Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Những vấn đề chung về phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.16 KB, 19 trang )

BÁO CÁO TỔNG THUẬT HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Phát triển kinh tế - xã hội và ngành Ngân hàng Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Phần 1
Những vấn đề chung về phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã đề ra chủ trương chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.Để triển khai thực hiện chủ trương này, ngày 10
tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập
quốc tế. Theo đó, chúng ta chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện, “Hội nhập kinh
tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế
và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế”. Quan điểm này khẳng định vai trò của
hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập chung của đất nước, như trong kết
luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 08
của Ban Chấp hành Trung ương 4 khoá X đã nêu rõ: “Hội nhập kinh tế quốc tế cần
được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội
nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội dung chính, quan trọng nhất của tiến
trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế cần đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy
hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực khác”.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại
với trên 200 nước, vùng lãnh thổ và các tổ chức trên thế giới. Không chỉ tham gia Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam còn là thành viên của các tổ chức
hợp tác quốc tế lớn nhất thế giới như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn
Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và có mối quan hệ tích
cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Để mở rộng quan hệ kinh tế thương mại, Việt Nam đã chủ động đàm phán và tham gia vào các Hiệp định Thương mại
tự do khu vực và song phương (FTA) với nhiều nước trong châu lục và thế giới.
1. Các hiệp định quốc tế quan trọng mà Việt Nam tham gia
1.1. Tổ chức Thương mại toàn cầu (WTO)



1


Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại toàn cầu (WTO). Do Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận thực hiện theo lộ
trình một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp,
quyền kinh doanh...Cụ thể, trong khoảng thời gian 12 năm (không muộn hơn
31/12/2018), WTO chấp nhận coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên,
trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt
Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế
độ "phi thị trường" đối với Việt Nam. Chế độ "phi thị trường" này chỉ có ý nghĩa trong
các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế
tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, dù Việt Nam bị coi là nền kinh tế
phi thị trường.
Đối với các cam kết trong các lĩnh vực như thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường
dịch vụ, đa số thời hạn cam kết thực hiện của Việt Nam đã hết, Việt Nam phải thực
hiện đầy đủ các yêu cầu của WTO trong việc áp mức thuế suất cuối cùng trong thỏa
thuận đối với một số sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp cũng như cho phép nhà đầu
tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam tối thiểu ở mức đã cam kết đối với 11
ngành dịch vụ.
1.2. Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Hiệp định TPP đạt được thỏa thuận sau 5 năm đàm phán vào ngày 05 tháng 10
năm 2015 với 12 nước tham gia1, được coi là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
hiệp định của thế kỷ XXI. Nội dung của Hiệp định trước hết là những vấn đề của các
FTA trước đây: thương mại hàng hóa, dịch vụ; đầu tư;thương mại điện tử; sở hữu trí
tuệ; hải quan; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối với thương mại;
quy định về phòng vệ thương mại; các vấn đề về giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, TPP

còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi lên, vấn đề lao động, môi
trường, các nội dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, các điều khoản về thể
chế, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Chính phủ.
Bên cạnh đó, nội dung TPP bao hàm nhiều điểm mới, nhất là các tiêu chuẩn mới
và chặt chẽ về thương mại và đầu tư tại khu vực châu Á Thái Bình Dương như: xoá bỏ
hầu hết thuế quan; hướng tới xoá bỏ rào cản thị trường; tạo điều kiện cho hàng hoá,
dịch vụ và vốn được lưu thông trong nội khối ngày một dễ dàng; thắt chặt những chuẩn
mực về sở hữu trí tuệ; bảo hộ đầu tư; tiêu chuẩn lao động và môi trường; các tiêu chuẩn
Các thành viên TPP có 800 triệu dân chiếm 40% GDP của thế giới, 1/3 giá trị thương
mại toàn cầu.
1

2


kỹ thuật; cam kết xây dựng chính quyền minh bạch, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
TPP cũng đưa ra những chế tài chặt chẽ và nghiêm khắc hơn đối với các thành viên vi
phạm các quy định của TPP.
Hướng tới gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến sẽ được thành lập vào cuối năm
2015. Đây được coi là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của các nền
kinh tế Đông Nam Á thành một khối sản xuất thương mại và đầu tư, tạo ra thị trường
chung của một khu vực có dân số 600 triệu người và GDP hàng năm khoảng 2.000 tỉ
USD. Kế hoạch AEC bao gồm 4 nội dung then chốt: tạo lập một thị trường và cơ sở
sản xuất thống nhất, tạo lập một khu vực kinh tế cạnh tranh cao, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế công bằng, xây dựng một khu vực hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế toàn cầu.
AEC sẽ biến ASEAN thành một khu vực tự do dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư,
lao động có kỹ năng và tự do dịch chuyển dòng vốn. Cụ thể, Việt Nam và các nước
ASEAN cùng thống nhất tham gia vào Cộng đồng kinh tế AEC nhằm đạt được các
mục tiêu:

1.3.

- Về tự do hóa hàng hóa: So với các FTA mà Việt Nam đã ký kết, các cam kết về cắt
giảm thuế quan trong ASEAN là cao nhất và nhanh nhất.
- Về tự do hóa dịch vụ: Cam kết về dịch vụ trong ASEAN đều tương tự mức cam kết
trong WTO. Trong một số gói cam kết dịch vụ gần đây của ASEAN, mức độ cam kết
đã bắt đầu cao hơn so với WTO nhưng không nhiều và cũng phù hợp với mức độ mở
cửa thực tế về dịch vụ của Việt Nam.
- Về tự do hóa đầu tư: Cam kết về đầu tư trong ASEAN toàn diện hơn trong WTO và
các FTA đã ký của Việt Nam nhưng cũng phù hợp với các quy định về đầu tư trong
pháp luật Việt Nam (khi thực hiện cam kết về đầu tư trong khuôn khổ ASEAN không
buộc Việt Nam phải sửa đổi pháp luật trong nước).
1.4. Một số Hiệp định song phương quan trọng
-Hiệp định song phương Hoa Kỳ-Việt Nam (2002): Hiệp định thương mại gồm 4 phần:
tiếp cận thị trường, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư. Phần lớn các
cam kết trong BTA đã được thực hiện trên thực tế và đã có những tác động nhất định
đến thị trường dịch vụ Việt Nam. Đáng chú ý là hiệp định này chứa đựng các cam kết
cụ thể của Việt Nam về việc giảm thuế quan cho khoảng 250 sản phẩm, khoảng 4/5
trong số đó là nông sản. Đặc biệt, mức cắt giảm sẽ từ 33% đến 50% và được thực hiện
trong giai đoạn 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.

