Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích bài thơ tây tiến của quang dũng (theo từng đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.61 KB, 9 trang )

Đề 01.
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
( Tây Tiến- Quang Dũng)
Gợi ý làm bài.
Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì
kháng chiến chống Pháp. Ông là một nhà thơ đa tài: vẽ tranh, soạn nhạc, sáng tác thơ,…
nhưng có lẽ tiêu biểu hơn cả vẫn là thơ, một trong những bài thơ hay được nhiều thế hệ bạn
đọc nhắc tới là bài thơ “Tây Tiến”. “Tây Tiến” được ông sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu
Chanh, sau khi ông rời đơn vị và nhớ về kỉ niệm một thời gắn bó với đoàn binh Tây Tiến.
Một trong những nỗi niềm thương nhớ đó là những kỉ niệm khó quên về những chuỗi ngày
hành quân gian khổ nơi núi rừng miền Tây Bắc được thể hiện cụ thể qua đoạn thơ:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dải dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đồng đội mình trên những
con đường hành quân gian khổ giữa núi rừng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Thơ ca của ta từ xưa thường nói về những nỗi nhớ thương. Nhưng “nhớ chơi vơi” tạo
cảm giác tưởng nỗi nhớ như bềnh bồng trong không gian, một sáng tạo độc đáo của Quang
Dũng. Vần “ơi” được lặp lại ba lần trong hai câu thơ như muốn nhấn mạnh thêm nối nhớ
da diết, nhớ như không thể tả nỗi. Ca dao xưa cũng thể hiện nỗi nhớ nhưng không nhớ
bằng câu thơ này:
“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Bài ca dao là nỗi nhớ thương của chàng trai với cô gái, nhưng ở đây Quang Dũng không
nhớ cô gái mà nhớ về đồng đội. Hai nỗi nhớ tuy có điểm tương đồng nhưng xét về cung
1


bậc của từng trạng thái thì “nhớ chơi vơi” mới thực khó diễn tả. Vì thế mà đoạn thơ của
Quang Dũng có sức lay động hơn.
Không dừng lại ở nỗi nhớ đó, Quang Dũng còn gởi lòng mình đến những địa bàn nơi
đoàn quân đã đi qua:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Những địa danh “Sài Khao”, “ Mường Lát”,…gợi lên vẻ đẹp âm u, mịt mù của vùng đất lạ.
“Hoa về” mà không phải là hoa nở, “ đêm hơi” mà không phải là đêm sương. Hoa hiện ra
mờ ảo trong sương, trong màn sương vẫn thấy được hoa. Vì thế câu thơ mang nét đẹp lung
linh, huyền ảo mang âm hưởng Đường thi của thơ Lí Bạch trong buổi chia tay lưu luyến
với Mạnh Hạo Nhiên:
“Cô phàm viễn cảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”.
Dịch thơ:
“Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời”.
Bên cạnh đó cũng có những câu thơ tả cái thực đến khắc nghiệt. Đó là cảnh núi rừng Tây

Bắc đẹp hùng vĩ mà đữ dội. Người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua nhiều gian khổ trên con
đường hành quân trong vùng hoang dã ấy:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút còn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” đã phát họa cảnh dốc núi vừa cao, uốn lượn gập
gềnh, vừa sâu thăm thẳm khó vượt qua. Điệp từ “ dốc” được sử dụng hai lần cùng từ láy
thanh trắc gợi hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sinh động con đường chuyển quân
thật gieo neo, nguy hiểm và vô cùng vất vả.
“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời” tô đậm ấn tượng về độ cao của núi đèo. Núi cao lắm,
sương mù chưa tan, biến thành những đám mây chập chùng bay là là trên đồi núi. Người
leo núi có cảm giác như đang bước chân trên một cồn mây. Núi cao nên mũi súng của
người lính Tây Tiến như chạm tới bầu trời. Nghệ thuật nhân hóa “súng ngửi trời” thật mới
mẻ, độc đáo, vừa tinh nghịch hồn nhiên theo cách nói của người lính trẻ. Đứng trên đỉnh
dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi
xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng , câu
thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Quang Dũng rất khéo léo trong sự kết hợp các thanh bằng trắc trong đoạn thơ. Nếu
như các câu thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút còn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
có sự xen lẫn giữa các vần bằng trắc tạo cảm giác như đoàn quân phải hành quân qua một
đồi núi đầy khó khăn, hiểm trở. Thì đến câu thơ này:
2


“ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

lại tạo một cảm giác nhẹ nhỏm tưởng chừng như đoàn quân vừa gặp một đồng bằng xa xa
lẫn trong màn sương núi, sương rừng, bản làng mờ ảo thấp thoáng trong thung lũng lúc ẩn,
lúc hiện.
Trên con đường chuyển quân gian khổ đó, có người lính trẻ quá nhọc nhằn:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Ở đây Quang Dũng miêu tả “ gục lên súng mũ” chứ không hề có sự chết chóc ở đây, mặc
dù người đọc vẫn cảm nhận được đó là sự ra đi, ra đi rất thanh thản của chiến sĩ Tây Tiến.
Câu thơ vì thế trở nên hấp dẫn lạ thường, người chiến sĩ Tây Tiến cũng trở nên phi thường.
Không chịu dừng lại ở đó, Quang Dũng còn muốn dẫn dắt người đọc tới nỗi nhớ
khác. Đó là cảnh núi rừng hoang vắng với bao hiểm nguy đang đe dọa tính mạng của người
lính, nhưng giọng thơ ngang tàng như muốn xóa đi một chút gì có vẻ bi lụy:
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Đoạn thơ kết lại bằng một cảnh yên vui nồng ấm đối lập với cảnh núi rừng hoang
vắng dữ dội ở trên:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lời thơ, ý thơ như gợi lên cảm giác nồng nàn, ấm áp. Những kỉ niệm tuy nhỏ, đơn sơ
nhưng thật ấm lòng người lính xa nhà. Hương thơm ấy không chỉ là “thơm nếp xôi” mà
hơn nữa, có thể là mùi thơm bàn tay của cô gái Mai Châu xinh đẹp. Ý thơ gợi nhớ tới ý thơ
trong bài “ Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Hương cốm mới cùng với bàn tay ấm áp, xinh đẹp của người thân làm sao quên được!
Với bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ của
các chiến sĩ Tây Tiến trên những chặng đường hành quân. Tuy đoạn thơ có nói đến những
cảnh vất vả, hiểm nguy, nhưng chủ yếu toát lên nét hào hùng lãng mạn của những người
chiến sĩ anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Là thanh niên- thế hệ tiếp nối- bạn sẽ nghĩ và hành động như thế nào?


Đề 02
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
3


Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
(Tây Tiến- Quang Dũng)
Bài làm
Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp với hồn thơ
hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào, đồng chí. Có thể nói một trong những hồn
thơ hào hoa, lãng mạn, thấm đượm tình đồng chí ấy ngoài tác phẩm “ Đôi mắt người Sơn
Tây” thì “Tây Tiến” cũng là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong
lòng người đọc.
Bài thơ được viết năm 1948, khi Quang Dũng đã rời xa đơn vị. Nhân buổi dự Hội
nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh Quang Dũng viết bài thơ này. Đoạn thơ được nêu trong
đề bài là hình tượng những người lính Tây Tiến được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn,
thấm đẫm tinh thần bi tráng:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng
mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để
tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người
đọc.
Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện
trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu
hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng,
mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính
Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để
tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân.
Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác
thường:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ rụng cả
tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn
của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ
chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành
4


những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những

người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng
thiêng “dữ oái hùm”. Không giống như Chính Hữu với hình ảnh người lính:
“Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giầy
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Hay:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hình ảnh người lính trong “ đồng chí” của Chính Hữu là những người lính chân
chấc, chân tay lấm bùn, người lính nông dân. Ở họ mang một vẻ đẹp khác- vẻ đẹp của tình
cảm đơn sơ, mộc mạc nhưng đầy nghĩa tình. Còn “Tây Tiến” của Quang Dũng là một vẻ
đẹp oai phong, lẫm liệt. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận
dữ của họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ
dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim
rạo rực, khao khát yêu đương:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Đọc câu thơ này ta liên tưởng tới bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những
người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con
thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng
không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói
nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi
hùng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm
người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại
được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình
ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí
tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người
lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của
nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn
đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
5


Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng.
Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân
trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi
tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở
xưa một đi không trở lại. Đọc những câu thơ này ta lại liên tưởng đến những dòng thơ rất
kiểu anh hùng của Thâm Tâm:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trông.
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dững dưng
Li khách li khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không”

Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng.
Đoạn thơ mặc dù đã nói về những hi sinh, mất mát của các chiến sĩ Tây Tiến, nhưng người
đọc vẫn không cảm giác được sự hi sinh, mất mát đó vì toàn bộ đoạn thơ đã được bao trùm
bởi một cảm hứng lãng mạn. Đoạn thơ mặc dù được nhắc nhiều tới những cái bi “không
mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”, “Áo bào thay chiếu anh về đất”,…Nhưng không vì thế mà đoạn thơ trở nên
bi lụy, mà ngược lại đoạn thơ trở nên rất hùng tráng, rất dữ dội “dữ oai hùm” và đầy vẻ
lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mặt khác, đoạn thơ không đến nỗi bi lụy là
bởi nhà thơ đã khéo sử dụng ngôn ngữ (ngôn ngữ Hán- Việt) nhằm làm giảm nhẹ đi cái bi
trong đoạn thơ.
“Tây Tiến” là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút
Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến,
miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi
không trở lại.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và
Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh
những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình./.
Đề 03.
Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là cảm hứng về nỗi nhớ. Hãy
phân đoạn thơ sau để làm rõ nhận định trên:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
.....
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Bài làm
Quang Dũng là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu cuả thời kì kháng chiến
chống Pháp.Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu tư sản hào
6


hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính là bài thơ Tây Tiến,

được sáng tác năm 1948. Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Đó
là nỗi nhớ khó phai cuả đời người lính Tây Tiến được khắc hoạ thành công ở tám câu đầu
cuả bài thơ:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu cuả Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ,
không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà
thơ. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947
làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào,
trấn giữ một vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là
đại đội trưởng cuả binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông
chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ đượ sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở
Phù Lưu Chanh- một làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc
đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì nhà thơ cho
rằng chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ không
cần đến từ “nhớ”.
Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi cuả tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà
thơ. Một thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông
không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ.
Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ
đạo cuả bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật

nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần là một con sông mà nó
đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính
Tây Tiến với bao nỗi vui- buồn, được- mất. "Tây Tiến" ko chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội
mà nó đã trở thành một người bạn " tri âm tri kỉ" để nhà thơ giãi bày tâm sự
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ hai với điệp từ "nhớ" được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào
đang uà vào tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc sâu được
tình cảm nhớ nhung da diết cuả nhà thơ và nỗi nhớ đó như một cơn thác lũ tràn vào tâm trí
nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn
lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
7


Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... Đó
là địa bàn hoạt động cuả binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước
đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có điạ hình
hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi
trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh
thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà
Thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa
hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong
những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong
“Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành một kí ức khó phai
trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người
lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử
dụng từ “thăm thẳm” mà không dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể
cảm nhận và thấy được bề sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung
được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của
núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ
“ súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người
lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc
đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc
thật cheo leo, hiểm trở
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên
thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình
nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng
dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh,
sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên một cái gì đó rất kì
bí, hoang sơ giưã chốn núi rừng. Câu thơ thứ tám nhiều thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ
dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra một bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn.
Tám câu thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến” là nhỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây
Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành một
kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói
riêng và cuả những người lính nói chung.
8



Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
một kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi
nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất hoạ và
đậm chất thơ. Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diệu
thật chính xác khi cho rằng “đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm nhạc trong
miệng”. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của một
người lính Tây Tiến nên nó có một cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng
mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
“Tây Tiến” là một bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của
người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như một bức tượng đài bất tử đã tạc
vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ
xứng đáng được xem là kiệt tác cuả Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản
hào hoa, phong nhã./.

9



×