Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trên cơ cở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện từ liêm, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 121 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM THU HNG

THủ TụC GIảI QUYếT Vụ áN ĐốI VớI TộI
Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH HOặC GÂY TổN HạI
CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM THU HNG

THủ TụC GIảI QUYếT Vụ áN ĐốI VớI TộI
Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH HOặC GÂY TổN HạI
CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS BCH THNH NH



H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thu Hƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT

1.1.

VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC ........................................... 9

Khái niệm .......................................................................................... 9

Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác............................ 11
1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự ...................................................... 11
1.2.2. Những thủ tục cần lưu ý khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý
gây thương tích ................................................................................. 22
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 38
1.2.

Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG
TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM HÀ NỘI ......................40
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.

2.2.1.

Thực tiễn giải quyết các vụ việc cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác..................................... 40
Những kết quả đạt được trong giải quyết các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............ 40
Nguyên nhân của những kết quả đạt được ....................................... 45
Những tồn tại, hạn chế trong thủ tục giải quyết các vụ án cố ý
gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
và nguyên nhân ................................................................................ 48
Những tồn tại, hạn chế ..................................................................... 48



2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ......................................... 64
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 68
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI
VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC ............................ 70
3.1.

Quan điểm về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết đối với vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của ngƣời khác .................................................. 70

3.2.

Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội
cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác ...................................................................................... 72

3.3.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết đối với
vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của ngƣời khác ................................................................................ 81
Hoàn thiện quy định về điều tra vụ án hình sự ................................ 81
Hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết vụ án hình sự .......................................................... 86
Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến thủ tục giải
quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ........................................................... 93


3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thủ tục giải quyết đối với vụ
án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác ....................................................................................... 97
3.4.1. Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra .......................... 97
3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ............... 100
3.4.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ........................... 102
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 106
3.4.

KẾT LUẬN .................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 113


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội cố ý gây thương tích với tình hình
tội phạm trên địa bàn huyện Từ Liêm

113

Bảng 2.2: Một số tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm có tính phổ biến trong xã hội

113

Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương
tích trên địa bàn huyện Từ Liêm

114

Bảng 2.4: Tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích trên địa bàn
huyện Từ Liêm

114


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ ngày lập nước, nhà nước ta rất chú trọng bảo vệ quyền con
người. Các tội xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của

con người được quy định sớm trong luật hình sự nước ta. Trong đó tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác {Điều 104 Bộ
luật hình sự (BLHS)} những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Hậu quả
gây ra rất lớn, không chỉ người bị hại bị xâm hại nghiêm trọng tới sức khỏe
do hành vi phạm tội gây ra mà còn làm mất an ninh, trật tự của xã hội, gây
hoang mang trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi nước ta xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mặt trái của cơ chế thị
trường như xuất hiện trên mạng internet phim ảnh bạo lực, các trò chơi điện
tử… tác động đến tình hình tội phạm, tội cố ý gây thương tích có xu hướng
tăng và diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng trẻ hóa, liều lĩnh, coi
thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày
một nhiều hơn các loại vũ khí nguy hiểm… Nhiều vụ cố ý gây thương tích có
quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình
an ninh trật tự ở Thủ đô.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý gây thương
tích trong thời gian qua của nước ta tuy đã được các cấp, các ngành, các cơ
quan tư pháp chú trọng nhưng do những nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan kết quả đạt được chưa thực sự như mong muốn, một trong những
nguyên nhân của tình trạng trên là thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã phát sinh một số
vướng mắc ảnh hưởng đến việc áp dụng chế tài hạn chế sức răn đe, giáo dục,
trừng phạt người phạm tội cũng như phòng ngừa chung.

