Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Giải pháp phát triển tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đông Á – Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.77 KB, 82 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã chuyển sang nền kinh tế
thị trường theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Thực hiện chính sách
mở cửa, bộ mặt nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển đổi mạnh,
đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu
phục vụ đời sống ngày càng cao. Nếu trước đây, người dân Việt Nam chỉ nghĩ
đến “ăn no, mặc ấm” thì hiện nay, nhu cầu của họ phải là “ăn ngon, mặc đẹp”.
Việc sở hữu những tài sản có giá trị lớn như nhà cửa, xe hơi… đã trở thành
nhu cầu của nhiều người và trên thực tế, không ít người có đủ khả năng tài
chính để thỏa mãn những nhu cầu ấy. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và cho hoạt động tín dụng tiêu dùng
nói riêng phát triển. Nếu như ở các nước phát triển, tỷ lệ cho vay tiêu dùng
thường chiếm khoảng từ 40% đến 50% trên tổng dư nợ, thì tỷ lệ này của các
tổ chức tín dụng Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 5% trên tổng dư
nợ. Qua đó cho thấy, với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay và theo báo
cáo Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam
hiện là 89 triệu người và sẽ tăng lên 111,7 triệu người vào năm 2050. Việt
Nam hiện đứng thứ 14 trong số những nước đông dân nhất thế giới, phần
đông là dân số trẻ, năng động, thu nhập không ngừng được cải thiện đang mở
ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng.
Mặt khác, xu hướng hội nhập quốc tế và chính sách mở cửa nền kinh tế
đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng thương mại quốc doanh, công ty tài chính và các ngân hàng
thương mại cổ phần đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, thu hút
khách hàng cá nhân.
Ngân hàng TMCP Đông Á là một trong những ngân hàng đầu tiên tại
Việt Nam cung cấp các sản phẩm tín dụng tiêu dùng và đã thu được những


kết quả khả quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay,
để mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng một cách an toàn và hiệu quả không


2

phải là điều đơn giản.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng và
khả năng phát triển của nó trong tương lai, đề tài: “Giải pháp phát triển tín
dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đông Á – Chi nhánh Hà Nội” đã
được chọn làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề lý luận về tín dụng tiêu dùng, nghiên cứu thực tiễn
hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đông Á– Chi nhánh Hà
Nội, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần phát triển tín dụng tiêu dùng tại
Ngân hàng TMCP Đông Á – Chi nhánh Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tín dụng tiêu dùng của ngân hàng
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong hoạt động tín dụng tiêu dùng
tại Ngân hàng TMCP Đông Á – Chi nhánh Hà Nội. Thời gian nghiên cứu từ
năm 2008 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp tư duy logic kinh tế, nhằm làm
sang tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
5. Kết cấu của chuyên đề
Tên chuyên đề: “Giải pháp phát triển tín dụng tiêu dùng tại Ngân
hàng TMCP Đông Á – Chi nhánh Hà Nội.”
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của chuyên đề bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về tín dụng tiêu dùng và sự phát triển tín dụng tiêu
dùng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng phát triển tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP
Đông Á – Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải phát phát triển tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP
Đông Á – Chi nhánh Hà Nội


3

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TIÊU DÙNG VÀ SỰ PHÁT
TRIỂN TÍN DỤNG TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
NHTM là một tổ chức kinh tế, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Trong
đó, hoạt động tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm (tín dụng) là hoạt
động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho NHTM. Quy mô, chất lượng tín dụng ảnh
hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin – người
cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay hiệu quả sau một thời gian
nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Với ngân hàng, để có thể tin
được vào khách hàng, ngân hàng luôn thẩm định, đánh giá khách hàng trước
khi cho vay. Nếu khâu này thực hiện một cách khách quan, chính xác thì việc
cho vay của ngân hàng gặp ít rủi ro và ngược lại.
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ kinh tế
giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay.
Trong đó bên cho vay chuyển giao cho bên đi vay sử dụng một lượng giá trị
(thường dưới hình thái tiền) trong một thời gian nhất định dựa theo những

điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận (thời gian, phương thức thanh toán lãi –
gốc, thế chấp…)
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng
này của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Để đảm bảo thu
hồi nợ đúng hạn, ngân hàng xác định thời hạn cho vay dựa vào quá trình luân
chuyển vốn của khách hàng và tính chất vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng
định kỳ hạn nợ một cách phù hợp với khách hàng thì khả năng trả nợ đúng
hạn cao và ngược lại.


4

Tín dụng dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Sở dĩ như vậy là vì
vốn hoạt động của ngân hàng chủ yếu là huy động từ bên ngoài, vốn chủ sở
hữu ít khi được sử dụng để sản xuất kinh doanh mà được sử dụng chủ yếu để
đầu tư vào tài sản cố định. Chính vì vậy, sau một thời gian nhất định ngân
hàng phải trả lại cho người gửi ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cần phải có
nguồn để bù đắp chi phí như trả lương, khấu hao… Do đó, người vay ngoài
việc trả gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi. Đó là nguồn thu nhập
chính của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho nhà
quản trị lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Trong quá trình phân loại có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại, song thực
tế các nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây:
1.1.2.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay và của người vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại cấp tín
dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hóa.

Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy,
ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình,
về phương án sản xuất kinh doanh của họ.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như
máy giặt, điều hòa, tủ lạnh… ở đây, nguồn trả nợ là thu nhập trong tương lai
của người vay.
1.1.2.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay của người vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác
định cụ thể. Đó có thể là một năm, hai năm…
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được


5

sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp
và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi ro
cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra
thì ngân hàng có thể dự tính được.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm
năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu
hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì vậy ngân
hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các
công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…) cải tiến và mở
rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì
trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được.

- Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay
không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc
thu hồi khoản tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ví
dụ ngân hàng không thu gốc theo thời hạn nhất định mà chỉ thu lãi; người vay
sẽ trả nợ cho ngân hàng khi nhu cầu vay thêm không cần thiết nữa do quy mô
sản xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn khác để tự bổ sung; ngân hàng
muốn thu hồi gốc phải báo trước cho người vay. Như vậy, khi quy mô sản
xuất của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời hạn (vì hết
tiền đầu tư cho chu kỳ sản xuất kinh doanh này lại cần tiếp).
1.1.2.3. Theo điều kiện đảm bảo
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ
tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được


6

các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp,
cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá
hiệu quả sử dụng tiền vay của người vay, khách hàng không được phép giao
dịch với bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng
đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn
và khả năng rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo.
1.1.2.4. Theo đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: Là loại tín dụng được
sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có

mức độ rủi ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân chuyển
trong chu kỳ sản xuất kinh doanh nên ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên
và nếu có biến động xảy ra thì kịp thời thu hồi vốn.
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định: Là loại tín dụng được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở
rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới. Hình thức tín
dụng này thường có mức độ rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn.
Ngoài ra tín dụng còn được phân chia theo các cách sau:
• Theo xuất xứ của tín dụng có:
- Tín dụng gián tiếp
- Tín dụng trực tiếp


Theo đối tượng cho vay có:

- Tín dụng cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác vay
- Tín dụng cho nhà nước vay
- Tín dụng cho người tiêu dùng vay
Dựa vào các cách phân loại trên, các nhà phân tích sẽ biết được kết cấu


7

tín dụng của từng loại tín dụng (là tỷ trọng của từng loại tín dụng trên tổng dư
nợ). Từ kết cấu tín dụng đó, so sánh với kết cấu nguồn huy động, so với nhu
cầu của nền kinh tế, sẽ giúp cho các nhà phân tích đánh giá, xem xét kết cấu
tín dụng đã phù hợp với ngân hàng chưa từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
1.2. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG TIÊU DÙNG

1.2.1. Khái niệm tín dụng tiêu dùng

Tín dụng tiêu dùng là hoạt động cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn
tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng
gia đình và xe cộ... bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và
du lịch... cũng có thể được tài trợ bởi tín dụng tiêu dùng.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng là một hoạt động tài trợ của NHTM vì vậy nó mang
đầy đủ các đặc điểm của hoạt động cho vay ngoài ra hoạt động này cũng
mang những đặc điểm riêng có khác với các loại hình tín dụng ngân hàng
khác. Ở đây sẽ tập trung vào phân tích những đặc điểm đặc thù của hoạt động
tín dụng tiêu dùng.
1.2.2.1. Đối tượng vay tiêu dùng
Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình. Vì vậy, tín dụng tiêu dùng
còn tùy thuộc vào trình độ dân trí và thu nhập của họ. Cụ thể:
Những người có thu nhập cao thường có xu hướng vay nhiều hơn so với
thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay
người tạo ra thu nhập chính cho gia đình có học vấn cao cũng như vậy. Với
họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn
là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp. Đối với các đối
tượng này vay tiêu dùng nhằm tăng thêm khả năng thanh toán và coi nó như
một khoản vay linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ của mình đã đầu
tư trung hoặc dài hạn.


8

Những người có thu nhập trung bình thường vay mượn để mua sắm hàng
tiêu dùng lâu bền hơn là dùng chính tiền tích lũy, dự phòng của mình để trang
trải cho những nhu cầu như vậy.
Những người có thu nhập thấp có nhu cầu tín dụng tiêu dùng không cao,

việc vay vốn thường tạo sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
Những khách hàng có việc làm, mức thu nhập ổn định và có trình độ học
vấn là những tiêu chí quan trọng để NHTM quyết định cho vay.
1.2.2.2. Mục đích của tín dụng tiêu dùng
Khách hàng vay để đáp ứng các mục đích sau:
+ Cho vay sửa chữa, mua sắm nhà cửa
+ Cho vay mua đất xây nhà ở
+ Cho vay mua xe ôtô, xe máy
+ Cho vay phục vụ các nhu cầu đời sống khác...
Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia
đình, không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó, nhu cầu vay tiêu
dùng phụ thuộc vào tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh
tế của người đi vay.
Trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, người dân cảm thấy lạc quan và tin
tưởng vào thu nhập trong tương lai. Vì vậy, nhu cầu cho vay tiêu dùng tăng
cao. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia
đình sẽ tăng cường tiết kiệm, chi tiêu ít hơn và hạn chế việc vay mượn từ
ngân hàng.
1.2.2.3. Quy mô tín dụng tiêu dùng
Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, quy mô của từng hợp đồng vay
thường nhỏ song tổng quy mô lại có giá trị lớn. Điều này hoàn toàn khác với
hoạt động cho vay khác với quy mô của từng hợp đồng lớn hơn rất nhiều lần
cho vay tiêu dùng. Đặc trưng này của cho vay tiêu dùng xuất phát từ đối
tượng và mục đích đặc thù của nó. Khách hàng vay Ngân hàng là để chi cho


