Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Sức hấp dẫn của “giấc mơ Mỹ” ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.73 KB, 11 trang )

Sức hấp dẫn của “giấc mơ Mỹ” ở nước ngoài
Tác giả: James Kelleher, Karin Matz and Melanie Lee.
Reuters – Nhiều năm trở lại đây, các cuộc hội thảo về chương trình đầu tư định cư Mỹ diễn ra
rất thường xuyên ở Trung Quốc. Tại một sự kiện tương tự tổ chức trong tòa nhà văn phòng ở
trung tâm thành phố Thượng Hải, Jason Lee đã đại diện công ty của mình giới thiệu rất nhiều
về chương trình EB-5. Anh ta thực chất đang bán “giấc mơ Mỹ” cho đông đảo đồng bào của
mình.
Lee hiện đang điều hành Maslink, một công ty chuyên làm cầu nối giữa các doanh nghiệp Mỹ
cần huy động vốn và các nhà đầu tư Trung Quốc có nhu cầu đến Mỹ định cư. Công ty của
Lee là một phần trong “ngành công nghiệp” di dân toàn cầu, lĩnh vực đang thu về lợi nhuận
liên tục trong những năm gần đây nhờ chương trình cho phép nhà đầu tư nước ngoài rót vốn
vào các dự án kinh doanh ở Mỹ để có được thẻ thường trú cũng như quốc tịch Mỹ.
Lợi nhuận có được từ lĩnh vực EB-5 rất hấp dẫn. Maslink hiện có văn phòng tại Thượng Hải,
Bắc Kinh, Hàng Châu, Trùng Khánh và đang mở rộng thêm ở hai thành phố nữa.
Những công ty như Maslink và các đối tác Mỹ trả tiền cho họ đang tìm cách đẩy mạnh
chương trình EB-5 như một cách dễ dàng và nhanh chóng để sinh sống hợp pháp tại Mỹ. Lời
tiếp thị đó xem ra rất hiệu quả. Theo thống kê năm 2010 của Sở Di trú Mỹ (USCIS) (đơn vị
quản lý chương trình EB-5), đã có gần 2.000 nhà đầu tư Trung Quốc nộp đơn xin visa EB-5
trong năm đó, tăng mạnh so với nhiều năm trở về trước. Nguyên nhân của sự gia tăng đột
biến này một phần là do sự xuất hiện của 20 công ty Mỹ đang tìm kiếm nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào các dự án của mình.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Reuters về chương trình EB-5, người nhập cư nên cân
nhắc kỹ trước khi đầu tư vào những mối quan hệ giới hạn và không được xây dựng theo hình
thức nhà đầu tư nắm giữ cổ phần như Maslink và các công ty hợp tác với họ đang làm.
Hơn 20 năm qua, hàng nghìn người nhập cư đã bị từ chối cấp thẻ thường trú nhân bởi sự
xuyên tạc rằng các nhà phát triển dự án EB-5 triển khai dự án ở cả trong và ngoài nước Mỹ.
Điều đó không chỉ khiến họ mất tiền mà còn mất đi cả cơ hội thành công dân Mỹ.
“Tôi luôn nói với mọi người rằng tham gia chương trình đầu tư định cư Mỹ là một quyết định
mạo hiểm”, ông Brian Su, tư vấn viên về di trú tại tiểu bang Illlinois (người đã lập ra một trang
blog khá nổi tiếng trong chương trình này) chia sẻ. “Nếu bạn không thể chịu đựng được mất
mát hay thiệt hại từ việc đầu tư thì tốt nhất đừng tham gia “cuộc chơi” này.”


Ông Chris Bentley, phát ngôn viên đại diện Sở Di trú Mỹ cho biết: “Rất nhiều nhà đầu tư EB-5
và gia đình của họ được hứa hẹn rằng chỉ cần có thẻ xanh có điều kiện là sẽ có thẻ xanh vĩnh
viễn. Tuy nhiên, theo một phân tích từ dữ liệu riêng của USCIS, lời hứa hẹn đó hoàn toàn
không chính xác. Gần một nửa nhà đầu tư có visa EB-5 trong suốt 20 năm qua cuối cùng vẫn
không có được thẻ thường trú nhân vĩnh viễn.”
Sự gia tăng của các công ty tư vấn nhằm thu hút vốn EB-5 chỉ khiến những nhà đầu tư giàu
có bị phân tâm và gặp nhiều nguy hiểm. Sự thật là chương trình định cư Mỹ hiện đang bị các
công ty như Maslink và một vài luật sư Mỹ thao túng và định hướng. Họ thường là những
người được trả hoa hồng cao nhất, nhưng không phải là người đưa ra gợi ý đầu tư tốt nhất,
theo như những người trong cuộc chia sẻ với Reuters.


