mà mỗi xu hướng chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi thương hiệu. Nói cách khác, chỉ số này đại diện cho phần trăm
(%) tài sản vô hình được tạo ra bởi thương hiệu hay thương hiệu đóng góp bao nhiêu
% trong lợi nhuận kiếm được từ tài sản vô hình. Thu nhập của thương hiệu bằng chỉ
số “Vai trò của xây dựng thương hiệu” nhân với thu nhập vô hình. Đây được xem là
bước phức tạp nhất trong quá trình định giá thương hiệu.
Bước 2.4: Xác định “sức mạnh thương hiệu” (Brand Power Score) và “lãi suất
chiết khấu”
Theo InterBrand thì sức mạnh của thương hiệu dựa vào 7 yếu tố các thang điểm
như sau:
Yếu tố

Điểm tối đa

Tính dẫn đầu (brand leadership)

25

Tính ổn định (stability)

15

Thị trường (Market)

10

Địa lý (Geography)


25

8


Xu hướng thương hiệu (trend)

10

Hoạt động hỗ trợ (brand support)

10

Bảo hộ thương hiệu (protection)

5

Tổng cộng (Sức mạnh thươnng hiệu)

100

Điểm “sức mạnh thương hiệu” được tính bằng tổng điểm của 7 yếu tố trên. Tuy
nhiên, tùy vào từng ngành, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các tiêu chí này sẽ có
sự linh động, khi cần thiết mỗi tiêu chí này có thể phân tích thành những tiêu chí
thành phần khác nhau. “Chỉ số sức mạnh thương hiệu” thể hiện độ ổn định của khả
năng sinh lời của thương hiệu, độ ổn định của chính thương hiệu.
Chúng ta cần phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của thương hiệu nhằm
xác định lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất phản ánh độ rủi ro của thu
nhập kỳ vọng trong tương lai có được nhờ thương hiệu. Căn cứ chỉ số sức mạnh
thương hiệu ngành (những thương hiệu cạnh tranh), Interbrand xây dựng mối tương

quan giữa chỉ số sức mạnh thương hiệu với tỷ lệ chiết khấu ứng với thị trường trong
ngành của thương hiệu đang xét. Đây là bài toán thị trường không dễ thực hiện ở nước
ta. Trên cơ sở mối tương quan này, chúng ta xác định tỷ lệ chiết khấu cho thu nhập
thương hiệu khi biết “chỉ số sức mạnh” của thương hiệu đang xét. Phương pháp này
khó áp dụng hiệu quả ở Việt Nam vì thị trường còn thiếu các căn cứ để tạo ra các cơ
sở cho việc ứng dụng phương pháp này.
Việc xác định “lãi suất chiết khấu” dựa vào phương trình đường thẳng với trục
tung để thể hiện giá trị này và trục hoành thể hiện điểm “sức mạnh thương hiệu”.
Điểm “sức mạnh thương hiệu” càng cao thì tỷ lệ “lãi suất chiết khấu” càng nhỏ.
Bước 2.5: Xác định giá trị thương hiệu (Brand Value Calculation):
Giá trị thương hiệu chính là giá trị hiện tại (Net Present Value – viết tắt: NPV)
của các dòng tiền do thương hiệu tạo ra, trong đó tỷ lệ chiết khấu được xác định bởi
chỉ số sức mạnh của thương hiệu. Giá trị hiện tại không chỉ rút ra ở thời điểm dự đoán
mà còn ở thời điểm xa hơn nữa để có thể phản ánh khả năng tạo ra nguồn thu nhập
liên tục trong tương lai của thương hiệu.
2.2 Phương pháp định giá doanh nghiệp (hữu hình)
2.2.1. Phương pháp dựa vào lợi nhuận tương lai
Phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai có rất
nhiều phương pháp định giá và tên gọi khác nhau. Hai phương pháp chính thường
được áp dụng khi xác định giá trị doanh nghiệp:
- Phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt
- Phương pháp chiết khấu dòng lợi nhuận khác thường
a. Phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt
Theo phương pháp này, giá trị của một doanh nghiệp được xác định là giá trị
hiện tại của dòng tiền tự do trong tương lai của doanh nghiệp, lưu ý rằng dòng tiền tự
do này là dòng tiền cho cả chủ sở hữu và chủ nợ. Phương pháp này xác định giá trị