9

tiêu dùng, mà những hàng hoá thông thường thì giá trị của nó không quá cao,
đối với các hàng hoá có giá trị cao như nhà cửa, ô tô thì thông thường khách

hàng đã tích luỹ từ trước và họ chỉ vay Ngân hàng để bù đắp phần thiếu hụt
tạm thời mà thôi. Chính vì vậy so với các món vay kinh doanh thì các món
vay tiêu dùng có quy mô nhỏ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, số lượng các món vay
tiêu dùng lại rất lớn và lớn hơn nhiều lần so với các món vay kinh doanh bởi
vì tính về số lượng thì cá nhân và hộ gia đình lớn hơn rất nhiều so với số
lượng các doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng thì rất đa dạng và phong phú.
Mặc dù, thực tế không phải tất cả các cá nhân và hộ gia đình đều là đối tượng
vay tiêu dùng bởi vì một bộ phận lớn trong số họ có thu nhập chưa đủ để tiếp
cận với dịch vụ này, song với xu thế ngày càng gia tăng thu nhập như hiện
nay, nhu cầu hưởng thụ của người dân sẽ gia tăng. Không những thế nhu cầu
của con người là vô hạn và nhu cầu này còn gia tăng nhanh hơn thu nhập.
Đến lúc này mâu thuẫn giữa mong muốn thoả mãn nhu cầu và khả năng thanh
toán sẽ nảy sinh và số người tìm đến Ngân hàng thương mại với mục đích vay
tiêu dùng sẽ ngày càng tăng.
1.2.2.4. Lãi suất tín dụng tiêu dùng
Không như các khoản cho vay sản xuất kinh doanh có lãi suất thay đổi
theo điều kiện thị trường, lãi suất trong cho vay tiêu dùng được xem là khá
“cứng nhắc”, thường được cố định trong suốt thời gian vay đặc biệt là trong
cho vay tiêu dùng trả góp. Điều này là do:
Thứ nhất, tín dụng tiêu dùng là các khoản cho vay có giá trị không cao,
nên lãi suất cho vay thường cố định.
Thứ hai, khách hàng vay tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi
suất. Người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản trả hàng tháng hơn là lãi
suất (mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô
số tiền phải trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố
quan trọng mà khách hàng vay tiêu dùng quan tâm thì mức thu nhập và trình


10


độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc vay và sử dụng các khoản tiền vay của
người tiêu dùng.
1.2.2.5. Rủi ro của tín dụng tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng được xem là khoản mục rủi ro cao nhất trong danh
mục cho vay của ngân hàng. Bên cạnh các yếu tố khách quan như môi trường
kinh tế xã hội, môi trường tự nhiên (thiên tai, hạn hán, lũ lụt…), hoạt động tín
dụng tiêu dùng còn đối diện với các rủi ro bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, xuất phát từ đối tượng cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia
đình. Người đi vay dễ dàng giữ kín các thông tin đáng ra phải trình bày (như
triển vọng công việc cũng như sức khỏe của họ) nên chất lượng các thông tin
tài chính của khách hàng vay thường không cao. Tư cách của khách hàng là
yếu tố rất quan trọng quyết định sự hoàn trả của khoản vay nhưng lại rất khó
xác định. Khả năng trả nợ của khách hàng thay đổi nhanh chóng khi họ thay
đổi điều kiện làm việc hoặc tình trạng sức khỏe. Hơn nữa, cá nhân và hộ gia
đình không thể dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài chính so với một hãng
kinh doanh. Đó là chưa kể tới trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo, chây ỳ
với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Trong
những trường hợp này thì dù ngân hàng có nắm giữ tài sản đảm bảo hay
không thì vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu nhập.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm lãi suất khoản tín dụng tiêu dùng là khá
“cứng nhắc” nên ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động
vốn tăng lên.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm tín dụng tiêu dùng có tính nhạy cảm theo
chu kỳ. Nhu cầu vay vốn tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Trên thực tế, tỷ lệ các khoản tín dụng tiêu dùng không được thanh toán
thường gấp nhiều lần so với tỷ lệ các khoản cho vay kinh doanh không được
thanh toán và chiếm nhiều nhất trong hầu hết các loại cho vay.
1.2.2.6. Chi phí cho khoản tín dụng tiêu dùng



11

Tín dụng tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí bình quân
lớn nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Điều này xuất phát từ đặc
điểm của các khoản tín dụng tiêu dùng là quy mô mỗi món vay thường rất
nhỏ, thời gian vay không kéo dài và độ rủi ro cao. Hơn nữa, các thông tin về
các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn nên ngân hàng phải
mất rất nhiều chi phí và thời gian trong khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách
hàng. Đồng thời số lượng các khoản tín dụng tiêu dùng thường lớn nên ngoài
các chi phí trên, ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác như chi phí quản lý
khoản vay, theo dõi và kiểm tra khách hàng thường xuyên…Những điều này
khiến cho việc thực hiện một khoản tín dụng tiêu dùng đối với ngân hàng là
rất tốn kém, chi phí lớn.
1.2.2.7. Lợi nhuận từ tín dụng tiêu dùng
Như đã đề cập ở trên, quy mô của các món vay tiêu dùng không lớn
nhưng số lượng các món vay là không nhỏ nên tổng quy mô cho vay là rất
lớn. Bên cạnh đó, do tính rủi ro cao nên khách hàng đến vay thường phải chịu
một mức lãi suất không nhỏ. Ngoài ra trong trường hợp khách hàng không
thanh toán nợ gốc nợ lãi đến hạn thì phải chịu mức lãi phạt rất lớn so với mức
lãi suất trong hợp đồng. Hoạt động này tỏ ra khá hiệu quả vì lợi nhuận mà
ngân hàng thu về là rất lớn.
1.2.3. Phân loại tín dụng tiêu dùng
Tùy theo các tiêu thức, mục đích mà ta có thể phân loại tín dụng tiêu
dùng thành các hình thức khác nhau.
1.2.3.1. Căn cứ vào mục đích vay