“Môi trường đầu tư EB-5 này chẳng khác gì miền Tây hoang dã”, Henry Liebman – luật sư và
nhà phát triển dự án, người công tác trong lĩnh vực EB-5 kể từ khi chương trình mới được
triển khai ví von. “Bạn đang hợp tác với rất nhiều công ty tự do, hầu hết đều có quy mô nhỏ,
chưa được đăng ký kinh doanh và có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. Đó chắc chắn là điều
mà mỗi nhà đầu tư cần cẩn trọng”, ông nói.
Cảnh báo cho nhà đầu tư Trung Quốc
Số lượng công ty Mỹ tìm kiếm nhà đầu tư thông qua chương trình EB-5 đã tăng lên đáng kể
trong 3 năm qua. Nếu như năm 2007 chỉ có 11 công ty được cấp phép phát triển các dự án
EB-5 và thu hút vốn đầu tư của họ thì nay đã có 117 công ty đang hoạt động và hơn 88 công
ty đang chờ chấp thuận. Nhiều công ty mới thành lập thực chất là các đơn vị kinh doanh bất
động sản đang tìm nguồn vốn thay thế để duy trì dự án.
Theo Stephen Yale - Loehr, giảng viên luật tại Đại học Cornell chia sẻ: “Khi nguồn tiền trong
nước đang dần khan hiếm, các nhà phát triển dự án phải nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác
để duy trì một phần hoặc toàn bộ dự án”. Ông Michael Gibson, người đánh giá và tư vấn các
dự án EB-5 cho biết, khi các công ty phát triển bộ phận marketing của mình, một vài trong số
đó bắt đầu đưa ra lời mời hợp tác với những người kinh doanh bất động sản trước đây,
những người đã rao bán cổ phần, nợ dưới chuẩn, nợ xác định,… để cùng thu hút vốn. “Họ có
thể nói: “Chúng tôi đang tìm kiếm những nhà đầu tư triển vọng ngay từ bây giờ”, đưa ra lời

khuyên hoặc hứa hẹn khả năng thành công,… Nói tóm lại, họ sẽ nói bất kỳ điều gì có thể để
ký được hợp đồng”, Gibson nói.
Ở nước ngoài, các công ty tư vấn và xúc tiến chương trình EB-5 thường không được kiểm
tra, cấp phép hoặc đánh giá kỹ lưỡng. Thực tế vào đầu năm nay, Bộ công an Trung Quốc đã
đưa ra hai lời cảnh báo về những nguy cơ tiềm ẩn của chương trình EB-5 và buộc các công
ty phải hạn chế việc xúc tiến đầu tư.
Những công ty như Maslink hiện nay vẫn thông báo rằng mình nhận được sự chấp thuận của
chính quyền Trung Quốc trước khi bắt tay vào kinh doanh. Nhưng ông Brian Su cũng nói rằng
thực chất các công ty chỉ dám phát biểu điều này ở những không gian nhỏ và riêng tư hơn
các hội trường tổ chức hội thảo. “Thực tế là Chính phủ Trung Quốc luôn cho rằng việc đầu tư
EB-5 là mạo hiểm và đang có nhiều công ty không uy tín hoạt động trong lĩnh vực này”, ông
Su nói.
Ở Mỹ hiện có 2 cơ quan Mỹ phụ trách việc quản lý và phát triển chương trình EB-5, đó là Sở
Di trú Mỹ (USCIS) và Ủy ban chứng khoán và giao dịch Mỹ (SEC). Tuy nhiên, cả hai cơ quan
này đều cho rằng họ vẫn chưa thấy dấu hiệu lạm dụng gia tăng trong chương trình này.
Tới nay, chỉ có duy nhất một pháp nhân tại Mỹ, được biết đến với tên gọi Trung tâm Vùng chỉ
định theo cách nói của USCIS, đã bác bỏ chuyện rủi ro tồn tại trong đầu tư EB-5 mặc dù có
không ít chứng cứ chứng minh khả năng rủi ro có thể đến với bất kỳ nhà đầu tư nào bởi các
quy tắc khắt khe trong chương trình.
Một “mỏ vàng” đang được khai thác tràn lan
Hai tháng mùa thu vừa qua, các phóng viên Reuters tại Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc đã tham
gia một cuộc họp đa phương về chương trình EB-5 và phỏng vấn hàng chục người liên quan


đến chương trình này, từ các quan chức phụ trách tại Mỹ đến những người nhập cư thông
qua EB-5, từ các luật sư tư vấn dự án đến các doanh nghiệp Mỹ phải trả phí giới thiệu cho
họ.
Bức tranh toàn cảnh hiện lên với rất nhiều bất cập. Rất nhiều vấn đề trong cách xúc tiến
chương trình đã được đem ra thảo luận. Chẳng hạn việc một số công ty thường hay tiếp thị
với ngụ ý rằng các dự án họ đang triển khai là dự án của chính phủ hoặc được bảo đảm bởi

