Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.98 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Người viết chọn đề tài Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
của nhà văn Tơ Hồi, với các lí do sau:
Người viết muốn hiểu rõ về nền văn học và đời sống của con người trong giai đoạn
1945 - 1954. Muốn hiểu sâu hơn về tác giả Tơ Hồi cũng như các tác phẩm của ơng. Đặc
biệt là hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mà Tơ Hồi đã bỏ khơng ít
cơng sức để xây dựng.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954, gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng
sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội Việt Nam: Cách mạng tháng Tám và
cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài suốt 9 năm. Chính hai sự kiện này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến nền văn học Việt Nam cũng như số phận, cuộc sống của những người dân
trong giai đoạn này.
Văn học ở giai đoạn này, chủ yếu viết về hiện thực cuộc sống và hiện thực cách
mạng. Có rất nhiều nhà văn cùng với tác phẩm của mình đã thực sự tỏa sáng như: Hồ
Phương với truyện ngắn Thư nhà (1948), Nguyễn Đình Thi với tiểu thuyết Xung kích
(1951), Võ Huy Tâm với tiểu thuyết Vùng mỏ (1953), Nguyễn Tuân với thể loại ký Tình
chiến dịch (1950), Nguyễn Huy Tưởng cùng Ký sự Cao Lạng (đạt giả thưởng văn nghệ
năm 1951-1952),… Đặc biệt, Tơ Hồi với tập truyện Truyện Tây Bắc (1953). Tập truyện
Truyện Tây Bắc gồm có 3 truyện: Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
Trong đó, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là truyện phản ánh cuộc sống của người dân vùng
núi Tây Bắc và hiện thực xã hội giai đoạn này rõ nét nhất. Hiện thực cuộc sống tối tăm,
lối sống lạc hậu và chịu sự áp bức bóc lột nặng nề dưới ách thống trị lúc bấy giờ.
Nghiên cứu đề tài này, người viết có thể hiểu rõ hơn về Tơ Hồi cũng như hình
tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Nếu như cốt truyện là yếu tố cần thì
nhân vật là yếu tố đủ để giúp cho mạch chuyện được viết nên thật chặt chẽ và sinh động.
Nhân vật chính là nơi tác giả gửi gắm những quan điểm, khát khao của mình.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi đã gửi gắm tồn bộ tâm tư, những ước vọng
của mình vào nhân vật nhất là nhân vật Mị và A Phủ. Một cô Mị với sức sống tiềm tàn
nhưng mãnh liệt, một A Phủ cá tính mạnh mẽ, gan góc. Từ đó, thấy được sự thành cơng
của Tơ Hồi khi ơng dám phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi.


Phản ánh hiện thực cuộc sống nơi đây thông qua nhân vật của mình. Ngồi ra, cịn thấy
được sự thành cơng của Tơ Hồi khi ơng dám phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp
thống trị ở miền núi. Phản ánh hiện thực cuộc sống nơi đây thông qua nhân vật của mình.
Đó cũng chính là động lực thúc đẩy người viết chọn đề tài Hình tượng nhân vật trong
truyện ngắn vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi để làm niên luận này.

1


2. Lịch sử vấn đề
Tơ Hồi bước vào con đường văn học khá sớm, là cây bút văn xuôi hàng đầu của
nền văn học hiện đại. Ông cho ra đời hàng loạt tác phẩm hay góp phần khơng nhỏ cho nền
văn học Việt Nam. Những tác phẩm của Tơ Hồi đã được giới nghiên cứu và phê bình
văn học chú ý ngay từ những ngày đầu cầm bút. Qua quá trình nghiên cứu thì người viết
nhận thấy được một số bài viết phê bình và đánh giá như sau:
Năm 2005, Nguyễn Đăng Diệp với bài viết Người sinh ra để viết. Bài viết này
được in trong cuốn sách Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại tập 1. Bài viết này, tác
giả nói về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Tơ Hồi: “Nhìn vào khối lượng tác
phẩm đồ sộ của Tơ Hồi, người ta thấy ngất vì sức làm việc dẻo dai, cần mẫn của ông.
Thật ra, Tơ Hồi làm đủ thứ việc, từ tổ trưởng dân phố đến phụ trách một tờ báo, từ việc
đi thực tế đến việc lãnh đạo Hội Văn nghệ,…” [7; tr.307].
Năm 2006, Mai Thị Nhung có cơng trình Phong cách nghệ thuật Tơ Hồi. Trong
cơng trình này có bài viết Đặc điểm thế giới nhân vật Tơ Hồi trên tạp chí văn học. Bài
viết này, tác giả tập trung rất nhiều ý kiến về nghệ thuật viết văn của Tơ Hồi: “Tơ Hồi
có khả năng quan sát đặc biệt, rất thơng minh, hóm hỉnh và tinh tế”, “Nhà văn có khiếu
quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa”, “Ngơn ngữ Tơ Hồi thường ngắn gọn
và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động…” [38; tr.8].
Năm 2007, Phong Lê và Vân Thanh có cơng trình Tơ Hồi tác gia và tác phẩm.
Cơng trình này, tác giả tập trung những ý kiến đánh giá phê bình về truyện ngắn của Tơ
Hồi: “Đặc sắc của Tơ Hồi trước năm 1945 là truyệnngắn, gồm truyện ngắn về loài vật