3


- Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (2008): Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam-Nhật Bản là một hiệp định tự do hóa thương mại, dịch vụ, bảo hộ đầu tư và
khuyến khích thương mại điện tử giữa Việt Nam và Nhật Bản. Theo Hiệp định này,
92% hàng hóa giữa hai quốc gia sẽ được hưởng miễn giảm thuế suất trong vòng 10
năm từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Đối với thương mại hàng hóa,Việt Nam đồng ý tự
do hóa đối với 87,66% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Nhật Bản cam kết tự

do hóa 94,53% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Hiệp định cũng đã thỏa
thuận củng cố ngành công nghiệp hỗ trợ cho cả doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam
trong các lĩnh vực như sản xuất xe máy, xe hơi, thiết bị điện tử tại Việt Nam.
-Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Liên minh Châu Âu EU (2015): Hai bên bãi bỏ
hầu hết hàng rào thuế quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào
Châu Âu và doanh nghiệp Châu Âu đầu tư vào Việt Nam. Theo lộ trình, khoảng 90%
hang rào thuế quan hàng hóa của Việt Nam sẽ được xóa bỏ khi vào thị trường các nước
EU, góp phần đẩy mạnh trao đổi thương mại hai chiều. Những mặt hàng Việt Nam
được đánh giá là có lợi thế khi hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ là: dệt may, giày dép, nông
thủy sản, đồ gỗ. FTA đồng thời cũng tạo thuận lợi cho cá doanh nghiệp nhỏ và vừa của
EU tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
2.Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Cơ hội
-

Thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng

Các FTAsđã ký và AEC đi vào hoạt động đã định hình lại vị thế và vai trò của
Việt Nam trên các bản đồ kinh tế, song cũng đòi hỏi nước ta phải thay đổi nhiều để
tương thích và giành được vị trí tốt trong kinh tế khu vực và thế giới. Đây là cơ hội tốt
để nước ta tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Từ cường quốc về xuất
khẩu gạo,Việt Nam cần phát triển sản xuất và cung ứng các sản phẩm hiệu quả khác
như các chương trình phần mềm, chế biến sâu các nông thủy sản xuất khẩu, chuyển
dần sang bao chiếm cả các khâu thiết kế, tiêu thụ sản phẩm may mặc… Bên cạnh đó,
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các trụ cột mới cho tăng trưởng theo
chiều sâu.
- Thu hút đầu tư và gia tăng luồng thương mại
Việc đẩy nhanh thành lập AEC giúp nhanh chóng hình thành một thị trường có
không gian sản xuất thống nhất nhằm thu hút đầu tư của các quốc gia lớn vào khối như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu... Đồng thời, AEC cũng đem đến thuận lợi cho

4


các nước trong việc xuất khẩu hàng hóa ra thế giới, hội nhập với kinh tế toàn cầu.Đến
nay, ASEAN đã ký Hiệp định Thương mại tự do với 6 quốc gia là: Trung Quốc, Ấn
Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand. Nhân cơ hội này, Việt Nam có thể
nhập khẩu nguyên liệu từ các nước trong khối sản xuất và xuất khẩu sang các nước trên
để hưởng các ưu đãi về thuế quan. Tham gia AEC, Việt Nam cùng với nhóm các nước
gồm Lào, Campuchia và Myanmar được ưu đãi nhiều nhất.
Mặt khác, khi tham gia TPP, Việt Nam sẽ là một trong những nước có lợi nhiều
nhất, vì mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những rào cản hàng hoá cho dịch vụ.
Khi các dòng thuế giảm xuống, Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày dép,
hải sản và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh của mình vào các thị trường lớn, đặc
biệt là Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất trong TPP, mà không phải cạnh tranh với sản phẩm
của một số nước khác (đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc). Bên cạnh đó, những nước
TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam.
- Cân bằng quan hệ thương mại với các khu vực thị trường trọng điểm
Hiệp định TPP, Hiệp định song phương Hoa Kỳ- Việt Nam, Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu, Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam –Nhật
Bản,...đã giúp Việt Nam tạo lập sự cân bằng giữa các đối tác thương mại lớn. Đây là
định hướng chiến lược trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam, tránh phụ thuộc kinh tế
quá nhiều vào Trung Quốc.
2.2. Thách thức
- Vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu chưa cao
Việt Namhiện có tổng giá trị thương mại hàng hóa dịch vụchiếm trên 170%
GDP. Trong đó, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu có giá trị gia tăng thấp và sử dụng nhiều
lao động, nhiều mặt hàng chủ yếu là “gia công cho nước ngoài”, giá trị gia tăng thu
được trên tổng giá trị xuất khẩu không cao. Do vậy, sự mở rộng thị trường xuất khẩu
mới chỉ có ý nghĩa trong việc mở rộng quy mô nền kinh tế và tạo công ăn việc làm chứ
chưa hàm ý việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế và bước lên được những nấc thang cao hơn của chuỗi giá
trị toàn cầu. Vấn đề đặt ra là phải chuyển đổi cơ cấu sản xuất và xuất khẩu theo hướng
nâng cấp trong chuỗi giá trị.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp
Việt Nam đã có sự tiến bộ trong cải thiện môi trường kinh doanh, là quốc gia có
mức tăng bậc mạnh nhất, xếp thứ 56 trên bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu
5


2015-2016. Tuy nhiên, những tiến bộ đó vẫn chưa theo kịp sự phát triển của nhiều
quốc gia khác. Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các
nước trong khu vực còn thấp, chỉ đứng thứ 6, sau Singapore (2), Malaysia (18), Thái
Lan (32), Indonesia (37) và Philippines (47). Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được
cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.2
- Đóng góp của các doanh nghiệp FDI đối với phát triển kinh tế chưa nhiều
Việt Nam đã thu hút được khối lượng lớn FDI. Tuy nhiên, đóng góp của các
doanh nghiệp FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam cũng chưa cao trên nhiều mặt
(chuyển giao công nghệ, phát triển mạng lưới các doanh nghiệp, bảo vệ môi trường...),
nhất là so sánh với các ưu đãi mà khối doanh nghiệp này được hưởng.Tình trạng khối
doanh nghiệp FDI, với nhiều lợi thế hơn doanh nghiệp trong nước (năng lực công
nghệ, tài chính, tiếp cận thị trường xuất khẩu...), chèn ép, gây khó cho doanh nghiệp
trong nước đang là một vấn đề cần được quan tâm..3
Việc khu vực FDI tăng dần tỉ trọng đóng góp vào GDP đã và đang có tác động
đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở Việt Nam. Song lợi ích của Việt Nam
hiện nay trong thu hút FDI phụ thuộc nhiều vào chất lượng FDI và cần thu hút có chọn
lọc. Nếu Chính phủ Việt Nam khuyến khích đầu tư nước ngoài có trọng điểm, các nhà
đầu tư có công nghệ cao, công nghệ nguồn, có đủ năng lực tài chính đầu tư vào các dự
án có quy mô lớn thì sẽ có tác dụng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và FDI sẽ có
hiệu ứng lan toả lớn. Nếu FDI chỉ nhằm sử dụng nguồn lao động rẻ thì sẽ mất thị
trường nội địa.

- Nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô
Đối với những nền kinh tế nhỏ, tiếp nhận những dòng vốn lớn vượt quá khả
năng hấp thụ có thể dẫn tới những bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát cao, bong bóng
bất động sản, sức ép lên hệ thống tài chính ngân hàng, rủi ro đạo đức, tấn công đầu
cơ,...4. Trên thực tế, Việt Nam đã từng quản lý không hiệu quả dòng vốn vào sau khi
gia nhập WTO năm 2007, dẫn đến tình trạng lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô.
2

Chính phủ (2015). ‘Báo cáo số 486/CP-KTTH báo cáo Quốc hội dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011-2015’, Hà Nội, 10/ 2015
3
Báo cáo về kết quả định lượng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước và FDI do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh
tế Trung ương (CIEM) thực hiện (được trình bày trong hội thảo về thực trạng, hiệu quả đầu tư và đề xuất các giải
pháp điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2020 ngày 19/12/2013, tại Tp.HCM) cho thấy,
doanh nghiệp FDI có tác động âm tới năng suất của doanh nghiệp trong nước hoạt động cùng ngành và cả ngoài
ngành, nhất là đối với các ngành phụ trợ.
4

Sergio L. (2003). ‘Financial Globalization: Gain and Pain for Developing Countries,’ Development Research
Group, World Bank 2003

6


- Điều chỉnh pháp luật để phù hợp với những cam kết quốc tế
Thực tiễn pháp luật Việt Nam có những điểm lệch so với những cam kết TPP,
nếu không nghiêm túc rà soát và điều chỉnh, có thể là nguyên cớ dẫn tới những vụ
khiếu kiện tiềm ẩn sau này.TPP cho phép các công ty đa quốc gia kiện Nhà nước được
coi là vi phạm các quy định TPP (kiện tại hội đồng trọng tài quốc tế, chứ không qua tòa
án địa phương hay cơ quan ngoại giao như thường lệ), từ đó có khả năng dẫn đến việc

nước này bị các nước thành viên TPP khác rút lại những ưu đãi thuế quan đã cam kết.
Ngoài ra, thực tế cho đến nay cho thấy, trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam,
các nguy cơ bị “trừng phạt” vì ý đồ chính trị là không hiếm.
3. Khuyến nghị chính sách
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để Việt Nam phát triển những ngành nghề
vốn là lợi thế của nước ta cũng như bảo vệ những ngành nghề dễ bị tổn thương khi
không còn được bảo hộ. Khi các FTAs, Hiệp định TPP, AEC đi vào thực tế, đầu ra cho
nông sản sẽ được cải thiện, hàng dệt may sẽ tránh được Trung Quốc và Bangladesh,
đồng thời có cơ hội tiếp cận thị trường tiêu dùng với tư cách là nước thành viên độc
quyền. Đặc biệt, do mục tiêu chính của TPP là giảm thuế, Việt Nam có thể gia tăng
xuất khẩu quần áo, giày dép, hải sản và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh của mình
vào các thị trường lớn, đặc biệt là Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất trong TPP, mà không
phải cạnh tranh với sản phẩm của một số nước khác (đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc).
Tuy nhiên, Việt Nam là một trong những nước kém phát triển nhất trong FTAs, lại nằm
ngoài ASEAN-6 nên có nguy cơ Việt Nam khó đứng vững được trước cạnh tranh và
khó tận dụng được các ưu đãi do không đạt được những yêu cầu khắt khe về sản phẩm.
Do đó, Việt Nam cần ưu tiên phát triển các ngành nghề có trọng điểm, cải cách hành
chính tận gốc và Nhà nước tham gia vào việc tạo đà, hỗ trợ và bảo vệ “người chơi” để
các lợi thế của Việt Nam khi hội nhập quốc tế không bị triệt tiêu.
3.1. Các nhóm ngành trọng điểm cần ưu tiên phát triển
Ngành công nghiệp Dệt May có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
quốc dân nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có điều kiện mở
rộng thương mại quốc tế và mang lại nhiều nguồn thu cho đất nước. Mặc dù được coi
là ngành chủ lực của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trung bình 14.5% hàng năm,
thuộc hàng cao nhất thế giới nhưng ngành này chưa mang lại giá trị gia tăng cao trong
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và vẫn phải nhập khoảng 60 % nguyên liệu từ bên ngoài.
Do đó, nếu đầu tư vào lĩnh vực này sẽ có nhiều triển vọng thu lợi nhuận cao.

7



Ngành công nghiệp điện tử linh kiện, cơ khí, chế tạo tăng trưởng trung bình
gần 12 %/năm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ lớn của thị trường nội địa
(chỉ đáp ứng khoảng 40%).
Ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo: với những ưu thế và điều kiện tự nhiên,
sản xuất lúa gạo là ngành có lợi thế ở Việt Nam. Nhiều năm liền, Việt Nam đứng thứ
hai trong số các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với kim ngạch lên đến hàng
tỷ đô la mỗi năm. Song, ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng;
tổ chức sản xuất còn manh mún; liên kết sản xuất qui mô lớn, liên kết vùng chưa phổ
biến; hệ thống sấy, bảo quản sau thu hoạch chưa phát triển, hiệu quả chưa rõ rệt.
Ngành nông nghiệp nuôi trồng và chế biến nông sản, hải sản:
+Trong lĩnh vực nông nghiệp, các sản phẩm cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè,
hạt điều cũng đang là thế mạnh của Việt Nam, có khả năng xuất khẩu cao. Đặc biệt,
sản lượng xuất khẩu của cà phê Việt Nam luôn tăng trưởng trong nhiều năm qua. Việt
Nam là quốc gia đứng hàng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê robusta, đứng
thứ hai thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân, với diện tích trên 641.700 ha,
sản lượng mỗi năm đạt từ 1,3 triệu tấn cà phê nhân trở lên. Tuy nhiên giá trị sản phẩm
chưa cao, có thể tiếp tục được chế biến sâu để tạo ra sản phẩm có giá trị cao hơn và
đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho Việt Nam (chế biến sâu ra các sản phẩm cà phê chỉ
mới chiếm tỷ lệ từ 4,1-6% trong tổng sản lượng cà phê).
+ Đường bờ biển kéo dài 3.200 km, có vùng đặc quyền trên biển rộng trên 1 triệu km2
và vùng mặt nước nội địa rộng 1,4 triệu ha tạo điều kiện cho Việt Nam trong việc nuôi
trồng và đánh bắt và chế biến thủy sản. Trong những năm qua, ngành thuỷ sản của Việt
Nam đã khẳng định được lợi thế và vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân, hàng
năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn. Giai đoạn 2000- 2015, dự kiến đóng
góp của thủy sản vào GDP chung toàn quốc khoảng 18%, tốc độ tăng trưởng trung
bình 15%/năm. 5
3.2. Định hướng chính sách phát triển các nhóm ngành ưu tiên
- Đối với nhóm ngành dệt may:
Thu hút đầu tư có chọn lọc vào các ngành thượng nguồn để đáp ứng yêu cầu về

quy tắc xuất xứ hay tỷ lệ nội khối tối thiểu của các Hiệp định TPP và Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam-EU. Phát triển các khu công nghiệp sinh thái, các cụm ngành công
nghiệp dệt may để phối hợp quản lý tập trung các cơ sở sản xuất trong cùng ngành,
tránh gây ô nhiễm môi trường. Ban hành các chính sách thu hút công nghệ tiên tiến,
5