chính phủ và các nhà đầu tư tham gia chương trình chắc chắn sẽ có thẻ xanh vĩnh viễn. Điều
đó chắc chắn không bao giờ là sự thật.
Bộ phận tiếp nhận khiếu nại của USCIS đã tổng hợp và phát hiện ra rằng việc doanh nghiệp
Mỹ trong lĩnh vực di dân không ngừng tăng đã gây tác động xấu đến hồ sơ di trú của các nhà
đầu tư khi nhiều công ty thay đổi tài liệu dự án mà không được USCIS chấp thuận, dẫn đến
việc hồ sơ không đảm bảo đủ điều kiện.
Thật không may, những sai lầm này đã khiến hồ sơ của người nhập cư bị kéo dài đến vài
năm và đến giai đoạn xin xóa điều kiện thì không được chấp nhận nữa. Jose Latour, cựu
quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ và là người thi hành luật định cư ở Florida cho biết: “Vấn đề là
trong khoảng thời gian đó, họ đã có nhà cửa, con cái đang đi học, chúng có bạn bè, hàng
xóm láng giềng, cuộc sống của chúng giờ là ở đó. Không có gì đáng buồn hơn khi thấy một
gia đình làm đúng mọi thứ theo quy định nhưng cuối cùng lại thất bại vì một bên thứ ba và
không đi đến thỏa thuận cuối cùng.”
Tóm lại, việc triển khai kiểm tra đã cho thấy chương trình EB-5 không phải là con đường định
cư Mỹ dễ dàng và chắc chắn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là “bài học” mà hàng ngàn
người đã trải qua suốt 2 thập kỷ qua. Theo dự báo của các chuyên gia, tình trạng này sẽ tiếp
diễn nhiều hơn nữa trong tương lai. “Nếu họ lựa chọn sai dự án đầu tư, họ sẽ phải kết thúc
“giấc mơ Mỹ” của mình. Điều đó thật tai họa.”, Gibson nói.
“Sẽ không có bất cứ sự kháng cáo nào về quyết định từ chối định cư này. Đó là gánh nặng
cho những ai chọn rời quê hương để đến Mỹ.”
Những lời hứa hẹn
Các công ty Mỹ đã tập trung vào một số chương trình trong những năm gần đây như mua
vườn nho ở California, xây dựng trạm ga ở Guam và các trang trại sản xuất bơ sữa ở South
Dakota.
Tính riêng trong năm 2010, công dân Trung Quốc đã được cấp 772 visa EB-5, tiếp theo là
Hàn Quốc với 295, Anh với 135, Đài Loan với 94 và Ấn Độ với 62.
Vào ngày phóng viên Reuters phỏng vấn ông Lee ở Thượng Hải, ông cho biết đã đầu tư vào
một mỏ vàng tại Idaho, nơi đã bị đóng cửa suốt nhiều thập kỷ nhưng hiện nay đang được một
doanh nghiệp Mỹ đầu tư mở lại.
Khoảng 20 người đã có mặt tại khán phòng để nghe phần thuyết trình của ông Lee. “Việc đầu

tư 500.000 USD đã cho tôi ngày hôm nay”, Lee nói. Bạn và gia đình có thể di chuyển tới bất
cứ nơi nào bạn muốn ở Hoa Kỳ trong tương lai. Sau hai năm, bạn có thể trở thành thường trú
nhân Mỹ và tiếp đó là một lộ trình rõ ràng để trở thành công dân. Ba năm sau, tôi sẽ được


hoàn trả khoản vay bằng 500 ounce vàng, tương đương 650.000 USD (tính từ thời điểm bài
thuyết trình của Lee được trình bày giữa tháng 11).
Lee lặp đi lặp lại lời hứa được viết trong brochure bằng tiếng phổ thông, rằng dự án này đảm
bảo hoàn tiền 100% nếu hầm mỏ thất bại. Lời hứa này thực chất đã vi phạm nguyên tắc cơ
bản của EB-5. Thực hiện đầu tư thông qua các dự án luôn có rủi ro từ đầu đến cuối. “Việc
đầu tư của người đứng đơn không thể được đảm bảo”, ông Bentley, phát ngôn viên của
USCIS cho biết.
Trong một email trả lời loạt câu hỏi của Reuters, Sima Muroff, người đứng đầu công ty Idaho
(hoạt động như một Trung tâm vùng chỉ định của bang Idaho) đã phủ nhận việc những người
nhập cư nhận được sự bảo lãnh của bất cứ bên nào. “Không có bất cứ hứa hẹn hoặc đảm
bảo mua lại cổ phần hoặc hoàn vốn cho nhà đầu tư”, Muroff viết.
Muroff cũng khẳng định công ty của ông không có đại lý ở Thượng Hải, mặc dù Lee tuyên bố
Maslink có liên kết với Westlead Capital, đầu mối liên kết khu vực châu Á của công ty Idaho.
Tuy nhiên, Lee vẫn lặp đi lặp lại tuyên bố trên trang web của Trung tâm Vùng chỉ định bang
Idaho, trong đó đưa ra lời hứa hẹn “an toàn” cho các khoản đầu tư đang rao bán và đảm bảo
vốn đầu tư “sẽ được hoàn lại cho từng nhà đầu tư thông qua chiến lược bảo lãnh tài chính”.
Không chỉ riêng Lee, Trung tâm đầu tư nước ngoài của Mỹ, một đơn vị đang cố gắng kêu gọi
vốn tài trợ để xây dựng công ty vận tải hybrid ở miền Nam nước Mỹ cũng khẳng định trên
trang web rằng “Đây là lĩnh vực có chiến lược thoái vốn tốt nhất. Một cơ hội để biến khoản
đầu tư 500.000 USD thành 650.000 USD cổ phiếu giao dịch công khai vào năm thứ 5.” Theo
tiết lộ của nhân viên lễ tân khi Reuters gọi điện đến phản ánh, một cựu quan chức của cơ
quan nhập cư có tên James Debates đã đến Trung Quốc để kêu gọi đầu tư vào dự án kinh
doanh. Tuy nhiên luật sư của công ty, Boyd Campbell nói với Reuters rằng “không có bảo
đảm nào trong cuộc sống” và phủ nhận việc quảng cáo trên web là một sự đảm bảo thanh
toán.