và truyện ngắn về cảnh và người một vùng quê ven đô - quê ngoại và cũng là quê sinh nơi tác giả đã sinh sống suối đời cho đến hôm nay” [31; tr.30].
Năm 2007, Nguyễn Đức Quyền, có cơng trình Bình giảng – Bình luận văn học.
Cơng trình này có bài viết Vợ chồng A Phủ. Bài viết này, tác giả bình giảng về truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ, Mị và cuộc đời Mị, sức sống ẩn chứa trong Mị, nghệ thuật kết cấu
và ý nghĩa tư tưởng: “Đoạn trích giảng là phần đầu câu chuyện, kể về lai lịch cô Mị,
cuộc sống đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra và sức trổi dậy mãnh liệt của lòng yêu đời,
ham sống ở cô, trong một ngày xuân” [1; tr.347].
Năm 2010, Nguyễn Xn Lạc, có cơng trình nghiên cứu 125 bài văn dành cho
học sinh lớp 11 và 12 luyện thi tú tài – cao đẳng – đại học . Trong đó có bài viết về
hành động của nhân vật Mị: “Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị
cắt dây cởi trói cho A Phủ - một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó
từng nói, khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói cuộc đời mình với nhà
thống lí Pá Tra” [14; tr.252].
Như vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về Tơ Hồi cũng như các tác phẩm
của ơng. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu về hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của
Tơ Hồi vẫn khá ít và chưa chun sâu tìm hiểu một cách trọn vẹn Hình tượng nhân vật
trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Vì thế, người viết chọn đề tài niên luận của mình là
Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi. Dù các tác giả viết
2


về khía cạnh nào đi nữa, dù viết trực tiếp hay gián tiếp. Tôi xin kế thừa những thành tựu
của các nhà nghiên cứu, phê bình.

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tơ
Hồi, người viết nhằm đạt được những mục đích sau:
Người viết muốn hiểu rõ hơn về nhà văn Tơ Hồi cũng như truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ của ơng, nhằm tích lũy kiến thức văn học cho bản thân. Đồng thời, hiểu được nội
dung, ý nghĩa và những ý đồ mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.

Củng cố và vận dụng tất cả những kiến thức đã học để tìm hiểu sâu hơn về Tơ
Hồi. Người viết muốn giúp bản thân và bạn đọc có cái nhìn đúng đắn nhất về nhà văn
cũng như tác phẩm này.
Qua truyện ngắn này, người viết hi vọng góp phần khái quát lên hình tượng những
con người bị tước đoạt tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân
phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu đề tài này là một công việc hết sức hữu ích cho người viết
trong q trình học tập trước mắt và công tác sau này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ
Hồi, người viết đã xác định đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu: Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của Tơ Hồi.
Phạm vi nghiên cứu: Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của
Tơ Hồi. Ngồi việc nghiên cứu về hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ, đề tài cịn mở rộng ra việc tìm hiểu về giọng điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật và
nghệ thuật xây dựng kết cấu.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài niên luận này, người viết đã sử dụng những phương pháp và
thao tác nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, tiến
hành sắp xếp theo hệ thống từng nội dung cho phù hợp với đề tài để làm cơ sở nghiên
cứu.
Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Tơ Hồi, cũng
như hiểu rõ hơn về cảm hứng sáng tác của ông. Từ đâu mà Nam Cao lại thấu hiểu và có
cái nhìn sâu sắc như thế để tạo nên hình tượng những người lao động bất hạnh cũng như
những nhân vật địa chủ gian ác, bóc lột. Nhờ phương pháp nghiên cứu này người viết
cũng biết thêm những cơng trình nghiên cứu nào đã nhận định về Tơ Hồi và tác phẩm
của ơng.


3


Phương pháp phân tích - tổng hợp: Trong khi phân tích người viết cũng huy động
tất cả các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận,… Đồng thời, so sánh đối chiếu để
làm nổi bật vấn đề nghiên cứu. Sau cùng, để trình bày kết quả thu được qua quá trình
nghiên cứu, người viết kết hợp cả hai phương pháp diễn dịch và quy nạp.