9



doanh nghiệp trong trạng thái hoạt động liên tục chứ không phải trong tình trạng
thanh lý, tuy nhiên cách thức tiến hành phức tạp.
Giá trị doanh nghiệp

=

PV {dòng tiền tự do trong tương lai cho chủ sở hữu và
chủ nợ}

Điều mấu chốt của phương pháp này là xác định dòng tiền tự do trong tương lai
của doanh nghiệp và xác định chi phí vốn bình quân để chiết khấu dòng tiền đó về giá
trị hiện tại.


Xác định dòng tiền tự do trong tương lai của doanh nghiệp (FCFF)

Dòng tiền tự do trong tương lai của doanh nghiệp xác định trên cơ sở dự báo tài
chính của doanh nghiệp. Dòng tiền này được xác định là dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh sau khi đầu tư bổ sung vốn lưu động và trừ đi các khoản chi phí mang tính đầu
tư vốn
FCFF = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay EBIT x (1 - thuế suất thuế TNDN) + Khấu
hao TSCĐ – Chi tiêu vốn – Chênh lệch vốn hoạt động thuần
Khấu hao TSCĐ là một khoản chi phí được khấu trừ thuế TNDN trên báo cáo kết
quả kinh doanh nhưng nó khác các khoản chi phí khác ở chỗ nó không phải là khoản
chi tiêu, nên dòng tiền từ hoạt động kinh doanh sẽ cao hơn lợi nhuận thuần phần khấu
hao TSCĐ này.
Chi tiêu vốn là dòng tiền doanh nghiệp sử dụng cho các mục đích tái đầu tư hoặc
đầu tư mở rộng năng lực hoạt động kinh doanh. Nói một cách đơn giản, chi tiêu vốn là
phần ngân quỹ doanh nghiệp sử dụng để mua sắm TSCĐ trong kỳ. Các nhà đầu tư
(các chủ sở hữu) không thể rút toàn bộ tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp vì doanh nghiệp phải dành một phần hoặc toàn bộ số tiền này để tái đầu tư,
duy trì năng lực hoạt động của các tài sản hiện tại cũng như tạo ra các tài sản mới để
tạo ra tăng trưởng trong tương lai. Một doanh nghiệp trong giai đoạn tăng trưởng cao
sẽ có chi tiêu vốn lớn hơn khấu hao TSCĐ, còn trong giai đoạn tăng trưởng ổn định
chi tiêu vốn sẽ bằng với khấu hao TSCĐ.
Vốn hoạt động thuần là chênh lệch giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp nên biến động của vốn hoạt động thuần sẽ ảnh hưởng tới dòng tiền
của doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần tăng sẽ là dòng tiền ra và vốn hoạt động
thuần giảm sẽ là dòng tiền vào. Dưới góc độ định giá doanh nghiệp, nhu cầu vốn hoạt
động thuần của doanh nghiệp cần phải xem xét khi tính toán dòng tiền cho chủ sở
hữu, và do đó nó liên quan tới dòng tiền tự do cho cả doanh nghiệp. Mặt khác, sự thay
đổi vốn hoạt động thuần là do ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp.
Nói chung, các doanh nghiệp tăng trưởng cao hơn sẽ có mức tăng vốn hoạt động
thuần lớn hơn các doanh nghiệp tăng trưởng chậm hơn (trong cùng một ngành kinh
doanh).