“Chúng ta đang nói về cổ phiếu”, ông nói. “Như bạn đã biết, cổ phiếu chứng khoán có thể đi
lên và cũng có thể đi xuống. Về cơ bản, nó không thể được mang ra để đảm bảo”. “Sau này,
các nhà đầu tư sẽ đến Mỹ và nói với chúng tôi (hoặc luật sư của họ) rằng họ được đảm bảo
bởi an toàn đầu tư và chắc chắn tạo đủ công ăn việc làm. Như thế là sai sự thật”, ông nói.
Liebman thừa nhận vấn đề và yêu cầu các nhà tư vấn nhập cư ở nước ngoài của ông xem lại
tất cả quảng cáo trước khi công bố ra bên ngoài”. Ông cũng nói rằng mình đã kiểm tra và xác
nhận những điều họ có thể và không thể nói trong quá trình tư vấn để tuân thủ đúng pháp
luật. Tuy nhiên, ông cho biết: “Nhưng thật sự là tôi không thể kiểm soát hết những gì họ nói
sau một ngày”.
Vai trò của SEC ở đâu?
Chúng ta đều biết EB-5 là một chương trình kết hợp, có liên quan đến cả nhập cư và đầu tư,
do đó trên lý thuyết, chương trình EB-5 được giám sát bởi cả USCIS và SEC.
Trên thực tế, Reuters phát hiện cơ quan nhập cư không có nhân lực để giám sát thị trường
hoặc sự thành công hay thất bại của các dự án Mỹ tham gia chương trình. Điều duy nhất có
thể kiểm tra là việc các doanh nghiệp Mỹ nhận tiền để tạo ra công việc như đã hứa.


“USCIS không giám sát việc tiếp thị của Trung tâm vùng chỉ định trong nước và quốc tế. Về
mặt lý thuyết, điều đó xa rời nguyên tắc của SEC. Nhưng hầu hết việc đầu tư hiện nay được
xây dựng theo để miễn trừ yêu cầu đăng ký và báo cáo theo luật chứng khoán Mỹ.” Bentley,
phát ngôn viên chính của cơ quan này nói với Reuters.
Kết quả là, John Nester (phát ngôn viên của SEC) cho biết cơ quan của ông “không có cơ
chế” theo dõi thị trường. Ông cho biết việc tìm kiếm các cơ sở dữ liệu của SEC theo các từ
khóa như “EB-5”, “trung tâm vùng chỉ định”, “nhập cư và trung tâm nguồn visa” và “Chương
trình đầu tư nhập cư” xuất hiện không theo một trật tự nhất định nào cả.
Sự thiếu quản lý tạo ra những vi phạm trong giám sát và thực thi, trong đó có việc hứa hẹn
với nhà đầu tư mà bản thân các công ty có vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chương trình
EB-5 hoặc hiểu sai bản chất đầu tư,… thì cũng không bị phát hiện.
Chỉ mới tháng trước, USCIS yêu cầu các doanh nghiệp tham gia chương trình thực hiện báo
cáo hàng năm cho Sở Di trú Mỹ. Cơ quan này cho biết chính sách trên sẽ làm tăng tính minh

bạch của chương trình thông qua việc yêu cầu các công ty này tiết lộ số tiền đầu tư mỗi năm
của nhà đầu tư và tỷ lệ thành công của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc xin thẻ xanh
vĩnh viễn.
Tuy nhiên, hồ sơ chứng nhận Trung tâm vùng chỉ định (được biết đến với tên gọi I-924A) lại
không yêu cầu các doanh nghiệp phải tiết lộ cách thức tiếp thị chương trình EB-5 của họ, làm
thế nào các khoản đầu tư được bán cho người nhập cư hoặc họ đang trả bao nhiêu tiền cho
nhà tuyển dụng và các luật sư”.
“Một cơ quan quản lý đã bị xem nhẹ trong chương trình EB-5”, Latour, quan chức và cựu luật
sư di trú của Bộ Ngoại giao cho biết. “Nếu SEC tham gia thật sự thì sẽ có rất nhiều vấn đề
cưỡng chế diễn ra”.
Lời chào mời tham gia EB-5
Lời chào mời mà các công ty như Maslink đưa ra cho các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng
đã khiến họ thay đổi quyết định. Tất nhiên, điều đó cũng còn phụ thuộc nhiều vào công ty Mỹ
mà họ đang đại diện.
Về cơ bản, lời chào mời có nội dung như sau: “Hãy đầu tư vào Công ty X ngay hôm nay, bạn
và gia đình có thể đến Mỹ vào ngày mai.” Về ý chính, điều này không sai. Đây là kết quả của
một thay đổi trong Luật Di trú Mỹ được thực hiện sau cuộc suy thoái năm 1990 nhằm tạo ra
công ăn việc làm cho người bản xứ và thu hút người nhập cư giàu có vào đất nước. Kể từ đó,
mỗi năm đều có 10.000 thị thực đặc biệt, được gọi là visa EB-5 được biên chế cho các doanh
nhân nước ngoài và gia đình của họ, những người đồng ý đầu tư ít nhất là 500.000 USD vào
các dự án kinh doanh để tạo ra và duy trì tối thiểu 10 việc làm ở Mỹ trong vòng hai năm định
cư.
Thực chất, những người nhập cư không nhận được nhiều sự hỗ trợ trong quá trình xin visa
EB-5. Tuy nhiên từ năm 1992, chương trình đã được điều chỉnh về hình thức, nhằm giúp nhà
đầu tư an tâm hơn và các công ty tư nhân Mỹ cũng được quyền can thiệp và trực tiếp thu hút
vốn từ các nhà đầu tư. Dù sự thay đổi năm 1992 không được thực hiện thường xuyên nhưng
đã mở rộng liên tục trong 18 năm qua. Quá trình mở rộng đó đã hoàn thành vào năm 2012


nhưng một số nhà lập pháp, bao gồm Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Mỹ Patrick Leahy lại