4


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hình tượng và hình tượng nhân vật
1.1.1. Hình tượng nói chung
Theo góc độ văn học và nghệ thuật, hình tượng được hiểu là sự phản ánh hiện thực
một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức nhưng hiện tượng cụ thể, sinh động,
điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính.
Hình tượng cịn là những gì quen thuộc, gần gũi nhất với chúng ta. Cũng như
Doboline đã nói: “Đối với tơi hình tượng ln ln nằm ở đầu ngịi bút” [26; tr.91]. Cịn
Bielinski thì cho rằng: “Nhà thơ tư duy bằng hình tượng nhà thơ khơng chứng minh mà
trình bày bằng chân lí” [28; tr.91]. Mỗi nhà văn đều xây dựng hình tượng cho tác phẩm
của mình và có những cách xây dựng khác nhau, có những đặc điểm khác nhau, nó riêng
biệt và nổi bật.
Hình tượng thường được hình thành trong mối quan hệ giữa thế giới hiện thực
khách quan với nhận thức chủ quan của con người, giữa nghệ thuật và cuộc sống. Song,
hình tượng khơng là một bức ảnh chụp hay một bản sao chép máy móc theo đúng nguyên
mẫu của thế giới hiện thực, bởi vì nó thuộc về thế giới của tinh thần và thế giới của sự
sáng tạo. Hình tượng khơng chỉ phản ánh hiện thực mà cịn khái qt hóa, điển hình hóa
tồn bộ thế giới hiện thực, nhằm tìm ra được những yếu tố cốt lõi nhất của hiện thực
khách quan. Hình tượng khơng giống với các khái niệm mang tính trừu tượng mà nó

mang tính biểu hiện hết sức sinh động và độc đáo để làm nên tác phẩm nghệ thuật.
Nhà văn phải vận dụng tất cả những hiểu biết của mình để có thể xây dựng hình
tượng cho tác phẩm, để khi chúng ta đọc vào có thể hiểu, cảm nhận được những gì nhà
văn gửi gắm có thể đó là những sự vật, những bức tranh về cuộc sống, những cảnh đời
hay những số phận riêng lẻ nào đó,… Hình tượng cũng chính là tất cả trí tưởng tượng và
tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Mỗi loại hình nghệ thuật sẽ sử dụng những chất liệu
riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của kịch là âm thanh, ánh sáng và con người.
Chất liệu của âm nhạc là con người và âm thanh. Cịn đối với văn học thì ngơn từ chính là
chất liệu để tạo nên hình tượng văn chương, tạo nên tính độc đáo và đặc biệt trong văn
chương.
Hình tượng là phương tiện đặc thù của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống một
cách sáng tạo, bằng những hình thức sinh động, cảm tính, cụ thể như bản thân đời sống,
thơng qua đó nhằm lí giải, khái quát về đời sống gắn liền với một ý nghĩa tư tưởng, cảm
xúc nhất định, xuất phát từ lí tưởng thẩm mĩ của nghệ sĩ. Mỗi hình tượng là một tế bào
góp phần làm nên tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng nội dung cuộc sống, những
thơng tin về đời sống, những quan niệm, tư tưởng, cảm xúc của tác giả. Phản ánh và sáng
tạo là hai thuộc tính cơ bản của hình tượng. Ngồi ra, hình tượng cịn có thuộc tính cụ thể
và khái qt, chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm,… Như vậy, hình tượng là
phương tiện cơ bản, độc lập duy nhất để nhà văn nhận thức cuộc sống và chính những bức
tranh về cuộc sống ấy là hình tượng.

5


1.1.2. Hình tượng nhân vật
Có thể nói rằng, nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm. Vì vậy, mỗi nhà văn đều
xây dựng cho tác phẩm của mình những hình tượng nhân vật điển hình với những nét tính
cách riêng, những số phận riêng và trong những hoàn cảnh riêng,… Thơng qua thế giới
hình tượng nhân vật trong tác phẩm của mình, nhà văn bộc lộ quan điểm của mình trước
cuộc sống, gửi gắm vào nhân vật những tư tưởng mơ ước khát vọng hay những tâm sự