Tín dụng tiêu dùng cư trú (Residential morage loan):

Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu mua mới hoặc sửa chữa

nhà ở, căn hộ và trong một số trường hợp bao gồm cả đất đai. Tín dụng tiêu
dùng cư trú khác với phần lớn các hình thức cho vay khác ở những điểm sau:


12

- Quy mô của một món vay tiêu dùng cư trú thường lớn hơn nhiều so với
quy mô của các món vay tiêu dùng thông thường.
- Các khoản vay tiêu dùng cư trú thường có kỳ hạn dài nhất trong danh
mục cho vay của NHTM (đến 20 năm). Do đó loại cho vay này thường chứa
đựng những nguy cơ rủi ro tín dụng đáng kể bởi vì nhiều vấn đề có thể xảy ra
bao gồm cả những thay đổi tiêu cực trong điều kiện kinh tế, lãi suất, sức khỏe
người vay trong suốt kỳ hạn của khoản vay.


Tín dụng tiêu dùng không cư trú (Nonresidential morage loan):

Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua
sắm phương tiện ôtô, xe máy... Tính khả dụng của các loại tài sản này khá
cao, giá trị ở mức trung bình nên nhiều người tiêu dùng có nhu cầu mua sắm.
Giá trị của các khoản vay này không lớn, số lượng món vay phát sinh nhiều.
Tài sản đảm bảo có thể là chính các tài sản hình thành từ vốn vay.


Cho vay tài trợ nhu cầu tiêu dùng khác
Mục đích của hoạt động cho vay tiêu dùng này là để tài trợ cho các nhu

cầu như du học, chữa bệnh, cưới hỏi, du lịch... Đối với các khoản vay này căn
cứ để ra quyết định cho vay hay không chính là thu nhập để trả nợ của người
vay, sau đó mới xem xét đến giá trị của tài sản đảm bảo.

1.2.3.2. Căn cứ vào hình thức cho vay


Cho vay gián tiếp (Indirect consumer loan)

Là hình thức cho vay, trong đó Ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của
các Doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người
tiêu dùng, hình thức này Ngân hàng cho vay thông qua các Doanh nghiệp bán
hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.
Ưu điểm:
Dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay.
Tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay.


13

Làm cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động khác của Ngân hàng.
Nếu NHTM quan hệ tốt với các Doanh nghiệp bán lẻ thì hình thức này có
mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp sẽ được nói đến sau đây.
Hạn chế:
Khi cho vay các NHTM không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng (người
vay vốn) mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ. Nhất
là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của Doanh nghiệp và
Ngân hàng không giống nhau. Mặt khác, qui trình và kỹ thuật nghiệp vụ với
hình thức cho vay này rất phức tạp.


Cho vay tiêu dùng trực tiếp(Direct cosumer loan)


Là Ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay
hoặc thu nợ.
Ưu điểm:
Ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ
năng của cán bộ tín dụng, do đó các khoản cho vay này thường có chất lượng
cao hơn so với cho vay thông qua các Doanh nghiệp bán lẻ.
Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay
tiêu dùng gián tiếp vì khi quan hệ trực tiếp với khách hàng, Ngân hàng sẽ xử
lý tốt hơn các vấn đề phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi
cho cả Ngân hàng và khách hàng.
Do đối tượng khách hàng rất rộng nên việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích
mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh
của Ngân hàng đến với khách hàng.
Hạn chế:
Do cán bộ Ngân hàng phải trực tiếp làm việc với khách hàng nên Ngân


14

hàng tốn nhiều thời gian và chi phí so với cho vay theo hình thức gián tiếp,
nhất là khi lượng khách hàng đến đông cùng một thời gian thì sẽ gây khó
khăn cho Ngân hàng.
1.2.3.3. Căn cứ vào phương thức hoàn trả


Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng, trong đó người đi vay trả nợ (gồm

gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời
hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá

trị lớn hoặc thu nhập từng kỳ của người vay không đủ khả năng thanh toán
một lần hết số nợ vay.
Đối với hình thức cho vay tiêu dùng này các ngân hàng thường chú ý
tới một số vấn đề có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của người vay sẽ tốt hơn nếu
tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu
dài trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý
đến điều này, vì vậy các ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua
sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hay có giá trị lớn. Với những
loại tài sản như vậy người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng
trong một khoảng thời gian dài.
- Số tiền phải trả trước: Thông thường ngân hàng yêu cầu người vay phải
thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm (số tiền trả trước ),
phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước phải đủ lớn để một mặt,
làm cho người vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác, lại
có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi khách hàng không cảm
nhận được mình là chủ của tài sản hình thành từ vốn vay thì họ sẽ có thái độ
miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong
nhiều trường hợp ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mại tài sản để thu


15

hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá thị
trường nhỏ hơn giá hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai
trò quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
- Chi phí khoản vay: Chi phí khoản vay là chi phí mà người đi vay phải
trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay
và các chi phí khác có liên quan. Chi phí khoản vay này phải đủ để trang trải
được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, rủi ro đồng thời mang lại một

phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
- Điều khoản thanh toán: Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc
thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau
+ Số tiền thanh toán mỗi thời kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập
trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
+ Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay chưa
được thu hồi.
+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng.
+ Thời hạn cho vay không nên quá dài. Thời hạn cho vay bị giới hạn bởi
thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn cho vay quá dài dễ làm cho
giá trị của tài sản tài trợ bị giảm mạnh, đồng thời rủi ro tín dụng cũng tăng
lên. Hơn nữa khi thời hạn cho vay quá dài thì thiện trí trả nợ của người vay
cũng như khả năng thu hồi nợ gặp nhiều rắc rối.
+ Vấn đề trả nợ trước hạn: Khách hàng trả nợ trước hạn, điều này sẽ làm
thay đổi kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, khi đó khách hàng sẽ có thể
phải nộp một khoản phí trả nợ trước hạn.