đang nỗ lực mở rộng nó lần nữa.
Mặc dù ngay từ đầu EB-5 đã bị chỉ trích là một chương trình bán quyền công dân, nhưng
những người ủng hộ, trong đó có Yale-Loehr của Cornell nhấn mạnh rằng chương trình (bao
gồm cả sự thay đổi năm 1992) là tốt cho đất nước trên nhiều phương diện.
"Đầu tiên, đó là hướng đi cho các doanh nghiệp Mỹ không có khả năng hoàn thành một dự án
vì vấn đề vốn và được sự hỗ trợ từ nguồn vốn nước ngoài. Thứ hai, đó là cơ hội tốt cho các
nhà đầu tư nước ngoài vì họ nhận được thẻ xanh thường trú nhân Mỹ. Thứ 3, đó là lợi ích
cho người nộp thuế Mỹ vì họ đang nhìn thấy sự gia tăng mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế.
Cuối cùng, đó là lợi ích dành cho người lao động Mỹ vì họ có thể tìm thêm công ăn việc làm
cho mình.”
Lịch sử chông gai của EB-5
Trong suốt một thời gian dài, chương trình EB-5 đã gây nên thất vọng và bối rối cho nhiều
người. Những người ủng hộ hy vọng chương trình sẽ thu hút tối thiểu 2.500 nhà đầu tư nhập
cư mỗi năm. Nhưng trong hai thập kỷ đầu tiên, nó chỉ thu hút khoảng 400 doanh nhân nước
ngoài mỗi năm. Thêm vào đó, việc ít công khai đã khiến tình trạng tiêu cực diễn ra liên tục, do
đó càng khó khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia chương trình.
Cuối những năm 1990, chương trình đã tạm thời dừng lại và hàng trăm nhà đầu tư nhập cư
rơi vào tình thế lấp lửng giữa những cáo buộc pháp lý của Cơ quan Di trú Mỹ (sau này được
gọi là Di trú và Nhập tịch (INS)). Cơ quan này đã phán quyết vấn đề EB -5 theo hướng ưu tiên
cho các doanh nghiệp theo luật AIS, vốn đã được thiết lập bởi các thành viên cũ trong INS.
Cuối cùng, không ai trong AIS hay INS bị buộc tội trong vụ việc. Hệ quả tất yếu là đơn xin
nhập cư của hàng trăm nhà đầu tư và các thành viên gia đình họ vẫn ở trạng thái lấp lửng
suốt 11 năm về sau.
Hai năm sau khi thành lập AIS, các nhà điều hành của một công ty có tên “Nhóm liên ngân
hàng” đã bị kết án hàng chục tội danh liên quan đến visa và email lừa đảo các nhà đầu tư EB5. Hai trong số những người sáng lập của công ty đã đi tù. Tuy nhiên sau đó, vẫn có hàng
trăm người nhập cư bị thu hút bởi đất nước này.
Năm ngoái, bốn người Hàn Quốc đầu tư vào một trang trại bò sữa South Dakota thông qua
chương trình EB-5 đã mất toàn bộ vốn đầu tư khi giá sữa sụt giảm và các nhà quản lý trang
trại không trả tiền thế chấp. Bốn người họ đã đầu tư tổng cộng 2.000.000 USD vào trang trại.
Sau một thời gian tìm hiểu, họ phát hiện đối tác đã gian lận và tước bỏ quyền lợi của mình.

Cả 4 người sau đó đã cố gắng khởi kiện tại tòa án nhà nước nhưng không hiệu quả.
EB-5 có thực sự nhanh chóng và dễ dàng?
Một trong những luận điệu phổ biến nhất mà các nhà xúc tiến thường nói là EB-5 là cách
nhanh chóng và chắc chắn nhất để nhà đầu tư có được thẻ xanh vĩnh viễn. Tuy nhiên, thống
kê của USCIS lại mâu thuẫn hoàn toàn với bức tranh màu hồng đó.
Cụ thể, có tổng cộng có 13.719 người đã tham gia chương trình EB-5 từ năm 1990 theo số
liệu của Sở Di trú Mỹ. Nhưng có đến 4489 người bị từ chối thẳng thừng vì nhiều lý do, trong
đó có lý do không chứng minh được số tiền đầu tư là hợp pháp. 848 nhà đầu tư khác vẫn
đang trong giai đoạn chờ.


Trong số 8.382 nhà đầu tư được phép tham gia chương trình và được cấp thị thực trong
những năm qua, chỉ có 5.748 người đã sống ở Mỹ đủ lâu (về mặt lý thuyết) để nộp đơn xin
thẻ xanh vĩnh viễn, kết thúc tình trạng thường trú nhân.
Vì vậy, thực chất có bao nhiêu người đã đạt đến cột mốc quan trọng đó trong 20 năm qua?
Chỉ 3.127 nhà đầu tư. Còn lại 2.621 nhà đầu tư khác hoặc bị từ chối đơn xin thường trú vĩnh
viễn và tìm cách khác để bám trụ tại Mỹ, hoặc phải bỏ cuộc và trở về quê hương cùng với gia
đình và dẹp đi “giấc mơ Mỹ” của mình.
Nói cách khác, chỉ có 54% người nhập cư thật sự đi đến được bước cuối cùng của chương
trình EB-5 và có được thẻ xanh vĩnh viễn. Chương trình này vì thế ẩn chứa rất nhiều rủi ro
chứ không chắc chắn như nhiều người vẫn nghĩ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại đang tiếp
thị nó như một lĩnh vực an toàn cho tất cả mọi người.
Tại một hội thảo gần đây ở Seoul, đại diện Công ty tư vấn di cư nước ngoài Kookmin đã thay
mặt New York Regional Center thông báo với các nhà đầu tư tiềm năng rằng nếu họ đầu tư
vào các dự án của công ty, họ sẽ được đảm bảo thẻ xanh vĩnh viễn. Ông này cũng cho biết
vốn của các nhà đầu tư sẽ được tài trợ cho việc xây dựng những ngôi nhà mới cho đội bóng
rổ New Jersey Nets NBA. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn sau đó với Reuters, George
Olsen, quản lý chính của New York Regional Center đã cho biết tuyên bố của công ty
Kookmin là “không chính xác”. Vốn của các nhà đầu tư sẽ được tài trợ cho việc xây dựng lại
đường sắt và một số cơ sở hạ tầng liên quan gần sân bóng rổ mới.