Nguồn: www.business.gov.vn
8


hiện đại. Cải cách thể chế hành chính, giảm thiểu các thủ tục liên quan đến cấp phép
đầu tư, thuế, hải quan, các thủ tục kiểm tra chuyên ngành dệt may.
- Đối với nhóm ngành điện tử linh kiện, cơ khí, chế tạo:
Lựa chọn phát triển một số sản phẩm trọng điểm đủ để phục vụ thị trường trong
nước, thay thế nhập khẩu. Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực cơ khí, điện tử.
Nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước để họ có thể tham gia
chuỗi sản xuất toàn cầu. Do đây là nhóm ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian quay
vòng vốn chậm nên cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về tiếp cận tài chính, tín dụng dài
hạn với chi phí, lãi suất thấp. Đồng thời, lao động trong nhóm ngành này cũng đòi hỏi
trình độ kỹ thuật cao hơn, do đó cần có cơ chế chính sách đẩy mạnh hoạt động hướng
nghiệp vào các ngành nghề này.
- Đối với ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo và chế biến nông, thủy hải sản:
Phát triển đồng bộ các ngành có liên quan, hỗ trợ nhau để hình thành chuỗi giá
trị khép kín cho các sản phẩm nông, thủy, hải sản. Đổi mới công nghệ và đưa công
nghệ cao vào nông nghiệp, đặc biệt là khâu chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của
nông sản. Xây dựng hình ảnh, thương hiệu mới cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam
gắn với chất lượng cao, an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trưởng. Thực hiện
nghiêm túc các quy định về ghi nhãn, dán nhãn nguồn gốc nông sản.
Phần 2
Phát triển ngành ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

1. Các cam kết hội nhập quốc tế và yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển hệ
thống ngân hàng:
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đã ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do
(FTA), gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) - sẽ chính thức được hình thành
vào cuối năm 2015, và tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP) - vừa kết thúc đàm phán vào 5/10/2015. Trong đó, kể từ sau khi gia nhập
WTO, việc gia nhập cộng đồng AEC và tham gia đàm phán TPP hứa hẹn đem lại
những biến chuyển mạnh mẽ nhất cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cụ
thể:
- Đối với hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại:
9


Để thực hiện theo đúng các cam kết đã ký, Việt Nam đã và đang từng bước nới
lỏng dần các quy định trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và hiện nay đối với lĩnh vực
ngân hàng, giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tối đa là 30%, đối với lĩnh
vực bảo hiểm và chứng khoán là 49%. Tuy nhiên, theo cam kết về tự do hóa dịch vụ
trong AEC, đến hết năm 2015, các nước sẽ phải mở cửa tất cả các ngành dịch vụ và
nhà đầu tư trong khối có thể tham gia tới mức 70% vốn tùy thuộc vào mức độ sẵn sàng
của từng nước thành viên. Có thể nói, AEC đã là bước tiến đòi hỏi Việt Nam phải mở
cửa hơn nữa đối với lĩnh vực tài chính so với cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
Thêm vào đó, TPP sẽ là bước ngoặt đòi hỏi Việt Nam và các nước tham gia phải
cho phép các tập đoàn tài chính nước ngoài bán dịch vụ của mình sang thị trường các
quốc gia thành viên khác mà không cần phải thành lập chi nhánh tại đó nếu các công ty
trong nước tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Điều này đồng nghĩa với
việc không cần phải có thủ tục cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân
hàng con (có vốn 100% nước ngoài) như theo thỏa thuận trong WTO, khi TPP được ký
kết, Việt Nam sẽ chứng kiến nhiều sản phẩm đa dạng hơn của các ngân hàng nước

ngoài trên thị trường trong nước mà không cần nhìn thấy cơ sở hoạt động của họ tại
Việt Nam. Như vậy, khi TPP được ký kết, rõ ràng người tiêu dùng Việt Nam sẽ có
nhiều cơ hội lựa chọn hơn bởi tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ tài chính và ngân
hàng. Tuy nhiên, bối cảnh mới này sẽ đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải sẵn sàng và
chủ động tham gia vào quá trình hội nhập vì khi đó thị trường trong nước không còn
mức bảo hộ cao như trước, các NHTM sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn không chỉ trên
sân nhà mà còn trên phạm vi toàn cầu.
Bên cạnh việc nới lỏng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào sân chơi
nội địa, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đối mặt với nhiều tiêu chuẩn kỹ
thuật để có thể thực sự tận dụng được những cam kết ưu đãi trong quá trình hội nhập
quốc tế, mở rộng hoạt động ra thị trường khu vực và quốc tế.Trong nội dung về cam
kết hội nhập tài chính, các nước ASEAN đã xây dựng kế hoạch tổng thể chi tiết (AEC
Blueprint) để hỗ trợ và nâng cao nhận thức cho các NHTM và các công ty hoạt động
trong lĩnh vực tài chính trong khu vực nhằm đạt được bốn mục tiêu: (i) tự do hoá dịch
vụ tài chính, (ii) tự do hoá tài khoản vốn, (iii) phát triển và hội nhập các thị trường vốn
và (iv) phát triển các dịch vụ thanh toán. Trong đó, các nước ASEAN đang nỗ lực tìm
ra một khuôn khổ chung cho các ngân hàng đạt chuẩn ASEAN (Qualified ASEAN
Banks – QABs). Theo đó, chỉ những ngân hàng đạt tiêu chuẩn ASEAN mới được phép
mở rộng hoạt động tại các nước thành viên khác và được đối xử như ngân hàng trong
10


nước của nước đó. Trong số các tiêu chí để được cấp chứng nhận QABs có hai yêu cầu
bắt buộc là mức vốn đủ lớn và quản lý tốt. Như vậy, để có thể thực sự tận dụng được
sân chơi chung do cộng đồng AEC tạo ra nói riêng và vươn ra các thị trường rộng lớn
hơn để có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước khi gia nhập thị trường quốc tế,
bản thân các ngân hàng Việt Nam phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định mà QAB
tạo ra cũng như phải ngày càng tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế nói chung trong hoạt
động ngân hàng.
- Đối với việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và hiệu quả điều hành