Xác định giá trị cuối cùng

Theo khái niệm ban đầu, giá trị doanh nghiệp được xác định là giá trị hiện tại của
dòng tiền tự do trong tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên thông thường một doanh
nghiệp luôn được giả định là hoạt động liên tục vô thời hạn, điều này nảy sinh vấn đề
thực tế là chúng ta sẽ phải dự báo dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp trong

10


bao nhiêu năm? Nói cách khác giá trị cuối cùng trong dòng tiền dự đoán của chúng ta
sẽ là bao nhiêu?
Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần xem xét về quá trình hoạt động của doanh

nghiệp trong tương lai. Hoạt động của doanh nghiệp có thể chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1 đến năm n (Thường từ 5 tới 15 năm) công ty hoạt động
không ổn định với dòng tiền được dự đoán một cách đơn lẻ từng năm theo công thức
trên là:
FCFF = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay EBIT x (1 - thuế suất thuế TNDN) + Khấu
hao TSCĐ – Chi tiêu vốn – Chênh lệch vốn hoạt động thuần
Tuy nhiên, kết thúc giai đoạn này (từ năm n +1) công ty bắt đầu chuyển sang giai
đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển bền vững, và doanh nghiệp không phải lo
lắng về dòng tiền hàng năm của mình. Dòng tiền kéo dài vô thời hạn ở giai đoạn thứ
hai sẽ tạo ra giá trị cuối cùng của dòng tiền tự do dự đoán ở cuối giai đoạn thứ nhất
(TVn), và giá trị của doanh nghiệp sẽ được xác định theo công thức:
Giá trị DN

=

PV{FCFF1→n + TVn}
FCFF1

=

FCFF2

+

1+r

+…+

(1 + r)2


FCFFn
(1 + r)n

+

TVn
(1 + r)n

Có nhiều phương pháp để xác định giá trị cuối cùng (TV n). Nhất quán với
phương pháp chiết khấu dòng tiền, giá trị cuối cùng (TV n) được xác định như sau:
Trường hợp 1: Dòng tiền ở giai đoạn hai là dòng tiền không ngừng tăng trưởng
(dòng tiền đều đặn mỗi năm) và kéo dài vô tận.
Gọi FCFFn+1 là dòng tiền tự do của mỗi năm đầu tiên trong giai đoạn hai (giai
đoạn ổn định với dòng tiền đều đặn), nghĩa là FCFF n+1 = FCFFn+2 = … = FCFF∞
Gọi chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp là r, giá trị cuối cùng của doanh
nghiệp sẽ được tính bằng:
TVn

=
=

FCFFn+1
1+r

+

FCFFn+2
(1 + r)2

+




+

FCFF∞
(1 + r)∞

FCFFn+1
R

Trường hợp 2: Dòng tiền ở giai đoạn hai là dòng tiền tăng trưởng đều đặn mỗi
năm và kéo dài vô tận.
Giả sử dòng tiền giai đoạn 2 mỗi năm tăng trưởng với tốc độ g%, tương tự
trường hợp 1, chúng ta có công thức tính giá trị cuối cùng là:
TVn

FCFFn+1

=

r-g

Ngoài hai cách tính chiết khấu dòng tiền trên, giá trị cuối cùng còn có thể tính
theo giá trị sổ sách, giá trị thanh lý hoặc theo hệ số P/E được bảo đảm

11


Ưu điểm:

Phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai là phương
pháp định giá dựa trên cơ sở đánh giá khả năng điều hành, dự tính khả năng hoạt động
và sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, phương pháp này có một số ưu điểm sau:
- Ước đoán được những thay đổi của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh
vận động và phản ánh tiềm năng hoạt động và sinh lợi của doanh nghiệp.
- Công việc định giá doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các nội dung mà nhà
đầu tư quan tâm, đó là tiềm năng thanh toán, thu hồi vốn của doanh nghiệp.
- Thông qua phương pháp này, người ta có thể đưa vào sổ sách kế toán các ước
tính về thay đổi trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp này cũng có điểm hạn chế:
- Đòi hỏi phải dự tính được các giả thiết về hoạt động của doanh nghiệp trong
tương lai.
- Phương pháp này được xem là phương pháp phức tạp khi sử dụng để định giá
doanh nghiệp. Vì vậy, để đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong tương
lai, người định giá phải có trình độ nghiệp vụ kinh doanh và quản lý kinh doanh cao,
có thể đưa ra nhiều giả thiết thích hợp, liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong tương lai.
Mặc dù vậy, đối với các nhà đầu tư, giá trị doanh nghiệp được xác định bằng
phương pháp này được đánh giá là chuẩn mực để xác định giá trị thị trường tiềm năng
của doanh nghiệp mà họ quan tâm.
b. Phương pháp chiết khấu dòng lợi nhuận khác thường
Các chủ sở hữu của mỗi doanh nghiệp đều yêu cầu một tỷ lệ sinh lời nhất định
trên số vốn mà họ đầu tư vào doanh nghiệp, đó chính là chi phí vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ
sinh lời này gọi là tỷ lệ sinh lời thông thường. Với tỷ lệ sinh lời thông thường này,
mỗi doanh nghiệp có một khoản lợi nhuận thông thường là Tỷ lệ sinh lời thông
thường * giá trị vốn chủ sở hữu (theo sổ kế toán). Tuy nhiên, lợi nhuận thực tế của
doanh nghiệp có thể đúng bằng hoặc khác với mức lợi nhuận thông thường này. Lợi
nhuận khác thường chính là chênh lệch giữa tổng lợi nhuận thực tế và lợi nhuận thông
thường của doanh nghiệp.

Lợi nhuận khác
thuờng

=

Lợi nhuận

-

(Chi phí vốn chủ
sở hữu

x

Giá trị sổ sách của
VCSH đầu kỳ)

Nếu lợi nhuận thực tế đúng bằng với lợi nhuận thông thường thì giá trị vốn chủ
sở hữu thực tế cũng sẽ đúng bằng với giá trị vốn chủ sở hữu trên sổ kế toán. Tuy
nhiên nếu có sự tồn tại phần lợi nhuận khác thường, thì phần lợi nhuận khác thường
này chính là nguyên nhân tạo ra sự chênh lệch giữa giá trị vốn chủ sở hữu trên sổ kế
toán với giá trị thực sự của vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy, giá trị thực sự của vốn chủ
sở hữu sẽ là tổng của giá trị vốn chủ sở hữu theo sổ kế toán và giá trị hiện tại của dòng
lợi nhuận khác thường trong tương lại.
Giá trị hợp lý của vốn chủ sở hữu được tính bằng công thức:

12


FMVE = BE + PV {dòng lợi nhuận khác thường trong tương lai}

Trong đó:
FMVE là giá trị hợp lý của vốn chủ sở hữu
BE là giá trị trên sổ kế toán của vốn chủ sở hữu
Công thức này cho chúng ta thấy nếu một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được tỷ
suất sinh lời thông thường trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu thì các nhà đầu tư sẽ
không trả giá cao hơn so với giá trị sổ sách của nó. Nhà đầu tư sẽ trả giá cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị sổ sách nếu lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cao hơn hoặc thấp
hơn mức thông thường. Như vậy, rõ ràng là giá trị thị trường và giá trị trên sổ của một
doanh nghiệp giống hay khác nhau phụ thuộc vào khả năng tạo ra “lợi nhuận khác
thường” của doanh nghiệp đó. Lưu ý rằng, để xác định giá trị hiện tại của dòng lợi
nhuận khác thường, cần sử dụng tỷ lệ sinh lời mong muốn của chủ sở hữu, tức là chi
phí vốn chủ sở hữu chứ không phải là chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng lợi nhuận khác thường
sẽ là tổng giá trị hợp lý của vốn chủ sở hữu và giá trị hợp lý của nợ phải trả.
Giá trị doanh nghiệp