“Điều đó thật bực bội”, Olsen nói. “Bạn không thể có mặt tại tất cả các buổi hội thảo, bạn cũng
không thể có mặt tại tất cả các buổi gặp gỡ, bạn không thể ở trong phòng khi có người đang
nói chuyện. Để huy động được 100 triệu USD, bạn phải có 200 nhà đầu tư. Đó là một số tiền
rất lớn. Vì vậy, bạn phải chi một khoản không nhỏ cho tiếp thị và quảng cáo nhưng lại không
thể kiểm soát tất cả những gì mà đối tác của bạn nói ra”.
Cảm ơn Thống đốc
Trong bài thuyết trình của mình ở nước ngoài, nhiều doanh nghiệp EB-5 cũng nhấn mạnh vai
trò USCIS trong việc cấp phép cho họ, đi kèm với đó là sự hỗ trợ và ủng hộ của chính phủ để
khiến mọi người đều yên tâm. Các diễn giả của Kookmin là một ví dụ, họ thông báo với các
khách hàng trong hội thảo ở Seoul rằng chính phủ bang New York đã tham gia vào các dự án
xây đường sắt nói trên. Ông Olsen cho biết điều này không chính xác. Tuy nhiên, thực chất là
các tuyên bố tương tự vẫn được lặp đi lặp lại nhiều lần ở nhiều nước khác nhau.
Trong một động thái nhằm thu hút các nhà đầu tư tiềm năng, nhiều trung tâm vùng chỉ định ở
Nam Dakota, Vermont và Idaho và nhiều nơi khác thậm chí còn mang danh viên chức bầu cử
để bán cổ phần đầu tư ra nước ngoài. Gibson gọi đó là một vấn đề khá nghiêm trọng. Các
chuyến thăm của chính trị gia cao cấp, bao gồm cả thống đốc bang vẫn tiếp tục được tận
dụng để quảng bá dự án ra nước ngoài.
“Chúng tôi yêu cầu họ mời quan chức chính phủ của họ” Hong Yu, người quản lý dự án cho
Wailian Consulting Group ở nước ngoài, hoạt động tương tự như Maslink cho biết: “Điều đó
rất quan trọng với người dân Trung Quốc. Người dân Trung Quốc luôn có suy nghĩ rằng “OK,
dự án được chính phủ hỗ trợ” và cảm thấy an toàn hơn.”


Thế nhưng điều đó hoàn toàn sai lầm. Bentley, phát ngôn viên của USCIS cho biết: “Doanh
nghiệp được chấp thuận đầu tư và cấp phép huy động vốn EB-5 không có nghĩa là các dự án
đó được chính phủ hậu thuẫn và đảm bảo.”
Sự xuống dốc gấp đôi
Có một vấn đề lớn vẫn tồn tại trong chương trình EB-5, đó là việc các luật sư dựa vào sự rối
rắm trong điều hành EB-5 ở Mỹ để đưa người nhập cư đến và nhận tiền hoa hồng. Mặc dù
không phải lúc nào các luật sư cũng tiết lộ, nhưng một trong số đó rất có thể đã vi phạm các

điều luật chứng khoán Mỹ.
Vào tháng 5, SEC công bố thư từ chối can thiệp để phản hồi yêu cầu của một công ty luật
Virginia gọi là Brumberg, Mackey & Wall. Tóm lại, SEC đã tuyên bố rõ rằng các luật sư không
được tham gia vào các giao dịch chứng khoán, trừ khi họ đăng ký là đại lý môi giới. Đây
không phải là một trường hợp EB-5 nhưng thứ liên quan đến chương trình là rất rõ ràng.
“Đây thực sự là một vấn đề đáng cảnh báo”, Latour nói trong bối cảnh hầu hết các luật sư đều
nhận tiền hoa hồng từ doanh nghiệp EB-5 dù không phải là đại lý môi giới đã đăng ký. Tuy
nhiên, thực tế là điều này vẫn rất phổ biến và các doanh nghiệp đều thừa nhận rằng họ phải
trả hoa hồng cho luật sư.
“Chỉ có Chúa mới biết có bao nhiêu luật sư ngoài kia lấy phí giới thiệu. Chúng tôi đã khuyên
họ không nên nhận. Vì nếu họ làm sai, rất có thể tạo ra những xung đột không đáng có”,
Liebman nói.
Trong nỗ lực minh bạch hóa doanh nghiệp và gia tăng các quy tắc từ chính phủ, hàng chục
doanh nghiệp chấp nhận cho các nhà đầu tư đầu tư thông qua các chương trình xuất phát từ
một tập đoàn thương mại có trụ sở tại Chicago được gọi là Hiệp hội đầu tư tại Mỹ (IIUSA).
Thay đổi kế hoạch
Andersson nói, những gì liên quan đến IIUSA có thể khiến những trung tâm mới hiểu sai về
quy định của chương trình và đặt người nhập cư vào tình huống khó khăn. Đây là cơn ác
mộng tồi tệ nhất của chúng tôi”.
Xem xét các thống kê gần đây do văn phòng khiếu nại hành chính của USCIS thực hiện cho
thấy rất nhiều “cơn ác mộng” đã xảy. Hàng chục người nhập cư EB-5 đã bị từ chối đơn xin
thường trú vĩnh viễn vì các doanh nghiệp họ đầu tư đi chệch hướng với kế hoạch nộp cho
USCIS. Đây là bản kế hoạch mà những người nhập cư phải trình ra khi họ nộp đơn xin thẻ
xanh có điều kiện lần đầu tiên, thông qua đơn I-526.
Và đó không phải là vấn đề duy nhất của chương trình. Đầu năm nay, một người nhập cư đã
đầu tư vào một dự án do Tổng công ty phát triển công nghiệp và doanh nghiệp Philadelphia,
một trong những công ty EB-5 lớn nhất và lâu đời nhất triển khai. Kế hoạch kinh doanh ban
đầu cho biết sẽ sử dụng vốn vào một công ty vật liệu xây dựng, trong đó có nêu rõ việc mở
rộng nhà kho và thuê nhân công mới. Tuy nhiên, sự suy giảm của thị trường nhà đất Mỹ đã
khiến kế hoạch mở rộng ban đầu bị hủy bỏ và công ty vật liệu xây dựng lại quay sang hướng