1


Qua nghiên cứu thực hiện các thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Từ
Liêm (nay là hai quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm)... là địa bàn có tốc độ
đô thị hóa nhanh, nhiều khu dân cư mới, các trường đại học, khu công

nghiệp… được xây dựng và phát triển. Bên cạnh đó công tác quản lý nhà
nước về an ninh trật tự và tình hình tội phạm đặc biệt là tội cố ý gây thương
tích diễn ra phức tạp; công tác giải quyết của các lực lượng chức năng còn
nhiều bất cập, việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố về tội
cố ý gây thương tích còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều vụ cố ý gây
thương tích xảy ra do mâu thuẫn cá nhân nhưng Cơ quan điều tra (CQĐT)
không nắm được tình hình, trong đó rất nhiều vụ đủ yếu tố cấu thành tội phạm
nhưng khó tiến hành hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra tội cố ý gây
thương tích hiện cũng còn nhiều bất cập, công tác khám nghiệm hiện trường
còn chưa thực sự đạt yêu cầu, bỏ sót nhiều dấu vết hoặc vật chứng quan trọng,
nhất là trong các vụ cố ý gây thương tích có nhiều đối tượng tham gia. Bên
cạnh đó trong tội phạm này hoạt động giám định thương tích là yêu cầu bắt
buộc tuy nhiên công tác giám định trong thời gian qua còn nhiều vướng mắc
do quy định của luật cũng như trên thực tiễn áp dụng, nhiều trường hợp không
khởi tố được vì đương sự không đi giám định hoặc giám định lại nhiều lần
cho các kết quả khác nhau dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng khó
khăn trong giải quyết. Hoạt động xét xử đối với các vụ án cố ý gây thương
tích cũng còn nhiều khó khăn, chủ yếu ở trong khâu xét hỏi tại phiên tòa,
nhiều trường hợp các bị cáo phản cung, khai khác với lời khai tại CQĐT, một
số vụ án cố ý gây thương tích xảy ra đông người, có đông các đối tượng côn
đồ cộm cán tham gia nên thái độ chống đối rất quyết liệt. Tính chất xuyên
suốt trong thủ tục giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích cần
được quan tâm và giải quyết một cách triệt để.

2


Vì vậy, từ lý luận và thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này tác giả
chọn đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ là: "Thủ tục giải quyết vụ án đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, Luật gia nghiên
cứu ở nhiều góc độ. Trên các sách, báo chí, tạp chí... cũng đã đề cập và có
nhiều quan điểm tiếp cận với loại tội này trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân, đó là "Quyền bất
khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm", "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hạn cho sức
khỏe của người khác" tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận "người nào
có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
người khác đều bị xử lý theo pháp luật". Có nhiều tác giả quan tâm tới trách
nhiệm hình sự (TNHS) của tội phạm này như Nguyễn Ngọc Hàn, Trần Văn
Độ, tác giả Nguyễn Cường đã quan tâm đến lỗi cố ý, vấn đề khách thể trực
tiếp; các tác giả Vũ Lập Thành, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Quốc Hội tiến
hành nghiên cứu những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS...
Một số sách chuyên khảo đề cập đến việc áp dụng pháp luật của Tòa
án nhân dân (TAND) trong hoạt động xét xử án hình sự, trong đó có đề cập
đến việc xét xử các tội phạm hình sự nói chung và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng như:
- GS. TSKH Đào Trí Úc, "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật",
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993. Tác giả đã đi sâu phân tích về áp
dụng pháp luật và hoạt động xét xử của TAND.

3


- TS. Nguyễn Thị Hồi, "Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay và
một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Tư pháp, năm 2009.