=

BE

+

PV {Lợi nhuận khác
thường}

+

Giá trị nợ phải trả

Giống như phương pháp chiết khấu dòng tiền, dòng lợi nhuận khác thường cũng

cần xác định được giá trị cuối cùng. Phương pháp xác định giá trị cuối cùng của dòng
lợi nhuận khác thường tương tự như phương pháp xác định giá trị cuối cùng của dòng
tiện tự do.
2.2.2 Phương pháp định giá dựa trên cơ sở thị trường
Phương pháp dựa trên cơ sở thị trường có 2 phương pháp nhỏ được sử dụng hiện
nay:
- Phương pháp giá trị tài sản thực (Net Asset Value Method)
- Phương pháp chi phí thay thế, lợi nhuận thặng dư
a. Phương pháp giá trị tài sản thực
Phương pháp giá trị tài sản thực được áp dụng khi doanh nghiệp được xem là
tạm ngừng hoạt động hoặc có khả năng thanh lý tài sản. Giá trị tài sản không thể tách
biệt với giá trị doanh nghiệp do có khả năng tạo ra lợi nhuận. Giá trị tài sản thể hiện
trên các bảng kê, bảng Cân đối kế toán (CĐKT) sẽ khác biệt so với giá trị thị trường.
Do số liệu trên CĐKT mang tính lịch sử nên khi doanh nghiệp bán đi, số liệu lịch sử
không còn phù hợp. Chỉ có giá trị thị trường hợp lý của các tài sản mới là quan trọng.
Như vậy, một sự điều chỉnh bắt buộc sẽ phải được thực hiện.
Để tiến hành các điều chỉnh giá trị tài sản cần thiết, người định giá cần thực hiện
kiểm kê thực tế tất cả các tài sản của doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
sau khi đã kiểm kê và tính được giá trị theo sổ sách, người định giá căn cứ vào chất
lượng còn lại và giá trị hiện hành (giá trị thị trường hợp lý) của từng loại tài sản để
xác định lại giá trị tài sản thực còn.

13


- Đối với các TSCĐ: xác định nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại sau
khi kiểm kê đánh giá lại. Những TSCĐ lạc hậu, chờ thanh lý hoặc không cần dùng
cần phải được bán đi hoặc thanh lý và loại trừ chúng ra khỏi TSCĐ hiện có.
- Các khoản phải thu, hàng tồn kho (nếu có) cũng được đánh giá lại theo giá trị
thị trường hợp lý. Các khoản công nợ không có khả năng thu hồi phải được loại trừ.

Sau khi đã kiểm kê, đánh giá và tính được giá trị thị trường hợp lý của toàn bộ
tài sản, người định giá phải xác định xem TSLĐ và TSCĐ của doanh nghiệp được đầu
tư, tài trợ bằng các nguồn vốn nào để từ đó xác định TSLĐ thuần và TSCĐ thuần của
doanh nghiệp.
TSLĐ thuần còn gọi là vốn luân chuyển được tính bằng cách lấy giá trị TSLĐ
sau khi kiểm kê, đánh giá lại trừ đi các khoản nợ ngắn hạn. TSCĐ thuần được tính
bằng cách lấy giá trị TSCĐ sau khi kiểm kê, đánh giá lại trừ đi các khoản nợ dài hạn.
Tổng giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp (bao gồm Vốn luân chuyển và TSCĐ
thuần) được coi là giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp giá trị tài sản thực
và được viết dưới dạng công thức sau:
G= Gct + Glt = (Gck – Nd) + (Glk – Nn)
Trong đó:
G: Giá trị doanh nghiệp (hữu hình).
Gct: Giá trị tài sản cố định thuần.
Glt: Giá trị tài sản lưu động thuần (Vốn luân chuyển).
Gck: Giá trị tài sản cố định sau kiểm kê, đánh giá lại.
Glk: Giá trị tài sản lưu động sau kiểm kê, đánh giá lại.
Nd: Các khoản nợ dài hạn.
Nn: Các khoản nợ ngắn hạn.
b. Phương pháp chi phí thay thế, lợi nhuận thặng dư
Theo phương pháp này, chúng ta sẽ dựa vào thị trường để đảm trách nhiệm vụ
khó khăn là đánh giá các triển vọng ngắn hạn và dài hạn về sự phát triển và khả năng
sinh lợi của các doanh nghiệp tương đồng. Từ đó nhà phân tích sẽ giả định rằng việc
định giá các doanh nghiệp đó cũng có thể áp dụng được cho doanh nghiệp đang cần
định giá. Áp dụng phương pháp này cũng không phải là đơn giản vì việc lựa chọn các
doanh nghiệp nào thực sự là tương đồng (có thể so sánh được) là tương đối khó khăn.
Hơn nữa, việc giải thích sự khác biệt hệ số giá giữa các doanh nghiệp cũng như việc
áp dụng các hệ số giá của doanh nghiệp khác vào doanh nghiệp đang cần định giá như
thế nào đòi hỏi có một sự hiểu biết sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng tới các hệ số giá
đó. Tuy nhiên, phương pháp này đặc biệt có ích trong việc định giá các doanh nghiệp