cho vay vốn. Phía đối tác của công ty đó quyết định vay tiền để xây dựng một nhà hàng cao
cấp và khai trương vài tháng sau đó.
Từ góc độ kinh doanh, đó là một sự thay đổi chiến lược hoàn toàn hợp lý. Nhưng việc thay
đổi kế hoạch kinh doanh lại gây ảnh hưởng đến đơn xin nhập cư của những người góp vốn


vào công ty. Khi một nhà đầu tư của dự án này nộp đơn xin thẻ xanh vĩnh viễn vào năm 2008,
USCIS đã từ chối đơn I-829 của ông. Sau đó ông này có kháng cáo nhưng văn phòng khiếu
nại hành chính của USCIS đã phản bác lại ông.
Hơn 1 năm rưỡi qua, đã có rất nhiều nhà đầu tư chịu ảnh hưởng do việc thay đổi kế hoạch
kinh doanh, gây khó khăn cho người nhập cư. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp
khẳng định họ đã thông báo các thay đổi này cho nhân viên USCIS và được trấn an là không
phải lo lắng gì về điều đó. Tuy nhiên, USCIS đã bác bỏ thông tin này. Họ cho biết: “Ý kiến của
một quan chức USCIS không được công nhận và không có nhân viên USCIS nào có thẩm
quyền quyết định hướng giải quyết của một đơn xin nhập cư”.
Đối với Ira Kurzban, một luật sư di trú đã đại diện cho hàng trăm người nhập cư bị mắc kẹt
bởi các lùm xùm trong chương trình EB-5 vào cuối năm 1990, đó là một cảm giác ám ảnh.
“Cơ quan này đúng là có trí nhớ ngắn hạn” ông nói. “Họ buộc bạn phải đệ trình đơn đề nghị I526 mới khi có bất kỳ sự thay đổi nào, như thế là vô lý. Và họ đang áp dụng chúng rất phổ
biến.”
Các hậu quả phát sinh đều do lỗi của nhà đầu tư, không phải do các doanh nghiệp EB-5.
Trong thực tế, trong suốt chặng đường 20 năm của chương trình, chỉ có một Trung tâm vùng
chỉ định bị tước bỏ quyền huy động vốn của mình. Trường hợp đó xảy ra vào đầu năm nay,
khi Trung tâm vùng chỉ định Victorville ở California bị loại khỏi chương trình vì “không chứng
minh được họ có bất kỳ dự án đầu tư nào khả thi, phù hợp với yêu cầu tạo việc làm EB-5 để
cung cấp cho các nhà đầu tư”, Bentley cho biết.
Theo Bentley, thời điểm USCIS tước quyền của Victorville, công ty này đã ký kết hợp đồng
góp vốn với ba nhà đầu tư nước ngoài. Bây giờ họ sẽ bị thu hồi thẻ xanh có điều kiện và phải
bắt đầu lại quá trình xin thẻ xanh EB-5 hoặc rời khỏi Mỹ.
Nền kinh tế còn nhiều vấn đề tồn đọng và tỷ lệ thất nghiệp cao dai dẳng, các chuyên gia lo
ngại rằng nhiều dự án EB-5 mới sẽ không đạt yêu cầu tạo việc làm nghiêm ngặt của USCIS