Cho vay tiêu dùng phi trả góp

Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả
góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ thời hạn không dài, hoặc
khách hàng có khả năng trả nợ vào cuối thời hạn vay.


Cho vay tiêu dùng tuần hoàn


16


Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc
được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong
thời hạn tín dụng thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập
kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay
và trả nợ nhiều kỳ tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng.
1.2.3.4. Căn cứ vào hình thức bảo đảm


Cho vay có tài sản đảm bảo

Là cho vay với tài sản đảm bảo là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng
trước khi vay vốn của ngân hàng hoặc bất động sản, động sản...hình thành từ
vốn vay. Tài sản đảm bảo làm tăng tính an toàn cho khoản vay do ngân hàng
có thể tạo áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống xấu
nhất khách hàng không trả được nợ thì việc phát mại tài sản đảm bảo cũng
giúp giảm bớt tổn thất của ngân hàng.


Cho vay không có tài sản đảm bảo

Là cho vay chỉ dựa trên uy tín và khả năng trả nợ của khách hàng vay,
không có tài sản đảm bảo. Ngân hàng thường lựa chọn các khách hàng có
thân nhân và khả năng trả nợ tốt để cho vay.
1.2.4. Vai trò của tín dụng tiêu dùng
1.2.4.1. Đối với Ngân hàng
Thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng, mối quan hệ của NHTM với
khách hàng được mở rộng và phát triển. Tín dụng tiêu dùng tạo điều kiện cho
cá nhân và hộ gia đình hưởng các lợi ích mà họ chưa có khả năng hưởng thụ

từ đó, tạo được chỗ đứng cho ngân hàng trong tâm trí khách hàng góp phần
quảng bá hình ảnh của ngân hàng tới đông đảo khách hàng. Mặt khác, phần
lớn nguồn vốn mà ngân hàng huy động được là từ các cá nhân và hộ gia đình.
Đặc biệt hiện nay, tỷ trọng nguồn này trong cơ cấu tổng vốn huy động của các
NHTM đang ngày một tăng lên thì việc tăng cường quan hệ với khách hàng -


17

cá nhân và hộ gia đình sẽ góp phần giúp ngân hàng tăng cường khả năng huy
động tiền gửi từ đối tượng khách hàng này. Không chỉ gia tăng quan hệ với
người tiêu dùng mà nhờ hoạt động tín dụng tiêu dùng, ngân hàng còn thiết lập
được mối quan hệ với các hãng sản xuất, các hãng bán lẻ từ đó có thể là tiền
đề để cung cấp các dịch vụ ngân hàng đa dạng khác.
Tín dụng tiêu dùng mang lại cho ngân hàng một nguồn lợi nhuận lớn.
Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng và hưởng lãi suất. Lãi suất này thường
cao hơn rất nhiều so với lãi suất cho vay kinh doanh vì vậy thu nhập mà hoạt
động này mang lại là không nhỏ. Trong khi đó, số lượng cá nhân và hộ gia
đình lớn hơn rất nhiều so với số lượng các doanh nghiệp nên thị trường tín
dụng tiêu dùng rất lớn và khả năng sẽ mang lại cho ngân hàng thu nhập ngày
càng cao.
Thực hiện tín dụng tiêu dùng, các NHTM đã tạo thêm một dịch vụ tài
chính mới góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM. Khi mà thị
phần ở thị trường truyền thống của NHTM bị sự cạnh tranh gay gắt của các
định chế tài chính phi ngân hàng thì tín dụng tiêu dùng thực sự là một hướng
đi mang tính cạnh tranh cao. Với một số lượng khách hàng khổng lồ và ngày
càng gia tăng do thu nhập của người dân được nâng cao, thị trường này sẽ
giúp ngân hàng phân tán rủi ro, sử dụng hiệu quả đồng vốn huy động được và
qua đó gia tăng thu nhập.
Bên cạnh đó, tín dụng tiêu dùng có lợi nhuận rất cao tương ứng với chi

phí và rủi ro cao của nó, nhưng nếu ngân hàng có những biện pháp phòng
ngừa tốt thì sẽ giảm được đáng kể rủi ro từ hoạt động này. Tín dụng tiêu dùng
đang được coi là một hoạt động mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho các ngân
hàng thương mại. Do đó, mở rộng tín dụng tiêu dùng là một hướng đi hợp lý
và đầy triển vọng sinh lời của ngân hàng.
1.2.4.2. Đối với khách hàng
Có thể khẳng định rằng chính khách hàng là người hưởng thụ nhiều nhất
những lợi ích mà hoạt động tín dụng tiêu dùng mang lại. Với hoạt động này,