thầm kín của mình. Nhân vật cũng là nơi để nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí
tưởng thẩm mĩ của chính bản thân mình về con người. Tơ Hồi cũng cho rằng: “Nhân vật
là nơi duy nhất, tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” [15; tr.248].
Mỗi một nhà văn tuỳ theo cảm quan hiện thực đời sống, tuỳ theo quan niệm của
mình mà có những kiểu nhân vật riêng. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
của Tơ Hồi thì nhân vật Mị được xem là hình tượng nhân vật điển hình, điển hình cho số
phận của những người nơng dân ở vùng núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân
nửa phong kiến, thần quyền. Trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao thì Hộ là hình
tượng nhân vật điển hình cho bi kịch của những người trí thức nghèo trong xã hội bấy
giờ.
Hình tượng nhân vật là nhân vật điển hình trong các tác phẩm văn học, mang đậm
nét khái quát và những nét riêng đặc biệt có trong từng nhân vật. Cũng theo Tơ Hồi:
“Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhận vật trước tiên” [16; tr.248]. Hình
tượng nhân vật là nơi thể hiện tập trung lý tưởng đạo đức thẩm mĩ của tác giả, là cái tác
động đến người đọc trên ba mặt: nội dung nghệ thuật, trình độ và hiệu lực của sáng tạo
nghệ thuật ngơn từ.
Phương Lựu cho rằng: “Hình tượng nhân vật là khách thể tinh thần, mọi phương
tiện biểu hiện chỉ có ý nghĩa khi nào làm sống lại các khách thể đó, và người đọc tác
phẩm, chỉ khi nào thâm nhập vào thế giới tinh thần đó mới có thể nảy sinh được thưởng
thức đồng cảm” [7; tr.140].
Như vậy, xây dựng hình tượng nhân vật chính là một phần thiết yếu của tác phẩm.
Nếu không xây dựng được hình tượng cho tác phẩm thì tác phẩm sẽ khơ khan và khơng
thú vị, khơng có nét riêng.

1.2. Vài nét về nhà văn Tơ Hồi và sự nghiệp sáng tác văn chương
1.2.1. Nhà văn Tơ Hồi
Tơ Hồi tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 – 1920 và tính đến nay ơng đã
được 95 tuổi. Ơng sinh ra tại quê nội làng Nghĩa Đô, huyện Thanh Oai, phủ Hồi Đức tỉnh Hà Đơng, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ cơng. Tuy nhiên ơng lớn lên ở q ngoại
là làng Nghĩa Đơ, huyện Từ Liêm, phủ Hồi Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường
Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ơng cịn có nhiều bút danh khác như: Mai Trung,

Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,… Đặc biệt là bút danh Tơ Hồi gắn với
hai địa danh: sơng Tơ Lịch và phủ Hồi Đức.
Tơ Hồi chỉ được học hết tiểu học. Ở tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề
khác nhau để kiếm sống như: Dạy học tư, bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn,… Năm
6


1938, trong thời kì Mặt trận Dân chủ, Tơ Hồi tham gia hoạt động trong tổ chức Hội Ái
hữu thợ dệt, ông làm thư ký ban trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đơng và sau đó tham gia
Thanh niên dân chủ Hà Nội.
Năm 1943, Tơ Hồi gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và bắt đầu viết bài cho báo
Cứu quốc và Cờ giải phóng.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tơ Hồi làm Chủ nhiệm báo Cứu quốc. Ơng là một
trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận phía
Nam. Năm 1946, ơng được kết nạp vào Đảng.
Năm 1950, Tơ Hồi về cơng tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến
năm 1980, Tơ Hồi đã giữ nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như: Uỷ viên
Đảng Đồn, Phó Tổng thư kí, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Năm 1986 – 1996, Tơ Hồi trở thành Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Tơ Hồi đã nhận được nhiều giải thưởng có giá trị:
Năm 1956, giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam (Truyện Tây bắc) .
Năm 1970, giải A giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội (tiểu thuyết Quê nhà).
Năm 1970, giải thưởng của Hội Nhà văn Á-Phi năm (tiểu thuyết Miền Tây).
Năm 1996, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996)

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tơ Hồi
đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở
nhiều thể loại khác nhau như: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng
tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam. Trải qua mỗi chặng đường

lịch sử Tơ Hồi cho ra đời những tác phẩm với những nội dung khác nhau. Sự nghiệp
sáng tác của Tơ Hồi được chia thành hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám –
1945.
*Trước Cách mạng tháng Tám – 1945:
Tô Hồi đã khẳng định vị trí của mình trong bằng một loạt các tác phẩm độc đáo,
đặc sắc như: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Trăng thề
(1943) Nhà nghèo (1944 ).
Tơ Hồi có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu
lưu ký được nhà văn viết năm 18 tuổi, là một trong những tác phẩm văn học thiếu nhi
được yêu thích nhất cũng là tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất.
Tác phẩm của Tơ Hồi trước Cách mạng có thể phân thành hai loại chính là :
truyện về lồi vật và truyện về nơng thơn trong cảnh đói nghèo.
7