trong hai năm đầu tiên người đứng đơn cư trú tại Mỹ. Kết quả là, nhiều người nhập cư hơn
nữa sẽ buộc phải trở về quê hương cùng gia đình họ.
Quá trễ để quay lại
Đối với trường hợp của Victorville, nỗi thất vọng về chương trình EB-5 đến quá sớm. Thường
phải mất hàng năm cho việc ở lại Mỹ để kiến nghị về quyết định từ chối thẻ xanh vĩnh viễn
của USCIS. Đó là những gì đã xảy ra với Kyung Kim, cựu giám đốc điều hành của một công
ty bảo hiểm Hàn Quốc, người đã đến Hoa Kỳ với vợ và hai đứa con vào năm 1997 thông qua
chương trình EB-5.
Kim đầu tư vào AIS, công ty được thành lập bởi cựu quan chức INS để giúp các nhà máy dệt
may gặp khó khăn hoạt động. Tuy nhiên, ngay sau khi ông tham gia, vận may của AIS với
INS đã không còn. Công ty đã cơ cấu chương trình EB-5 theo một cách rất sáng tạo, đòi hỏi
các nhà đầu tư nước ngoài góp 125.000 USD tiền mặt (không phải 500.000 USD ngay từ đầu
theo luật EB-5) và lấy giấy hẹn trả 375.000 USD. Số tiền này sẽ được thanh toán khi đơn xin
thường trú vĩnh viễn của người di cư được chấp thuận.
Đó là một bản hợp đồng mà văn phòng pháp lý của INS đã ký tắt nhiều lần. Tuy nhiên, cơ
quan này đột ngột thay đổi ý định sau một cuộc thăm dò nội bộ, giấy hẹn trả tiền là một đảm


bảo không được phép và chỉ những người nhập cư phải chịu thiệt về quyết định thay đổi ý
định này.
INS đã trở lại và từ chối hàng trăm hồ sơ đã được phê duyệt trước đó. Trong một số trường
hợp khác, bao gồm Kim, cơ quan này chỉ đơn giản là tập hợp các hồ sơ thường trú và đưa ra
quyết định từ chối, chấp nhận hoặc phản đối họ, theo Kurzban.
Ông nói rằng hoàn cảnh của hai nhóm phản ánh một thái độ chống đối cơ bản đối với chương
trình EB-5 trong chính USCIS. “Vấn đề là có một số người trong cơ quan này không thích
chương trình EB-5 và họ đang làm bất cứ điều gì có thể để phá vỡ nó”, ông nói.
Trong 11 năm qua, Kurzban đã đấu tranh với cơ quan đại diện cho hàng trăm nhà đầu tư EB5 và gia đình họ. Ông ước tính có khoảng 100 nhà đầu tư và khoảng 300 thành viên gia đình
họ vẫn còn trong tình trạng lấp lửng giữa các điều luật của chương trình. Hầu hết các nhà đầu
tư còn lại đã từ bỏ và trở về quê hương.
Ông đã thắng được một số ít vụ kiện trong sự nghiệp của mình, trong đó có phán quyết tòa

án phúc thẩm kêu gọi sự thay đổi của công ty đại diện nhập cư với việc hồi tố bất hợp pháp.
Tuy nhiên, cơ quan này tiếp tục khởi kiện và Kurzban e rằng nó chỉ có thể là vấn đề thời gian
trước khi anh ta “chiến đấu cho 100 thủ tục trục xuất”.
Làm phức tạp vấn đề này, năm 2002, Quốc hội Mỹ đã can thiệp vào trường hợp AIS, yêu cầu
INS - tại USCIS - đưa ra giải pháp công bằng cho các nhà đầu tư AIS để họ được cư trú hợp
pháp. Các nhà lập pháp cho đại diện này 120 ngày để lên một kế hoạch. Tám năm sau, nó
vẫn chưa làm xong.
Kurzban chỉ trích sự chậm trễ của cơ quan này là bằng chứng cho sự chống đối chương trình
EB-5 từ bên trong cơ quan mà những người nhập cư tin rằng có thể trông cậy vào đó để lấy
lại công bằng cho bản thân và gia đình.
“Cho dù những người đó có bực bội vì đây là những người giàu có hoặc có bực bội vì có
những người có thể dùng tiền để bước vào đất nước này hay bất cứ điều gì khác, thực tế là
họ đang bỏ qua những điều luật mà quốc hội yêu cầu”, ông nói.
Năm 2003, Kim đã tự mình thực hiện việc kinh doanh và mua một cửa hàng tạp hóa đặc biệt.
Năm ngoái, bất chấp những rủi ro mà mình có thể phải đối mặt, ông mua một cửa hàng rượu
gần đó. Để vận hành các cơ sở kinh doanh của mình, ông sử dụng đến 18 lao động, gần gấp
đôi những gì ông đã hứa khi đến đất nước này cách đây 13 năm.
“Thật khổ sở và bực bội”, ông nói về trận chiến kéo dài của mình. Những câu chuyện khủng
khiếp như trường hợp của ông đã lan truyền tại Hàn Quốc và mối quan tâm đến các chương
trình trong nước đã giảm đáng kể. Trung Quốc, tính đến hiện tại còn nhiều thất bại hơn.
Nhưng Latour và những người khác lo lắng các nhà chức trách Trung Quốc đang mất dần
kiên nhẫn với việc quảng bá EB-5 và việc áp dụng luật nghiêm khắc hơn có thể được tiến
hành, đây là một trong những cách hiệu quả để vô hiệu hóa chương trình.
“Chính phủ đang bắt đầu khó chịu với nó”, ông nói. “Và khi Trung Quốc đóng cửa nó, tất cả
mọi người sẽ làm theo”.


Hiện nay, vốn góp của Trung Quốc trong chương trình vẫn còn cao. Vì vậy, Lee, giám đốc
điều hành của Maslink cho biết ông hy vọng sẽ bán được các suất đầu tư trong các dự án cho
những người lạ trong một hội thảo nào đó ở Trung Quốc cho đến tháng Hai, khi vợ ông, một

người Úc, sinh con và quay trở về nhà.
IMM Group (tổng hợp)
Nguồn: Reuters (bài đăng ngày 22/12/2010)



×