- TSKH.Lê Cảm "Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung luật
hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2002.
- ThS. Đinh Văn Quế "Tìm hiểu về tội phạm và hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam", Nxb Phương Đông, năm 2010.
- ThS. Đinh Văn Quế "Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự những vấn
đề lý luận và thực tiễn", Nxb Phương Đông, năm 2010.
- TS. Dương Tuyết Miên "Định tội danh và quyết định hình phạt",
Nxb Lao động - Xã hội, năm 2007.
Ngoài ra, các tác giả như TS. Phùng Thế Vắc và TS. Trần Văn Luyện
có công trình bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần các tội phạm) do
Nxb Chính trị quốc gia xuất bản trong đó có đề cập đến tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. TS. Phạm Văn Beo với
"Luật hình sự Việt Nam" phân tích rất rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt
của loại tội này. Tác giả Đinh Văn Quế có công trình nghiên cứu là cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự (bình luận chuyên sâu) phần các tội phạm, tập
1, do Nxb Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002 đã đề cập đến tội
phạm này...
Về thủ tục giải quyết vụ án trong tố tụng hình sự cũng có rất nhiều
công trình nghiên cứu dưới các giác độ khác nhau. Có thể kể đến là các giáo
trình Luật tố tụng hình sự của các cơ sở đào tạo luật như Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội. Về các thủ tục tố tụng đặc
biệt cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Tác giả
Đỗ Thị Phượng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội" Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Nguyễn Văn
Quảng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam",

4


tại Học viện Khoa học xã hội... Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu ở

cấp độ bài viết khoa học nói riêng về vấn đề thủ tục giải quyết vụ án hình sự.
Các công trình trên là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả nghiên cứu hoàn
thành đề tài.
Các công trình trên nhìn chung đã nghiên cứu tương đối cơ bản về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc
độ luật hình sự hoặc nghiên cứu về thủ tục giải quyết các vụ án hình sự nói
chung mà chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về
thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác. Đặc biệt là nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở số
liệu thực tế của một đơn vị là huyện Từ Liêm Hà Nội (nay là quận Nam Từ
Liêm và Bắc Từ Liêm).
Chính vì vậy, việc tác giả chọn đề tài: "Thủ tục giải quyết vụ án đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội)" không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố và có ý nghĩa
quan trọng cả lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ những thủ tục trong các giai đoạn
giải quyết vụ án nói chung và đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành, trên sơ sở thực trạng thủ tục giải quyết
vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác trên địa bàn huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội luận văn sẽ chỉ ra
những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại và những vướng mắc, đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện về mặt lý luận, đồng thời góp

5



phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây
thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội (nay là hai quận
Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, quá trình nghiên cứu, tác giả
tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm sáng rõ những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ án nói
chung và thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác nói riêng.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn quá trình giải quyết vụ
án tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội từ
năm 2010 đến năm 2014. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân
tồn tại và những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về giải quyết vụ án đối
với loại tội phạm này.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ
án, nâng cao khả năng áp dụng pháp luật trong thủ tục giải quyết các vụ án
về tội cố ý gây thương tích nói chung và cụ thể nâng cao năng lực xử lý đối
với tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tư pháp trên địa bàn huyện Từ
Liêm nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện
Từ Liêm (nay là hai quận Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm).
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là làm rõ trên phương diện lý luận các
thủ tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS và BLHS hiện hành và

6



kết quả nghiên cứu thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra từ
năm 2010 đến 2014 tại địa bàn Từ Liêm, Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; lý luận về tội phạm học,
Luật hình sự và tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp
khảo sát, thống kê thực tế số liệu xét xử, phương pháp so sánh, tổng hợp, hỏi
ý kiến chuyên gia để rút ra các kết luận khoa học của mình.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề thủ tục giải quyết đối với
vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Những đóng góp mới của luận văn được thể hiện ở các điểm sau:
- Luận văn đã phân tích được đầy đủ các vấn đề lý luận về thủ tục
giải quyết đối với vụ án hình sự nói chung và vụ án về tội cố ý gây thương
tích nói riêng. Ngoài ra luận văn còn nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích ở các giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử...
- Luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng quá trình
giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ
Liêm thành phố Hà Nội, từ đó rút ra đánh giá về những hạn chế, bất cập trong
quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hình sự cũng như những
hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án đối với
tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tố tụng huyện Từ Liêm.
- Từ những sự phân tích, luận văn cũng đã chỉ rõ được nguyên nhân

7



của những tồn tại hạn chế đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa
bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo về mặt lý
luận khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao khả
năng thực thi pháp luật và các giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích
rút ra qua quá trình áp dụng trên thực tiễn làm cơ sở cho khoa học luật hình sự
và Tố tụng hình sự nói chung và góp phần nâng cao chất lượng khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thủ tục giải quyết vụ án tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây
thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC


1.1. Khái niệm
Thủ tục giải quyết vụ án hình sự là trình tự, biện pháp do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm. Từ khái niệm thủ tục giải
quyết vụ án hình sự có thể rút ra khái niệm: thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trình tự, biện
pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được quy định chung trong tố tụng hình sự, theo
trình tự như đối với các vụ án hình sự thông thường, và có mục đích cơ bản
là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội cố ý gây thương tích, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Xét về hình thức, tố tụng hình sự được phân chia ra các giai đoạn
khác nhau, bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... Mỗi giai đoạn tố
tụng có tính độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, giai
đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau; kết quả của giai đoạn sau là sự
kiểm chứng tính đúng đắn của giai đoạn trước và các giai đoạn hợp thành
một quy trình tố tụng hình sự. Gắn với mỗi giai đoạn là các hoạt động tố
tụng do các chủ thể khác nhau tiến hành (Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện
kiểm sát (VKS), Tòa án) với sự tham gia của các chủ thể khác như bị can,
bị cáo, bị hại, người làm chứng, người bào chữa, giám định, các cơ quan tổ

9


chức nhà nước, tổ chức xã hội… Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, các
chủ thể có nhiệm vụ và thẩm quyền khác nhau nhưng đều có một mục tiêu
chung là xác định sự thật khách quan của sự kiện phạm tội đã xảy ra, nhằm
chứng minh hành vi và chủ thể tội phạm.

Trên cơ sở sự kiện phạm tội xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp của tố tụng hình sự để làm rõ: có hành vi phạm tội xảy ra hay
không; thời gian; địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có
năng lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS của chủ thể và những đặc điểm về nhân thân của chủ
thể; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [27, Điều 63]. Đó
là những vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh trong vụ án
hình sự nói chung và vụ án cố ý gây thương tích nói riêng. Nhà nước xác định
một hệ thống các biện pháp tố tụng để chứng minh và xử lý tội phạm. Hệ
thống các biện pháp tố tụng, bao gồm: các biện pháp để phát hiện tội phạm
(như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, khởi tố vụ
án…); các biện pháp ngăn chặn tội phạm (như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú)… các biện pháp thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm
(như lấy lời khai, thu giữ vật chứng, giám định…), các biện pháp xử lý tội
phạm (như truy tố, xét xử). Các biện pháp này được thực hiện bởi các chủ thể
là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên không
phải các sự kiện phạm tội xảy ra đều áp dụng tất cả các biện pháp tố tụng để
giải quyết mà tùy thuộc tính chất, mức độ của sự kiện phạm tội để các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng cho phù hợp, ví dụ: biện
pháp ngăn chặn tạm giam chỉ đặt ra với các sự kiện phạm tội mà người thực
hiện hành vi có mức nguy hại lớn, cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiếp
tục phạm tội mới… Ngoài ra, các biện pháp và trình tự tố tụng còn được hình

10


thành trên cơ sở tính chất của chủ thể, ví dụ: đối với các chủ thể là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì phải có một trình tự
tố tụng đặc biệt để áp dụng đối với họ.

1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
Như đã đề cập ở trên, thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải được tiến hành theo
những trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nhằm chứng minh một người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà BLHS quy định phải chịu TNHS. Hay nói
cách khác, để làm sáng tỏ thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng là làm sáng tỏ các
trình tự, biện pháp được áp dụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự thông thường, nhưng đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có một số những điểm cần lưu
ý theo từng giai đoạn do một số đặc điểm riêng của tội phạm này.
1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự
1.2.1.1. Giai đoạn khởi tố
Theo Từ điển Luật học thì khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát
hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu
các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố
tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm [44, tr. 429].
Theo tác giả Lê Cảm thì giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành việc xác
định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho

11


xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ
án (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó [5, tr. 26].