Những truyện về loài vật tiêu biểu như: O chuột (1942), Con dế mèn (1941), Dế
mèn phiêu lưu kí (1941),... Qua những tác phẩm trên ta thấy, Tơ Hồi là nhà văn thích viết
về những cái tốt, cái đẹp, cái thiện trong cuộc sống nhằm bày tỏ mong muốn có một cuộc
sống êm ấm, hạnh phúc và bình yên trong xã hội. Một cuộc sống tốt đẹp thật sự.
Bên cạnh truyện viết về lồi vật ơng cịn mảng truyện viết về nơng thơn trong cảnh
sống đói nghèo, tất cả đều được nhà văn miêu tả một cách chân thực và sinh động. Cuộc
sống bần cùng, bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt, những
người thợ thủ công bị thất bại đều được nhà văn tái hiện lại qua từng trang sách bằng tất
cả niềm cảm thông, trân trọng chân thành của nhà văn: Nhà nghèo (1944), Xóm giếng
ngày xưa (1944),…
*Sau Cách mạng tháng Tám – 1945:
Tơ Hồi có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và sáng tác. Ơng đã có những suy
nghĩ mới mẻ về hiện thực cuộc sống và sáng tạo ra những tác phẩm mang nhiều giá trị ở
các thể loại khác nhau. Trong đó, thành cơng nhất của ơng là tiểu thuyết Miền Tây đã đạt
giải Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á Phi năm 1970. Trong sáng tác, Tô Hồi đã có

những bước chuyển rõ rệt cả về chủ đề và đề tài.
Tác phẩm đầu tiên của Tơ Hồi viết về miền núi là tập truyện Núi cứu quốc (1948).
Cho đến năm 1952, ông cho ra đời tập Truyện Tây Bắc được thể hiện một cách
chân thật và sinh động. Tập Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên
con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tơ Hồi về mối quan
hệ giữa nghệ thuật với cách mạng. Ở thời gian này, Tơ Hồi cho ra đời khá nhiều tác
phẩm ở nhiều thể loại khác nhau.
Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây Bắc (1953,
Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác trước (1957), Vỡ tỉnh
(1962), Người ven thành (1972),...
Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm
1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978), Những
ngõ phố, người đường phố (1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải thưởng Hội
Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988),...
Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tơi thăm Cămphuchia
(1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa
(1981). Cát bụi chân ai (1992),...
Truyện thiếu nhi: Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999).
Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác: Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959),
Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn
(1997),...
Sự nghiệp văn chương của ông đã được đánh dấu ở con số 75 năm nhưng đến nay
cây bút ấy vẫn không hề ngừng nghỉ. Cho đến nay, ơng đã có trên 150 tác phẩm thuộc
8


nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh
nghiệm sáng tác.

1.3. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

1.3.1. Xuất xứ
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được viết năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc,
tập truyện được giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam (1945 – 1955). Truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi dài tám tháng theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc
năm 1952. Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc
thiểu số nên đã để lại nhiều kỉ niệm. Điều đó đã gợi nên cảm hứng để Tơ Hồi viết
Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ gồm có hai
phần. Phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Phần sau viết về cuộc
sống nên vợ chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã phản ánh số phận cực khổ của người dân miền
núi dưới ách thống trị của thực dân nửa phong kiến và thần quyền. Tố cáo các thế lực chà
đạp con người. Tái hiện cuộc đời Mị và A Phủ, tác giả bày tỏ lịng cảm thơng, xót xa
trước cuộc sống cơ cực của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp và sức
sống quật cường của họ.

1.3.2. Tóm tắt truyện ngắn
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời hai thanh niên người Mông: Mị và A
Phủ. Mị là một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo. Cơ là một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống
tự do, không ham giàu sang, phú q. Vì món nợ truyền kiếp, bị A Sử bắt về làm vợ, làm
dâu gạt nợ nhưng trên thực tế chính là làm nơ lệ ở nhà thống lí Pá Tra. Từ khi bước chân
vào nhà thống lí Mị bị bóc lột về sức lao động, làm việc quần quật, bị áp bức, sống lùi lũi
như con rùa ni trong xó cửa. Đã có lần Mị định tự tử nhưng vì thương bố Mị khơng
đành chết. Thế là Mị sống tiếp trong cuộc sống tăm tối, Mị dường như đã tê liệt về cảm
xúc. Mị làm việc một cách máy móc: Tết xong hái thuốc phiện cịn giữa năm thì giặt đay,
se đay, đến mùa: đi nương bẻ bắp,… Mị làm việc tất bật cả ngày cả đêm. Bao nhiêu việc
cứ lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác.
Cho đến đêm mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình của những thanh niên ở làng Mèo
Đỏ đã đánh thức trong Mị niềm khát khao tự do, hạnh phúc. Mị đã uống rượu, khều to
ngọn đèn, với tay lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi nhưng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm,
Mị sống trong sự giằng xé giữa khao khát tự do và hiện tại nghiệt ngã.