chính sách của của NHNN nói riêng:
Với việc gia nhập WTO và mở rộng các hiệp định FTA song phương và đa
phương, môi trường hoạt động kinh tế của Việt Nam đã ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp, đặt ra những yêu cầu mới trong công tác quản lý và triển khai nhiệm vụ của
các cơ quan trung ương. Trong bối cảnh mới, lộ trình hội nhập tài chính AEC và triển
vọng TPP trong tương lai không xa cũng đã, đang và sẽ đặt ra cho NHNN thêm nhiều
vấn đề cụ thể, trực diện trong công tác quản lý và điều hành hoạt động ngân hàng nói
riêng và việc góp phần duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nói chung. Trong đó,
hai lĩnh vực đáng chú ý là:
Thứ nhất, yêu cầu tự do hóa giao dịch vốn và nhiệm vụ ổn định tài chính: kể từ
khi gia nhập WTO cho đến nay, có thể nói Việt Nam đã khá mạnh dạn trong việc mở
cửa thị trường nói chung và mở cửa cho các dòng lưu chuyển vốn xuyên biên giới. Tuy
nhiên, nếu thực hiện đúng cam kết AEC, đến hết năm 2020, Việt Nam cũng như các
nước trong khu vực còn cần phải tiếp tục tự do hóa các giao dịch vốn hơn nữa, tất cả
các dòng vốn sẽ được tự do lưu chuyển, thị trường chứng khoán cũng phải được hội
nhập sâu hơn. Tương tự với AEC, trong lĩnh vực tài chính, TPP cũng đòi hỏi các nước
thành viên cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới hơn.
Như vậy, cả AEC và TPP đềuyêu cầu cao hơn về mức độ mở cửa và tự do hóa
các giao dịch vốn, theo đó làm thay đổi đáng kể những yêu cầu đặt ra đối với việc ổn
định hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng và ổn định kinh tế vĩ mô nói chung cho
Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, bên cạnh những đòi hỏi này, khuôn khổ
AEC và TPP cũng rất coi trọng và đặt ra các điều khoản, điều kiện hỗ trợ và tạo lập ổn
định tài chính cho các quốc gia thành viên. Một trong ba trụ cột xây dựng lộ trình hội
nhập tài chính tiền tệ khu vực ASEAN hậu 2015 được đặt ra chính là yếu tố “Mạnh mẽ
và bền vững” – đảm bảo ổn định hệ thống tài chính và kết cấu hạ tầng khu vực. Các
điều khoản của TPP vẫn đảm bảo rằng các nước trong TPP có đủ năng lực điều hành
thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong
11



trường hợp khủng hoảng. TPP cũng đề cập đến các trường hợp ngoại lệ trong việc bảo
hộ quyền tự chủ của các nhà quản lý tài chính của các nước TPP, trong đó họ sẽ được
quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống
nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm những quy định ngoại lệ mà các quốc
gia thành viên xem xét một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện
pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ
hay các chính sách khác.
Thứ hai, yêu cầu kết nối hệ thống tài chính ngân hàng và khả năng phát triển cơ
sở hạ tầng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Theo Kế hoạch tổng thể chi tiết (AEC
Blueprint), các quốc gia cam kết áp dụng các tiêu chuẩn chung để phát triển hiệu quả
tài chính xuyên biên giới; Cải thiện môi trường cơ sở hạ tầng và các khoản thanh toán
hiện hành; Khai thác các tùy chọn của hệ thống thanh toán và giải quyết các mối liên
kết trong ASEAN. Hết năm 2015, xây dựng và phát triển tiêu chuẩn thanh toán và cơ
sở hạ tầng thanh toán, phấn đấu đến năm 2020 hội nhập Hệ thống thanh toán ASEAN.
Hiệp định TPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, các
dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục đích xử lý dữ
liệu.
Như vậy, để chủ động và tích cực tham gia các cam kết quốc tế trong lĩnh vực
ngân hàng, việc hoàn thiện và thống nhất hệ thống thanh quyết toán quốc gia theo
chuẩn mực khu vực và quốc tế để có thể thuận lợi tham gia vào cơ sở hạ tầng hệ thống
thanh toán khu vực ASEAN phục vụ các luồng lưu chuyển vốn và hội nhập tài chính,
tập trung vào cả các giao dịch giá trị lớn cũng như các giao dịch cá nhân là yêu cầu đặt
ra đối với NHNN nói riêng cũng như các cơ quan, đơn vị quản lý liên quan.
2. Thành tựu của ngành ngân hàng trong hội nhập
Trong thời gian qua, để chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng nói riêng và hội nhập kinh tế nói chung thông qua các hiệp định FTA,
cũng như việc chính thức gia nhập AEC vào cuối năm 2015, hay sẵn sàng cho việc
thực hiện các kết quả đàm phám khi TPP có hiệu lực, ngành ngân hàng đã luôn chủ
động, tích cực tham gia từ khâu đàm phán, ký kết các văn bản, chính sách cũng như
triển khai các hành động thực tế trong toàn ngành để tạo ra thế và lực mới của hệ thống

ngân hàng Việt Nam trong một sân chơi mới rộng hơn và cũng nhiều đòi hỏi cao và sát
sao hơn. Cụ thể:
Thứ nhất, NHNN đã chủ động, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế, nâng cao vị
thế của Việt Nam trong cộng đồng tài chính, tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế; tìm
12


kiếm, mở rộng quan hệ với các đối tác tiềm năng nhằm tăng cường huy động hỗ trợ cả
về tài chính và kỹ thuật cho hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thống như: (i) Tích cực
tham dự các Hội nghị Thường niên của ADB, WB, IMF và có các cuộc tiếp xúc với
Lãnh đạo cấp cao của các tổ chức; (ii) Tăng cường hợp tác song phương theo hướng
mở rộng đối tác trên hầu hết các châu lục và ngày càng đi vào chiều sâu; (iii) Tích cực
tăng cường hợp tác tài chính tiền tệ ngân hàng trong khuôn khổ WTO, ASEAN,
ASEAN+3, SEACEN, APEC…, NHNN đã chủ động tham gia tham gia các vòng đàm
phán quốc tế, tăng cường các hoạt động hợp tác, đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và nhà tài
trợ tiềm năng, xúc tiến gia nhập các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mới như Ngân
hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), Ngân hàng Phát triển Á Âu (EDB), Ngân hàng Đầu tư
Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB)... nhằm mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam; chủ động nghiên cứu xây dựng Đề án vận động duy trì nguồn vốn vay ưu
đãi IDA trong kỳ IDA 17 và 18; vận động WB cho phép Việt Nam được hưởng cơ chế
chuyển đổi vay vốn IDA cho giai đoạn tiếp theo.
Thứ hai, hoạt động quản lý và điều hành chính sách của NHNN được tích cực
dịch chuyển và triển khai hiệu quả theo hướng một NHTW hiện đại cả về mặt chức
năng, nhiệm vụ và khuôn khổ mục tiêu cũng như điều hành chính sách để đáp ứng
những nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh mới.
Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ nhưng có độ mở lớn6 và thị trường vốn tương
đối mở cửa để thu hút đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp nước ngoài. Do vậy, ảnh
hưởng lan truyền từ kinh tế thế giới đến thị trường trong nước cũng ngày càng rõ rệt và
mạnh mẽ hơn. Trước những diễn biến đó, trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà

nước 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013
quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Bên cạnh việc nhấn mạnh tới một nhiệm vụ cơ bản của NHNN là “xây
dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm” thay vì quy định chung chung “xây dựng dự án
chính sách tiền tệ quốc gia”, Nghị định đã bổ sung thêm nhiệm vụ ổn định tiền tệ, tài
chính nhằm phân tích, đánh giá tình hình tiền tệ, tài chính; đề xuất các biện pháp ngăn
ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính; và Xây dựng chính sách,
biện pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ, ngân hàng, tài
chính.

6

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương trên 150% GDP (2014)
13


Với chức năng nhiệm vụ của mình, NHNN đã kết hợp điều hành hợp lý và khéo
léo chính sách tiền tệ, tỷ giá và quản lý vốn đã thúc đẩy dự trữ ngoại hối gia tăng đáng
kể trong giai đoạn 2012-2014, tạo nguồn lực “vật chất” quan trọng để hỗ trợ ngược trở
lại cho công tác quản lý ngoại hối và ổn định tỷ giá, đóng góp lớn vào việc ổn định
kinh tế vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian qua. Điểm đáng chú ý là giai đoạn từ 2012
trở lại đây, chính sách tiền tệ của Việt Nam đạt được sự độc lập cao trong điều kiện tỷ
giá hối đoái ổn định, tự do hóa luồng vốn mở rộng hơn cùng với sự gia tăng đáng kể dự
trữ ngoại hối.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng tài chính không ngừng được cải thiện, đáp ứng yêu cầu về
khả năng kết nối (connectivity) trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống thanh toán và hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt trong nền kinh tế không ngừng được nâng cấp và cải tiến. Để tạo cơ sở
thực hiện những đổi mới trong lĩnh vực này, NHNN đã chủ động triển khai thực hiện
nhiều giải pháp tích cực trong việc hoàn thiện khuôn khổ thể chế liên quan đến hoạt

động thanh toán, thành lập trung tâm chuyển mạch thống nhất quốc gia, phát triển sản
phẩm dịch vụ mới và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh toán. Hệ
thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) tiếp tục phát huy vai trò là hệ thống
thanh toán xương sống của quốc gia; hoạt động thông suốt, hiệu quả với số lượng và
giá trị giao dịch tiếp tục tăng cao. 7 Đối với việc tham gia các tổ chức ban hành chuẩn
mực quốc tế về thanh toán như Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế (BIS), trong thời gian qua, NHNN đã tích cực tham gia vào Nhóm đặc trách về
Hoạt động thanh toán đối với tiếp cận tài chính (PAFI - Payment Aspects of Financial
Inclusion) do WB và BIS chủ trì. Trong quan hệ với SWIFT, NHNN đã củng cố và
hoàn thiện VIETSWIFT, làm cầu nối giữa SWIFT và các NHTM thành viên tại Việt
Nam; phối hợp với SWIFT trong việc xây dựng, phát triển, nâng cấp dịch vụ của
SWIFT tại Việt Nam, phục vụ giao dịch thanh toán và chuyển tiền quốc tế.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn 2011 – 2015 đã có bước phát
triển bùng nổ về loại hình sản phẩm dịch vụ, đổi mới trong hoạt động quản trị điều
hành và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại.
(i) Về đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ: bên cạnh nhóm dịch vụ ngân hàng truyền
thống như nhận tiền gửi, cho vay..., các ngân hàng thương mại đã phát triển thêm các
7Trong

năm 2014, hệ thống IBPS đã xử lý gần 48 triệu giao dịch với giá trị giao dịch đạt 46,57 triệu tỷ
đồng, cao hơn 10 lần về số lượng và gần 13 lần về giá trị giao dịch so với thời điểm cuối năm 2006.
Tổng giá trị giao dịch qua hệ thống IBPS trong năm 2014 tương đương gần 12 lần so với GDP cùng
kỳ. Giao dịch bình quân ngày qua hệ thống IBPS xử lý 189.000 giao dịch với giá trị 184.000 tỷ đồng.

14


sản phẩm, dịch vụ hiện đại, mang tính toàn cầu như các sản phẩm/dịch vụ ngoại hối và
phái sinh, tư vấn đầu tư, quản lý tài sản hay mô hình liên kết giữa ngân hàng và bảo
hiểm… Ngoài ra, dịch vụ thanh toán trong thời gian qua có sự phát triển mạnh mẽ và

nhanh chóng, đặc biệt là thị trường thẻ ngân hàng8.
(ii) Về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: Việc áp dụng các hệ thống
ngân hàng lõi theo chuẩn mực quốc tế đã hỗ trợ nghiệp vụ ngân hàng nhanh chóng,
chính xác và tiết kiệm chi phí lao động. Việc ung dụng dịch vụ ngân hàng điện tử theo
chuẩn mực quốc tế đã cho phép người dùng thực hiện các giao dịch trực tuyến mà
không phải đến tận nơi, thành lập trung tâm quản lý dữ liệu tập trung, các trung tâm hỗ
trợ khách hàng Call Center, hệ thống quản lý quan hệ khách hàng CRM giúp đáp ứng
nhu cầu tốt nhất cho khách hàng, tạo tiện ích tối đa cho khách hàng khi sử dụng dịch
vụ ngân hàng. 9
(iii) Về đổi mới quản trị điều hành: Để hội nhập được với nền kinh tế thế giới,
hầu hết các ngân hàng đều đã chú trọng tăng cường năng lực quản trị, điều hành của
ngân hàng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và khu
vực. Thời gian qua, các ngân hàng đã tập trung kiện toàn bộ máy nhân sự chủ chốt,
nhân sự cấp cao để nâng cao chất lượng quản trị, điều hành. Bên cạnh đó, các NHTM
cổ phần đã ý thức rõ ràng hơn về việc nâng cao chất lượng hoạt động thông qua việc
củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống kiểm
soát, kiểm toán nội bộ; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, quy trình nội bộ,
đặc biệt là cấp tín dụng, đầu tư và huy động vốn. Mặc dù một số NHTM cổ phần còn
bộc lộ những yếu kém trong quản trị, điều hành nhưng trong thời gian qua, nhất là
trong giai đoạn tái cơ cấu ngành ngân hàng, các ngân hàng đã phải tăng cường cơ cấu
Hơn 10 năm về trước, một cột mốc được cho là điểm khởi đầu của thị trường thẻ ngân
hàng Việt Nam. Khi đó, toàn thị trường chỉ có 2 loại thẻ nội địa dùng trên máy ATM là
Connect 24 của Vietcombank và F@st Access của Techcombank với tổng số lượng phát hành
đạt 234 nghìn thẻ nhưng đến cuối năm 2014, số lượng thẻ phát hành đã đạt tới mức 80,39 triệu
thẻ, trong đó, thẻ ghi nợ chiếm tỷ trọng cao nhất (91,54% tổng số thẻ phát hành), tiếp sau là
thẻ trả trước (4,37%) và thẻ tín dụng (4,09%). Nếu tính đến Quý I/2015, tổng số thẻ phát hành
đã tăng lên 86,21 triệu thẻ.
8