18

người tiêu dùng có thể mua sắm những hàng hoá thiết yếu, có giá trị cao, thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống trước khi
họ có thể tích luỹ đủ để tự trang trải cho các nhu cầu này. Chính hoạt động tín
dụng tiêu dùng đã chuyển những nhu cầu chưa có khả năng thanh toán của
khách hàng thành những nhu cầu có khả năng thanh toán.
Con người luôn có vô số các nhu cầu và các nhu cầu này được sắp xếp
theo thứ tự cao dần. Kinh tế càng phát triển, thu nhập của người dân ngày
càng cao thì các nhu cầu cũng ngày một cao hơn. Trong đó, những nhu cầu
thiết yếu như nhà ở, phương tiện đi lại, y tế là nhu cầu mà ai cũng có và lợi
ích từ việc thoả mãn những nhu cầu này là rất lớn. Tuy nhiên, không phải lúc
nào con người cũng có thể thực hiện được những nhu cầu này bởi vì họ luôn
bị giới hạn bởi khả năng tài chính. Thực tế thu nhập của mỗi người tăng theo
thời gian làm việc và kinh nghiệm mà những thứ này lại tỷ lệ thuận với tuổi
đời. Chính vì vậy phần lớn nhu cầu của con người chỉ được thoả mãn khi về
già - khi mà thu nhập tích luỹ đã đủ để đáp ứng các nhu cầu này. Song lúc này
lợi ích từ việc thoả mãn nhu cầu đã giảm sút thậm chí không mang lại cho con
người sự thoả mãn. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể thực hiện được các
nhu cầu trong hiện tại khi mà khả năng tài chính chưa đủ để trang trải? câu trả

lời ở đây chính là: tín dụng tiêu dùng. Với hoạt động này, người tiêu dùng
được tiêu dùng trong hiện tại và thanh toán bằng thu nhập trong tương lai. Lợi
ích mà họ được hưởng là rất lớn, người tiêu dùng có thể hưởng cuộc sống tốt
hơn và có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ
giáo dục, giúp họ nâng cao trình độ học vấn, tạo cho họ cơ hội gia tăng thu
nhâp…
Mặt khác, việc thỏa mãn trước nhu cầu sẽ thúc đẩy người tiêu dùng phấn
đấu để chi trả cho nhu cầu đó càng sớm càng tốt. Vì khi vay ngân hàng để
mua sắm thì chính tài sản đó trở thành vật bảo đảm đối với ngân hàng, mà


19

tâm lý chung không ai muốn nắm giữ tài sản mà không phải của mình. Điều
này gián tiếp đưa đến việc tăng thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại vì nó
có thể làm cho người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho phép làm giảm khả
năng tiết kiệm hoặc/và chi tiêu trong tương lai, còn nghiêm trọng hơn, nếu mất
khả năng chi trả thì người này có thể gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.
1.2.4.3. Đối với nền kinh tế
Song song với việc thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người tiêu dùng, hoạt động tín dụng tiêu dùng đã đẩy
mạnh quá trình tiêu thụ hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển. Các hãng sản
xuất – kinh doanh sẽ có điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn và tăng khả năng cạnh tranh trong việc cung ứng sản phẩm, tạo nên
sự sôi động cho nền kinh tế.
Đặc biệt, thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng, các NHTM đã góp
phần kích cầu trong nền kinh tế, từ đó hỗ trợ Nhà nước đạt được các mục tiêu
kinh tế như tăng GDP, tăng thu nhập bình quân đầu người…
1.3. PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG TIÊU DÙNG


1.3.1. Quan điểm về phát triển tín dụng tiêu dùng
Mục đích về phát triển tín dụng tiêu dùng là nhằm gia tăng thu nhập
cho NHTM. Do đó khi nói đến phát triển tín dụng tiêu dùng, ta phải xem xét
trên các khía cạnh: Tăng quy mô tín dụng tiêu dùng và phải gắn kết với việc
nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng.
Tăng quy mô tín dụng tiêu dùng được hiểu là tăng dư nợ tín dụng tiêu
dùng. Với mục tiêu gia tăng thu nhập cho ngân hàng, việc tăng dư nợ tín dụng
tiêu dùng phải đảm bảo thu nhập từ hoạt động tín dụng tiêu dùng cũng gia
tăng. Chính vì vậy, các NHTM luôn cố gắng áp dụng các biện pháp thúc đẩy
tăng trưởng dư nợ tín dụng tiêu dùng thông qua việc nghiên cứu, triển khai
các sản phẩm cho vay mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy nhanh tốc độ xử


20

lý các hồ sơ vay vốn, tăng cường công tác marketing... nhằm đáp ứng đa dạng
các nhu cầu vay vốn của khách hàng, thu hút thêm khách hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng
với hoạt động tín dụng tiêu dùng mà còn đối với hoạt động chung của NHTM.
Nếu các khoản vay có chất lượng không tốt sẽ đe doạ khả năng thu hồi gốc và
lãi, NHTM không thu được lãi thì sẽ ảnh hưởng đến thu nhập từ hoạt động
cho vay đồng thời NHTM cũng phải mất thêm nhiều chi phí như chi phí trích
lập dự phòng rủi ro, chi phí thu hồi nợ khác... Chính vì vậy, khi phát triển tín
dụng tiêu dùng các NHTM thường quan tâm đến việc kiểm soát hoạt động
cho vay, củng cố bộ máy, trình độ quản lý và công nghệ để đảm bảo nâng cao
chất lượng cho vay.
1.3.2. Sự cần thiết phát triển tín dụng tiêu dùng
Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn, nhưng từ
những năm 70 trở lại đây các NHTM đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và

một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và
dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Xuất phát từ quan điểm này mà
trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng chỉ tập trung vào cho vay sản xuất kinh
doanh và không tích cực cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình. Họ tin rằng các
khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ, với rủi ro vỡ nợ tương
đối cao và do đó làm cho chúng có mức sinh lời thấp.
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai, hệ thống NHTM đã phải tiến hành
cải cách với lý do sức ép cạnh tranh. Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường
vốn khiến các công ty lớn giảm việc vay vốn từ ngân hàng và thay vào đó là
huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu và
trái phiếu. Ngoài ra ngân hàng còn chịu sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ
các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính trung gian khác. Sự cạnh tranh
này khiến thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút. Điều
này buộc ngân hàng phải tìm cách chuyển hướng sang hoạt động khác để gia