Còn A Phủ là một thanh niên khỏe mạnh, gan góc, vì đánh nhau với A Sử nên bị
bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ chăn bò gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Một lần mải mê
bẩy nhím bị hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn và bị phạt trói đứng suốt
mấy ngày đêm.
Bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ Mị cảm thương cho người cùng cảnh ngộ, Mị đã
cắt dây cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Đến Phiêng Sa, họ
9


trở thành vợ chồng, gặp cán bộ cách mạng A Châu và được giác ngộ cách mạng. Sau đó
họ trở thành chiến sĩ du kích.

10


Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN VỢ CHƠNG A PHỦ
2.1. Hình tượng nhân vật thống trị
2.1.1. Nhân vật thống Lí Pá Tra
Nhân vật thống lí Pá Tra đại diện cho lớp người thống trị của ách thống trị thực
dân, nắm trong tay nhiều quyền lực, là người giàu có nhưng tàn ác, khơng có lịng thương
người. Mọi người đối với thống lí Pá Tra chỉ như một công cụ để hắn kiếm tiền, chỉ là
những người hầu, kẻ ở. Cưới dâu về chỉ để gạt nợ: “Cho tới năm ấy Mị đã lớn. Mị là con
gái đầu lịng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao
xóa hết nợ cho” [3; tr.5]. Ln ln ra uy, ra lệnh với mọi người: “Pá Tra ngồi dậy, vuốt
ngược cái đầu trọc dài, kéo đi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi: Thằng A Phủ ra
đây” [5; tr.11].
Pá Tra là kẻ gian xảo, thâm độc khi hắn cho A Phủ vay tiền để rồi bắt A Phủ trở
thành người ở của hắn: “Mày khơng có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao
giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con

ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ
thì tao mới thơi” [6; tr.12]. Dù xuất hiện ít nhưng ta vẫn thấy được bản tính của thống lí
Pá Tra, bản tính của bọn chúa đất hung hãn, tàn bạo. Thơng qua nhân vật thống lí Pá Tra,
Tơ Hồi đã tố cáo sự áp bức, bóc lột của ách thống trị thực dân. Nhà văn đã lột tả được
hết bản chất và bộ mặt giả dối, ác độc của bọn chúa đất, thần quyền.

2.1.2. Nhân vật A Sử
Nhân Vật A Sử là con trai của thống lí Pá Tra, đại diện cho tầng lớp thống trị. Nhà
giàu nhất làng, có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Từ cái nhìn đầu
tiên cho ta thấy, A Sử là người ngang ngược, khơng chịu nói lý lẽ khi bắt cóc Mị về vợ để
trừ nợ: “Nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi” [17; tr.5]. Một người cậy quyền
thế và hung hãn khi: “A Sử ném đá vào vách” [6; tr.10]. Hắn kéo bè lũ đến gây sự với
những thanh niên trong làng.
Ngoài ra, A Sử cịn là người độc đốn khi: “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi
tết” [25; tr.7]. Khi trói đứng Mị khi cơ chuẩn bị đi chơi. Sau đó A Sử ung dung đến với
cuộc chơi mà chẳng quan tâm gì đến vợ. Đối xử tệ bạc với Mị, đạp vào mặt Mị một cách
tàn nhẫn khi Mị ngủ quên trong lúc thoa thuốc cho hắn. A Sử chỉ xem Mị như một người
ở khơng hơn khơng kém. Hồn cảnh xã hội đã đẩy những con người như A Sử thành con
người xấu xa, đáng bị nguyền rủa. Tơ Hồi đã thành công khi xây dựng nhân vật A Sử với
tính cách của tầng lớp thống trị áp bức.

11


2.2. Hình tượng nhân vật người lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột
2.2.1. Nhân vật Mị
Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với
một thân phận đặc biệt. Đó là một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô
tri, vô giác.
Đến với nhân vật Mị, Tơ Hồi đã khơng miêu tả chi tiết về ngoại hình của Mị ta