Do vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của trình tự giải quyết vụ
án, có nhiệm vụ xác định một sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi
tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn được tiến hành
trước các giai đoạn tố tụng tiếp theo như: điều tra, truy tố, xét xử... Do đó,
giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
xác lập cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm, người phạm tội, lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm
vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có
dấu hiệu tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết
định đó là: quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ
án hình sự [7, tr. 64]. Tương tự như thế, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự
của Trường Đại học Luật Hà Nội có viết: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay
không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự [38, tr. 231].
Các quan điểm nêu trên tuy được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng đều thể hiện sự thống nhất đó là coi khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn khởi động quá trình tố tụng hình sự, có
vai trò làm căn cứ pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, tin báo, tố giác về tội phạm để từ đó có

12


khởi tố vụ án hình sự hay không. Việc khởi tố hay không khởi tố phải căn cứ

vào quy định tại BLTTHS. Theo đó:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú [27, Điều 100].
Trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự chủ yếu quy định cho CQĐT, còn tòa án và VKS chỉ có thẩm quyền khởi
tố rất hạn chế. Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi
tố phải xác định sự tồn tại của sự việc và đánh giá xem sự việc đó có hay
không có dấu hiệu tội phạm để quyết định việc có hay không khởi tố vụ án.
Tại giai đoạn này, CQĐT phải làm những thủ tục sau: tiếp nhận thông
tin về tội phạm (có thể là tin báo hoặc tố giác về tội phạm), qua đơn thư, công
văn kiến nghị hoặc nêu trên phương tiện thông tin đại chúng thì phải tiếp nhận
và vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nếu cá
nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp
đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Nếu cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức báo tin về tội
phạm qua điện thoại, các phương tiện thông tin khác thì phải tiếp nhận và ghi
vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nếu là tin
quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có thể ghi âm, ghi hình. Trường hợp người
phạm tội đến tự thú thì phải lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú.

13



Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT phải tiến
hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng CQĐT phải ra
Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố và gửi ngay một bản đến VKS cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã
rõ về dấu hiệu tội phạm thì CQĐT ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và
thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 BLTTHS năm
2003, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố.
Khi xác minh có dấu hiệu tội phạm, để có thể khởi tố vụ án, Thủ
trưởng CQĐT ký quyết định phân công phó thủ trưởng CQĐT và điều tra
viên điều tra vụ án. Sau đó, Phó Thủ trưởng CQĐT được phân công sẽ trực
tiếp ký quyết định khởi tố vụ án. Nội dung của quyết định khởi tố vụ án hình
sự phải bao gồm thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của BLHS được áp
dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định. Quyết định khởi tố vụ án hình
sự của CQĐT, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra cần
phải gửi đến VKS cùng cấp trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định. Điều
này đảm bảo tính chặt chẽ và hợp pháp của quyết định khởi tố. Đảm bảo
nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, tránh oan, sai trong khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời
cũng thể hiện quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQĐT.
Thực tế cho thấy, để soạn thảo quyết định khởi tố vụ án, cán bộ thụ lý
chỉ cần khoảng thời gian rất ngắn nhưng để chứng minh có hay không hành vi
phạm tội xảy ra, thời hạn phụ thuộc vào độ phức tạp của thông tin tội phạm. Ở

14



những vụ việc có đông đối tượng, khó xác định dấu hiệu phạm tội, CQĐT cần
xác minh tại nhiều nơi, ghi lời khai của nhiều người, thời hạn có thể kéo dài
hai tháng hoặc dài hơn. Những việc làm này không những xác định dấu hiệu
phạm tội mà còn xác định rõ điều khoản của BLHS được áp dụng, thời gian
phạm tội, địa điểm phạm tội (thể hiện qua việc lấy lời khai và vẽ sơ đồ hiện
trường, khám nghiệm hiện trường nếu có), dùng làm căn cứ ra Quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản tố tụng đánh dấu quá trình
giải quyết vụ án bắt đầu chuyển sang giai đoạn điều tra.
1.2.1.2. Giai đoạn điều tra
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến
chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết
luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất
nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm
dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời
điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án [5, tr.24-29].
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể
cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4
tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm
trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra
nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,