21

tăng thu nhập.
Trong những năm gần đây, dịch vụ tín dụng tiêu dùng trên thế giới phát
triển mạnh mẽ. Tín dụng tiêu dùng được xem là một trong những hoạt động
mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng thương mại. Ở Mỹ và châu
Âu, các khoản tín dụng tiêu dùng thường chiếm 20-40% tổng dư nợ cho vay
của hệ thống ngân hàng, có trường hợp tỷ lệ này lên tới trên 60%...Bên cạnh
đó, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, sự cải thiện đáng kể trong mức
sống của dân cư khiến nhu cầu vay tiêu dùng tăng lên mạnh mẽ.
Tại Việt Nam không nằm ngoài quy luật phát triển chung, khi mà môi
trường cạnh tranh trên thị trường cho vay ngày càng khốc liệt thì việc các
ngân hàng chuyển hướng từ lĩnh vực cho vay truyền thống sang quan tâm tới
cho vay cá nhân, hộ gia đình là một tất yếu. Nhiều ngân hàng đã thành lập

những phòng tín dụng tiêu dùng độc lập. Sự chuyên môn hóa này giúp các
ngân hàng tăng quy mô, giảm rủi ro và chi phí trong các khoản tín dụng tiêu
dùng đưa tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng
có mức tăng trưởng nhanh nhất của ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng liên tục phát triển và khẳng định vị trí số một của mình
trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Một trong những nguyên nhân cơ bản là:
ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là
nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ
không muốn gửi tiền vào ngân hàng nếu họ không thấy được triển vọng vay
lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu.
Trong những năm tới đây, hoạt động tín dụng tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng
vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng trong tương lai sẽ
hướng theo mục tiêu về sự thuận tiện cho khách hàng vay tiêu dùng. Ngân
hàng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng nhận được khoản vay sớm hơn trong
khi vẫn duy trì được sự kiểm soát đối với món vay tiêu dùng để tránh những
giảm sút đáng kể về chất lượng tín dụng.


22

1.3.3. Các tiêu chí phản ánh sự phát triển của tín dụng tiêu dùng
1.3.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển theo chiều rộng


Chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng về quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ

tín dụng tiêu dùng.
Sự gia tăng về quy mô dư nợ tín dụng tiêu dùng được xác định qua giá
trị tăng trưởng tuyệt đối theo công thức sau:
Giá trị tăng trưởng

tuyệt đối

=

Dư nợ tín dụng tiêu
dùng cuối năm (t)

-

Dư nợ tín dụng tiêu
dùng cuối năm (t- 1)

Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng tiêu dùng được xác định qua giá trị
tăng trưởng tương đối theo công thức sau:
Dư nợ tín dụng tiêu dùng cuối năm t - Dư nợ tín dụng tiêu dùng cuối năm (t-1)
Dư nợ tín dụng tiêu dùng cuối năm( t-1)


Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển được thể hiện qua đối tượng khách

hàng
Khách hàng đến với ngân hàng đông, tạo điều kiện cho ngân hàng phát
triển mạnh, kích thích ngân hàng mở rộng các hình thức dịch vụ phục vụ
khách hàng tốt hơn, đa dạng hơn, tiện ích và an toàn mà giá cả lại hợp lý, tạo
tâm lý thoải mái cho khách hàng. Đây cũng là điều kiện để ngân hàng mở
rộng quy mô rộng lớn, thu hút khách hàng đến với ngân hàng ngày một đông.
Sự gia tăng về quy mô khách hàng vay tiêu dùng được xác định qua giá
trị tăng trưởng tuyệt đối theo công thức sau:
Giá trị tăng trưởng
tuyệt đối



=

Khách hàng vay tiêu
dùng cuối năm (t)

-

Khách hàng vay tiêu
dùng cuối năm (t- 1)

Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tỷ trọng
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng tiêu dùng trong tổng dư nợ tín

dụng của NHTM. Tỷ trọng dư nợ tín dụng tiêu dùng trong tổng dư nợ tín
dụng càng lớn thì hoạt động tín dụng tiêu dùng của NHTM đó càng phát triển.
Ở các NHTM hoạt động theo định hướng bán lẻ, chỉ tiêu này thường cao hơn


23

các NHTM hoạt động theo định hướng bán buôn.
Tỷ trọng tín dụng tiêu dùng trong tổng dư nợ của NHTM được xác định
như sau:
Dư nợ cho vay tiêu dùng cuối năm (t)
x 100%
Tổng dư nợ cho vay (t)
1.3.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển theo chiều sâu



Chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ nợ quá hạn trên dư nợ tín dụng tiêu dùng

Tỷ lệ nợ quá hạn


=

Dư nợ quá hạn tín dụng tiêu dùng
Dư nợ tín dụng tiêu dùng

Chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ tín dụng tiêu dùng

Dư nợ xấu tín dụng tiêu dùng
Dư nợ tín dụng tiêu dùng
Như đã đề cập ở trên, tăng quy mô tín dụng tiêu dùng phải đi đôi với
Tỷ lệ nợ xấu

=

việc nâng cao chất lượng tín dụng. Các NHTM không thể chỉ mở rộng cho
vay mà không quan tâm đến tỷ lệ nợ xấu. NHTM chỉ có thể tiếp tục mở rộng
cho vay khi việc mở rộng này không làm tăng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.