chỉ có thể nhận thấy Mị là một cơ gái nhà nghèo, trẻ đẹp và có tài thổi sáo: “Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên mơi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”
[20; tr.7].
Ngồi ra, Mị cịn là một cơ gái chăm làm, không ham giàu sang phú quý, một
người con hiếu thảo Mị xin bố đừng bán cô cho nhà giàu: “Ôna lão nghĩ năm nào cũng
phải trả một nương ngơ cho người ta, thì tiếc ngơ, nhưng cũng lại thương con q. Ơng
chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải
làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” [4; tr.5]. Cô sẵn sàng
lao động vất vả để trả món nợ truyền kiếp thay cha mẹ. Sau khi bị bắt về nhà thống lí,
mặc dù có lúc cơ đã muốn tìm đến cái chết bằng cách ăn lá ngón để tự giải thốt cho
chính mình, nhưng vì chữ hiếu với cha cơ đã gắng gượng tiếp tục sống những chuỗi ngày
vất vả. Với những đức tính tốt đẹp ấy, lẽ ra Mị sẽ được hưởng cuộc sống tự do hạnh phúc.
Tuy nhiên, chỉ qua một đêm, cuộc đời cơ đã chính thức bước qua một cột móc mới, hồn
tồn tăm tối.
Những ngày đầu về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị phản kháng quyết liệt,
hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã quyết định ăn lá ngón để kết thúc cuộc
đời làm dâu gạt nợ. Mị không đành chết, bởi Mị chết đi bố Mị còn khổ hơn bây giờ. Hành
động ăn lá ngón tự tử cho thấy sự phản kháng của Mị trước cảnh làm dâu gạt nợ. Mị
không chấp nhận số phận.
Cuộc sống hiện tại, Mị bị bóc lột đến cùng cực về sức lao động. Mị dần bị tê liệt về
cảm xúc. Mị làm việc một cách máy móc: tết xong: hái thuốc phiện, giữa năm: giặt đay,
se đay, đến mùa: đi nương bẻ bắp,… Mị làm việc tất bật cả ngày cả đêm . Bao nhiêu việc
cứ lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Thân phận Mị chẳng
khác nào tù nhân chốn địa ngục, mất đi tri giác của cuộc sống: “Mỗi ngày Mị càng khơng
nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa
sổ một lổ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng” [22; tr.6].
Khi đã chấp nhận số phận một cô con dâu gạt nợ, Mị dường như đã tê liệt cả về
lòng yêu đời và sự phản kháng. Đến cái chết, Mị cũng chẳng nghĩ đến nữa vì: “Lần lần,

mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng khơng cịn tưởng đến Mị có thể
ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” [10; tr.6]. Không một lời than
giãn chấp nhận cái số phận nghiệt ngã của mình. Mị chỉ biết cúi mặt khơng nghỉ ngợi gì
nữa mà cơ chỉ nhớ đi nhớ lại những việc mình cần làm trong năm mà thơi. Bây giờ,
dường như Mị chỉ nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa. Ý thức làm người vốn có của Mị
12


đã bị giai cấp phong kiến vùi dập. Mị giờ đây, chỉ là một cái bóng vơ cảm, vơ hồn. Nhà
văn đã gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi.
Sau những cuộc phản kháng, Mị dần trở nên âm thầm, vô cảm. Mị khơng cịn cảm
nhận được thế giới xung quanh nữa, Mị chỉ nhớ đến những việc mình cần làm trong năm.
Vẫn tưởng Mị đã khơng cịn sức chống chọi nhưng không, bởi cô Mị của trước kia là một
cô gái yêu đời, yêu cuộc sống vì vậy mà dù thế nào chăng nữa trong Mị vẫn chứa đựng
một sức sống mãnh liệt ln nhen nhóm, chỉ cần có yếu tố tác động vào thì sức sống ấy sẽ
vụt lên mạnh mẽ như chính con người Mị của trước kia. Yếu tố tác động mạnh mẽ vào
linh hồn Mị không gì khác chính là đêm tình mùa xn. Với cảnh mùa xuân vui tươi, tràn
đầy sức sống và màu sắc, với vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, bữa cơm tết cúng ma đón
năm mới “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa. Đặc biệt là
tiếng sáo gọi bạn tình của những thanh niên. Tiếng sáo ấy đã làm sức sống trong Mị thức
tỉnh. Tiếng sáo từ xa đầu tiên: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra
phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên
sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe
tiếng sáo vọng lại thiết tha, bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi” [1;
tr.7]. Tiếng sáo đầu tiên cất lên đã đánh dấu bước trở lại đầu tiên của một cô Mị yêu đời.
Mị đã cất tiếng hát sau bao năm câm lặng. Tiếng hát ấy khơng lớn mà nó chỉ như là
những lời thì thầm mùa xuân. Chỉ là hành động nhẩm thầm lời bài hát nhưng đó minh
chứng cho sự thay đổi trong Mị. Trong cái khơng khí của đêm tình mùa xuân, trong cái
nồng nàn của bữa rượu ngày tết, Mị cũng uống rượu, uống ực từng bát như muốn uống đi
những cay đắng vừa qua, để sống lại cuộc đời tươi trẻ. Cô đang sống những kỉ niệm ngày