15


thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp
của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Thầm quyền điều tra thuộc về CQĐT và các cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra được quyền tiến hành các biện pháp điều tra.
Trong giai đoạn này mối quan hệ giữa CQĐT và VKS thể hiện rõ nét.
Trong giai đoạn điều tra vụ án, quyết định chiếm vị trí quan trọng đầu
tiên là quyết định khởi tố bị can. Theo quy định của Điều 126 BLTTHS thì
quyết định khởi tố bị can được ban hành khi có đủ căn cứ để xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở những vụ án đơn giản, Quyết định khởi
tố bị can có thể được CQĐT ra cùng thời điểm với Quyết định khởi tố vụ án.
Quyết định khởi tố bị can gồm các nội dung chủ yếu về thời gian, địa
điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng,
năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội
gì, theo điều khoản nào của BLHS; thời gian, địa điểm phạm tội và những
tình tiết khác của tội phạm… Trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định khởi
tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định này đến VKSND cùng cấp để xét việc
phê chuẩn, và trong thời hạn 3 ngày VKSND cùng cấp phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can [27, Điều 126].
Các hoạt động của giai đoạn điều tra là hoạt động thu thập chứng cứ
để chứng minh tội phạm. Theo quy định của BLTTHS trong giai đoạn điều
tra, CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được
quyền tiến hành các biện pháp điều tra quy định như: hỏi cung bị can, lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra,
trưng cầu giám định, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể. Các
hoạt động điều tra trên phải được tiến hành theo thủ tục được pháp luật quy


16


định và đặt dưới sự kiểm sát của VKS nhằm đảm bảo quá trình thu thập
chứng cứ khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. VKS đề ra các
yêu cầu điều tra giúp CQĐT điều tra đúng hướng. Khi cần thiết, VKS có thể
tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm chứng minh tội phạm, đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Khi có đầy đủ
chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì CQĐT làm bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra vụ án phải ghi rõ ngày, tháng, năm,
họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận, nội dung bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố sẽ trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng
cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý
do và căn cứ đề nghị truy tố. Nội dung bản kết luận điều tra để đình chỉ điều
tra vụ án nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra. Kèm theo
bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã
được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân
sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu
có. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, CQĐT phải
gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo
quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp; gửi bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can,
người bào chữa.
Nếu giai đoạn điều tra vụ án kết thúc bằng việc CQĐT ra bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố, vụ án sẽ chuyển sang giai đoạn truy tố.
1.2.1.3. Giai đoạn truy tố
Giai đoạn truy tố là giai đoạn tố tụng mà thẩm quyền chủ yếu thuộc về

VKS, cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp có chức năng thực hành

17


quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có nghĩa là VKS nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội nghi can trước Tòa án để xét xử.
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà
trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành
các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài
liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị
truy tố) do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định: Truy tố bị
can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để
điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự [5, tr. 26].
Giai đoạn truy tố thể hiện quyền công tố nhà nước của VKS đối với
người phạm tội, bằng việc VKS truy tố tội phạm ra trước Tòa án bằng bản cáo
trạng. Trong giai đoạn truy tố Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án và Bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS trong giai
đoạn truy tố, để bổ sung chứng cứ, bổ sung những tài liệu khác cần thiết cho
việc chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố chính xác, Kiểm sát viên có
quyền tiến hành thực hiện một số hoạt động điều tra như hỏi cung, đối chất,
thực nghiệm điều tra, lấy lời khai... khi tiến hành các hoạt động điều tra này,
Kiểm sát viên cũng phải tuân thủ các thủ tục đã được quy định trong BLTTHS.
Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết
luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau đây: Truy tố bị
can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án. VKS quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ nhất định quy định tại

Điều 168, Điều 169 BLTTHS.
Quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng là quyết định quan trọng

18


×