vụ Internet banking lúc mới triển khai ở Việt nam chỉ có 3 ngân hàng sau đó tăng dần năm 2007

con số này đã lên đến 18 ngân hàng và năm 2012 có tới 46/50 (chiếm 92%) và đến năm 2014 tỉ lệ này
là 47/47 (đạt 100%); đồng thời, NHNN cũng đã cho phép 30 ngân hàng được cung cấp dịch vụ Mobile
Banking (Giá trị giao dịch và số lượng giao dịch tính trong 6 tháng đầu năm 2014 thực hiện qua
Internet Banking đạt 24 triệu giao dịch, tương ứng giá trị 311.000 tỷ đồng và Mobile Banking đạt 7 triệu
giao dịch, tương ứng 50.000 tỷ). Ngoài ra, NHNN đã cho phép 9 tổ chức không phải là ngân hàng thực
hiện thí điểm dịch vụ ví điện tử thông qua 33 TCTD. Đến 31/12/2013, tổng số ví điện tử phát hành đạt
trên 1,84 triệu; lượng giao dịch đạt 45,3 triệu với giá trị 23.350 tỷ đồng.
9Dịch

15


lại quản trị, điều hành, trong đó yêu cầu tiệm cận với thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro
cũng như minh bạch, công khai hóa trong hoạt động ngân hàng là tất yếu10.
(iv) Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Để đáp ứng được đòi hỏi của quy
trình, chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại đều tăng cường công tác tuyển
dụng, đào tạo để tạo nguồn nhân lực có tri thức và trình độ. Bên cạnh đó, sự mở cửa
nền kinh tế cũng góp phần thu hút một lượng lớn nguồn nhân lực có trình độ từ nước
ngoài đến làm việc cho các ngân hàng tại Việt Nam.
3. Thách thức phía trước:
- Đối với công tác điều hành chính sách vĩ mô, thực hiện nhiệm vụ ổn định
tiền tệ, tài chính và tạo lập cơ sở hạ tầng tài chính đồng bộ của NHNN:
Thứ nhất, xác lập mục tiêu và khuôn khổ chính sách tiền tệ phù hợp cho từng
giai đoạn. Khả năng kiểm soát lạm phát của ngân hàng trung ương chịu ảnh hưởng bởi
độ mở của quốc gia. Đặc biệt, kể từ năm 2016, các hiệp định tự do thương mại (FTA)
tiếp theo bắt đầu có hiệu lực và kể từ 2017, các điều khoản hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) cũng dự kiến được áp dụng sẽ dẫn đến những thay đổi lớn về
cấu trúc thương mại, tài chính của Việt Nam với các nước đối tác. Vì vậy, điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong xu thế hội nhập
rõ ràng phải tính đến tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước, mức độ ảnh

hưởng của chính sách tiền tệ các nước lớn đến chính sách tiền tệ của nước nhỏ như
Việt Nam để từ đó lựa chọn quan điểm chính sách tiền tệ phù hợp. Thành tựu của
NHNN trong thời gian qua cho thấy chính sách tiền tệ vẫn có thể đạt được trạng thái
độc lập ngay cả với quốc gia nhỏ và mở như Việt Nam. Tuy nhiên, sự kiểm soát đối
với tỷ giá và dòng vốn ở mức độ nhất định vẫn cần thiết để hạn chế những tác động từ
kinh tế quốc tế đến thị trường trong nước trước khi thực hiện tự do hóa hoàn toàn. Bên
cạnh đó, yếu tố quan trọng để đảm bảo sự độc lập này là khả năng chống đỡ của dự trữ
ngoại hối đối với các biến động trên thị trường. Cần tiếp tục thực thi các chính sách
hạn chế đầu cơ, găm giữ ngoại tê và giảm dần mức độ đô la hóa nền kinh tế.
Thứ hai, phát huy vai trò ổn định tài chính, đảm bảo an toàn hệ thống, an ninh
tiền tệ. Ở cấp độ khu vực,việc sớm ký Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP) và thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015 không chỉ
tạo điều kiện cho dòng vốn đầu tư gián tiếp vào ra giữa các quốc gia với nhau mà có
Hiện nay đã có 10 ngân hàng đang thực hiện thí điểm Basel II theo yêu cầu của
NHNN. Điều này chứng tỏ những nỗ lực của các ngân hàng trong việc nâng cao hơn nữa năng
lực quản trị cũng như mức độ an toàn, lành mạnh của ngân hàng, nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường
10

16


còn có thể khuếch đại những rủi ro nội tại của nền kinh tế. Trong xu thế hội nhập hiện
nay, việc nhận diện và giám sát rủi ro hệ thống tài chính là yêu cầu thiết yếu đối với
mọi quốc gia, nhất là với các nước đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, trong thời gian tới, cần tăng cường chuẩn hoá và
tiếp cận chuẩn mực quốc tế về an toàn tài chính; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cấu trúc
thể chế và đẩy mạnh sự phối hợp hoạt động của các cơ quan giám sát tài chính nhằm
ngày càng cải thiện chất lượng giám sát và giảm thiểu các rủi ro hệ thống tài chính.
Thứ ba, củng cố năng lực hệ thống thanh toán quốc gia trong việc đảm bảo