Tăng thu nhập lãi thuần từ hoạt động tín dụng tiêu dùng

Thu nhập lãi thuần từ hoạt động tín dụng tiêu dùng được xác định bằng:
Thu nhập lãi thuần từ
TDTD


=

Thu nhập lãi từ TDTD
năm (t)

-

Chi phí lãi cho TDTD
năm( t)

Đây vừa là chỉ tiêu phản ánh việc mở rộng tín dụng tiêu dùng vừa là mục
tiêu của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng. Khi thu nhập lãi thuần từ hoạt động
tín dụng tiêu dùng của một NHTM năm sau cao hơn năm trước ta có thể đánh
giá hoạt động tín dụng tiêu dùng của NHTM đó được mở rộng.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng tiêu dùng của ngân
hàng thương mại
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động cho vay nào khác của NHTM,
cho vay tiêu dùng chịu ảnh sự ảnh hưởng, tác động của nhiều yếu tố. Nghiên
cứu các yếu tố này và các tác động của nó là cơ sở để tìm ra phương hướng
nhằm phát huy các tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực góp phần


24

quan trọng trong việc tồn tại, phát triển và mở rộng hoạt động tín dụng tiêu
dùng của NHTM.
1.3.4.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng



Chiến lược hoạt động của NHTM

Trong quá trình tồn tại và phát triển các NHTM phải xây dựng cho mình
một chiến lược hoạt động lâu dài và các chiến lược hoạt động cho từng thời
kỳ cụ thể nhằm phát huy tối đa thế mạnh và khả năng của mình cũng như hạn
chế những điểm yếu. Chiến lược tổng thể này sẽ được cụ thể hoá thành các
mục tiêu, kế hoạch, chương trình hành động thống nhất theo đúng định hướng
đã xác định. Chính vì vậy chiến lược hoạt động của ngân hàng sẽ quyết định
khả năng phát triển của các mảng dịch vụ cụ thể. Nếu một ngân hàng thực
hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ, quyết tâm dẫn đầu trong thị trường cho vay
tiêu dùng thì ngân hàng sẽ tập trung tối đa nguồn lực cho hoạt động tín dụng
tiêu dùng như: Nghiên cứu để đưa ra một danh mục sản phẩm đa dạng, đơn
giản và rút ngắn thời gian ra quyết định cho vay, đa dạng hoá các hình thức
cho vay sao cho phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng, thực hiện
marketing rầm rộ trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng… Và lúc đó
hoạt động tín dụng tiêu dùng sẽ có điều kiện để phát triển nhanh chóng.


Vốn tự có

Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do chính ngân hàng tạo lên
và thuộc sở hữu của ngân hàng, nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong toàn bộ nguồn vốn (khoảng 5% - 10%) song nó lại là nguồn vốn có vai
trò quan trọng tới hoạt động của ngân hàng. Ngoài chức năng quan trọng là
bảo vệ, vốn tự có được coi như là điểm khởi đầu cho mọi hoạt động kinh
doanh, nó có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau liên quan tới
việc mở rộng tín dụng như trang thiết bị cơ sở vật chất, tài sản cố định, cho
vay, đầu tư góp vốn… Đấy được coi là tài sản đảm bảo tạo lòng tin đối với
khách hàng.



25

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong chiến lược, mở rộng kinh doanh,
là cơ sở để NH gia tăng quỹ cho vay, trang bị cho mình cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại để phục vụ khách hàng. Với vai trò này, hiện nay các ngân hàng
không ngừng gia tăng quy mô vốn tự có của mình.


Cơ cấu tổ chức và mạng lưới chi nhánh của ngân hàng

Nếu một NHTM có cơ cấu tổ chức hợp lý phân công phân nhiệm rõ ràng
thì sẽ tạo ra một sự thông suốt trong toàn bộ hệ thống, tất cả các khâu từ lập
kế hoạch, thực hiện kế hoạch đến kiểm tra đánh giá được thực hiện một cách
nhanh chóng, hiệu quả… Tất cả các mảng hoạt động của ngân hàng nói chung
và hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng sẽ được thực hiện thuận tiện, luôn
được hoàn thiện… tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển.
Mạng lưới chi nhánh của ngân hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự
phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu một NHTM cung cấp dịch vụ
cho vay để mua nhà chung cư thì nó không thể đặt chi nhánh tại các thị trấn
hay vùng nông thôn, cũng như sản phẩm cho vay mua ô tô thì địa bàn phát
triển chủ yếu là vùng đô thị, các thành phố lớn nơi mà người tiêu dùng thường
có nhu cầu mua ô tô.
Địa điểm đặt phòng giao dịch hoặc trụ sở của ngân hàng cũng tác động
đến khả năng cho vay tiêu dùng. Nếu địa điểm là nơi đông dân cư và thu
nhập khá sẽ khác với địa điểm ít dân cư với thu nhập thấp. Lúc này ngân
hàng phải có chiến lượng marketing cũng như cơ chế cho vay… linh hoạt
phù hợp nhằm mở rộng tín dụng tiêu dùng.



Chất lượng và tính đa dạng của các sản phẩm tín dụng tiêu dùng

Chất lượng và tính đa dạng của các sản phẩm tín dụng tiêu dùng vừa thể
hiện sự phát triển của hoạt động này đồng thời là nhân tố trực tiếp tác động tới
hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. Một ngân hàng muốn có vị thế
trong hoạt động tín dụng tiêu dùng thì nó phải cung cấp một danh mục sản


×