không niêm yết trên thị trường chứng khoán với cơ sở số liệu chủ yếu là các báo cáo
tài chính và thông tin trên thị trường chứng khoán.
Để định giá doanh nghiệp theo phương pháp này, trước tiên chúng ta cần xác
định các doanh nghiệp tương đương (có thể so sánh được). Lưu ý rằng, không phải
đơn giản là tất cả các doanh nghiệp trong cùng một ngành đều là so sánh được. Chúng

14


ta cần thu hẹp phạm vi so sánh lại để có được kết quả so sánh hợp lý. Ví dụ IBM là
đối thủ cạnh tranh gần nhất với Compaq về máy tính cá nhân nhưng IBM lại có mức
độ sản xuất và tiêu thụ máy tính cá nhân cao hơn Compaq rất nhiều. Hơn nữa IBM
không có thông tin tài chính riêng cho hoạt động kinh doanh máy tính cá nhân. Thậm
chí nếu có thông tin đó thì cũng không thể biết được giá thị trường của riêng loại hoạt
động kinh doanh này. Một cách để giải quyết vấn đề khác biệt giữa các doanh nghiệp
là tính bình quân hệ số giá của tất cả các doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, trước khi tính
bình quân nhà phân tích luôn phải cố gắng loại bỏ các doanh nghiệp khác biệt ra khỏi
danh sách các doanh nghiệp có thể so sánh.
Sau khi xác định được các doanh nghiệp tương đương, chúng ta cần xác định
một số chỉ tiêu tài chính thể hiện giá trị của doanh nghiệp đó. Các chỉ tiêu này thường
là các hệ số giữa giá thị trường của vốn chủ sở hữu so với lợi nhuận, doanh thu, tài
sản hay giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu.
Cuối cùng, trên cơ sở so sánh vị trí hiện tại và triển vọng của doanh nghiệp cần
định giá với các doanh nghiệp tương đương, chúng ta cần lựa chọn các hệ số giá hợp
lý cho doanh nghiệp cần định giá. Giá trị doanh nghiệp ước tính không nên lấy là một
giá trị cụ thể mà nên lấy trong một khoảng thì mức độ tin cậy sẽ cao hơn.
Tóm lại, định giá doanh nghiệp nhằm thẩm định và đưa ra kết luận về giá trị thực
tế doanh nghiệp (cả hữu hình và vô hình) nhằm đưa ra một mức giá công bằng và giúp
cho hai hay nhiều bên tiến lại gần nhau để đi đến thống nhất, tiến hành hợp nhất sáp
nhập doanh nghiệp. Việc thẩm định này yêu cầu chuyên môn của các công ty kiểm

toán hay kiểm toán viên độc lập thực hiện. Bởi, định giá doanh nghiệp là một vấn đề
khó khăn và không chắc chắn. Tất cả các biện pháp kỹ thuật áp dụng để định giá
doanh nghiệp, mà ở đây là định giá trong hoạt động hợp nhất sáp nhập doanh nghiệp
đều không thể giải quyết trọn vẹn vấn đề này mà các biện pháp đó chỉ cố gắng uớc
lượng một cách tương đối giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các sai số
xảy ra khi ước tính giá trị doanh nghiệp là do không chắc chắn về kinh tế chứ không
phải từ việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật.

15



×