luồng chu chuyển thông suốt khi hội nhập với khu vực và thế giới. Việc trở thành thành
viên của AEC đồng nghĩa với việc hệ thống ngân hàng Việt Nam phải tham gia vào cơ
sở hạ tầng hệ thống thanh toán khu vực ASEAN. Theo đó, chúng ta sẽ phải đối mặt
và xử lý thanh toán một khối lượng lớn các luồng lưu chuyển vốn và hội nhập tài
chính, tập trung vào cả các giao dịch giá trị lớn cũng như các giao dịch cá nhân, như:
Thanh toán thương mại xuyên biên giới; Chuyển tiền xuyên biên giới; Hệ thống thanh
toán bán lẻ xuyên biên giới; Thanh toán cho thị trường vốn. Vì vậy, kế thừa những
thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, định hướng đến năm 2020, việc củng cố cơ
sở hạ tầng thanh toán để có thể kết nối với các ngân hàng khu vực là một nhiệm vụ
trọng tâm cần được đặc biệt quan tâm. Đi kèm với việc gia tăng lưu chuyển vốn toàn
khu vực, vấn đề an ninh tiền tệ cũng cần được nhấn mạnh hơn nữa.
- Đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại: Các định chế tài chính
(đặc biệt là các ngân hàng thương mại - kênh cung ứng vốn chính trong nền kinh tế
Việt Nam) mặc dù đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong thời gian qua, đặc biệt
là từ sau kết quả của chương trình tài cơ cấu cần phải nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị các
điều kiện cần và đủ về tài chính, năng lực quản trị kinh doanh, chiến lược hội nhập và
cạnh tranh trong môi trường mới. Hệ thống tài chính tiền tệ trong nước phải được tiếp
tục củng cố và hỗ trợ, cơ cấu lại toàn diện trước khi tự do hoá hoàn toàn. Mặc dù việc
thành lập các ngân hàng lớn là đòi hỏi tất yếu của hội nhập quốc tế, tuy nhiên để có thể
giành thế chủ động trong hội nhập khi những hàng rào bảo hộ được dỡ bỏ và lĩnh vực
dịch vụ ngân hàng mở cửa hoàn toàn theo các cam kết quốc tế, đòi hỏi hệ thống ngân
hàng Việt Nam phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình tái cơ cấu không chỉ tập trung vào số
lượng mà phải thực chất về chất lượng. Cụ thể:
Thứ nhất, các ngân hàng phải được cải tổ về cách quản trị, điều hành, quản lý
rủi ro cho phù hợp với các công ước và thông lệ quốc tế.

17


- Một là phải xử lý cơ bản nợ xấu. Đây sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống

ngân hàng Việt Nam trong một vài năm tới nhằm làm sạch bảng tổng kết tài sản, lành
mạnh hoá tình hình tài chính, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới.
- Hai là phải nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu. Các NHTM Việt
Nam cần phải xây dựng lộ trình và thực hiện tăng quy mô vốn tự có, cải thiện hệ số an
toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel II.
- Ba là phải nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro. Các NHTM
cần phải thực hiện cơ cấu lại, chuyển đổi mô hình tổ chức theo hướng tập trung và
chuyên môn hoá. Bên cạnh đó phải dần áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị rủi
ro, trước mắt là tuân thủ Basel II.
Theo đó, từng bước đạt được các yêu cầu về năng lực tài chính và quản trị tiến
tới tiêu chuẩn ngân hàng khu vực ASEAN (QABs), tạo cơ sở cho việc hình thành 2-3
ngân hàng lớn có sức cạnh tranh và tầm ảnh hưởng trong khu vực.
Thứ hai, phải tích cực chuyển dịch cơ cấu hoạt động và tìm cách xuất khẩu dịch
vụ ngân hàng.Sự phát triển của sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong những năm gần đây
đã cho thấy sự năng động của hệ thống TCTD trong việc khai thác và phát triển sản
phẩm, đa dạng hóa đồng thời cá biệt hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến từng
nhóm khách hàng mục tiêu. Thông qua đó, đã phát triển một hệ thống dịch vụ ngân
hàng đa dạng, hướng theo nhu cầu của nền kinh tế. Nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại,
nhất là các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt dựa trên nền tảng công nghệ cao đã
tiến kịp với trình độ phát triển của các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để có
thể nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ trong bối cảnh hội
nhập, các NHTM cần nỗ lực hơn nữa để:
- Tăng tỷ trọng đóng góp của hoạt động bán lẻ, của thu nhập từ hoạt động dịch
vụ nói riêng và thu nhập phi lãi nói chung trong cơ cấu thu nhập. Đó là xu hướng tất
yếu cho sự phát triển bền vững của NHTM. Bên cạnh đó phải nỗ lực tăng trưởng các
mặt hoạt động nhằm cải thiện các chỉ số hiệu quả, đồng thời kiểm soát chặt chẽ chất
lượng tài sản và đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động.
- Phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Với năng lực tài chính và quản trị hiện tại, hiện nay các NHTM Việt Nam mới chỉ tập
trung phục vụ các doanh nghiệp trong nước hoạt động tại một số thị trường như Lào,

Campuchia và Myanmar.11 Do vậy, để thực sự đạt được mục tiêu hình thành các
Quy mô xuất khẩu dịch vụ ngân hàng (qua cả 4 phương thức là cung cấp dịch vụ qua
biên giới, tiêu dùng ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân) của các
11

18


NHTM đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới, cùng với việc nâng cao năng lực quản trị và
hoạt động nói trên, các NHTM Việt Nam cần phải đầu tư nghiên cứu và phát triển dịch
vụ, tài chính hướng tới xuất khẩu để có thể đẩy mạnh hoạt động của mình tại thị trường
nước ngoài.
Ngoài ra, ngành ngân hàng cũng cần sự phối hợp của nhiều đơn vị bộ ngành liên
quan khác để có thể tiếp tục kiện toàn cơ sở hạ tầng tài chính, từ hệ thống luật pháp đến
thông lệ kế toán kiểm toán, lưu trữ và xử lý thông tin tín dụng, hệ thống thanh toán và
hỗ trợ giao dịch, nguồn lực dành cho công tác thanh tra giám sát, các quy định và giám
sát thực thi công bố thông tin. Tăng cường tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông
tin trên thị trường (qua các tổ chức định mức tín nhiệm)./.

NHTM Việt Nam còn rất nhỏ bé. Hiện nay chưa có số liệu để bóc tách giá trị xuất khẩu dịch
vụ ngân hàng, mà vẫn được thống kê chung trong giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính. Tuy
nhiên quy mô của xuất khẩu tài chính rất nhỏ cho thấy mức độ hạn chế của xuất khẩu dịch vụ
ngân hàng. Tính riêng trong năm 2014, giá trị khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam ước đạt
175 triệu USD, chiếm khoảng 3,3% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của cả nước. Giá trị
xuất khẩu đã giảm dần từ năm 2007 dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu và đến
năm 2014 mới tăng trưởng trở lại. Hiện giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam tương
đương với một số nước trong khu vực như Thái Lan (178 triệu USD), Malaysia (190 triệu
USD), Indonesia (222,9 triệu USD), tuy nhiên thấp hơn nhiều so với các nước như Singapore
(20 tỷ USD), Nhật Bản (7,2 tỷ USD), Ấn Độ (5,6 tỷ USD), Trung Quốc (4,5 tỷ USD).
19




×