trước, ngày tươi đẹp và hạnh phúc. Tô Hồi đã thành cơng khi miêu tả âm thanh tiếng sáo
trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo miêu tả từ xa đến gần và lặp lại nhiều lần.
Tiếng sáo chẳng những không dừng lại mà dường như đang vây lấy Mị, muốn đưa
Mị trở lại là một cô Mị của trước kia. Vì vậy mà: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng
bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lịng Mị
thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” [17; tr.7]. Mị
đã tiến thêm một bước nữa trên hành trình tìm lại chính mình. Mị cảm thấy mình trẻ lắm
và muốn đi chơi. Lòng yêu cuộc sống trong Mị đã trỗi dậy, khát khao được hạnh phúc
thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh. Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ đã có chồng
khác.
Lịng Mị giờ đây chứa đựng biết bao là cảm xúc buồn, vui, cay đắng, xót xa. Vậy
mà tiếng sáo thì cứ quanh quẩn. Mị khơng muốn chấp nhận nó, chấp nhận cuộc sống như
con trâu, con ngựa. Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa, bất cơng của cuộc sống
thực tại: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị,
khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,
Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường” [3; tr.8]. Sự vui sướng của Mị
bổng vụt tắt khi Mị có ý định ăn lá ngón tự tử. Bởi khi đã ý thức được mình cịn trẻ Mị
cũng ý thức được số phận éo le của mình. Mị phản kháng trước hoàn cảnh, nhưng hoàn
cảnh thật chớ trêu giữa một bên là khát vọng sống mãnh liệt với một bên là hiện thực
nghiệt ngã.
13


Tiếng sáo cứ thế nhập vào người Mị: “Bây giờ Mị cũng khơng nói. Mị đến góc
nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập
rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi” [11; tr.8]. Tiếng sáo ngoại cảnh đã
trở thành tiếng sáo nội tâm. Chính tiếng sáo ấy là chất xúc tác để phản kháng của Mị
mạnh mẽ hơn Mị muốn đi chơi, dẫn đến hành động: Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy
hoa vắt ở phía trong vách để đi chơi. Mị đã thắp lên ánh sáng của đời mình sau những

ngày tăm tối, buồn khổ, thắp lên ngọn lửa sống trong Mị mà bấy lâu nay đã nguội lạnh.
Mị phản kháng một cách mạnh mẽ và liên tục trong tâm hồn để rồi dẫn đến hàng loạt
hành động.
Những hoạt động sống lại của Mị đang diễn biến mạnh mẻ cũng là lúc nó bị vùi
dập một cách dã man. A Sử đã trói đứng Mị vào cột, quấn ln tóc Mị lên cột khiến cho
Mị khơng thể cựa quậy được: “Trong bóng tối, Mị đứng lặng im, như khơng biết mình
đang bị trói. Hơi rượu cịn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những đám
chơi, những cuộc chơi” [22; tr.8]. A Sử chỉ có thể trói buộc thể xác của Mị còn tâm hồn
Mị vẫn đi theo tiếng sáo Mị vùng bước đi như kẻ bị mộng du. Bởi Mị đang sống với ước
mơ, bằng ước mơ chứ khơng phải bằng hiện thực. Cả đêm Mị bị trói đứng như thế. Mị
sống trong sự giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, giữa tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và
tiếng chân ngựa đạp vào vách: “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được.
Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng
yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa” [25; tr.8]. Thực tại
phũ phàng đã dẫm lên ngọn lửa sống vừa mới nhen nhóm. Điều đó cũng hứa hẹn sẽ có
một cuộc phản kháng quyết liệt hơn. Cũng như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật
Mị của Tơ Hồi khơng mất đi hồn tồn bản chất tốt đẹp vốn có mà nó ẩn sâu trong tâm
hồn của Mị. Giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ cần
một trận gió mát lành thổi tới là nó có thể cháy một cách mãnh liệt.
Sau đêm mùa xuân bị trói đứng, Mị lại trở về với tình cảnh u mê và có phần trầm
trọng hơn, Mị trở nên dửng dưng khi thấy cảnh A Phủ bị trói đứng. Bởi tâm hồn Mị đã
khép kín và câm lặng rồi. Cho đến khi Mị nhìn thấy những giọt nước mắt của A Phủ:
“Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy A Phủ cũng vừa mở, một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” [21; tr.13]. Dòng nước mắt ấy
đã làm trỗi dậy trong Mị sự đồng cảm, thương người, thương mình. Mị nhớ lại đêm năm
trước Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Có thể thấy, lịng thương mình là nền tảng để
thương người để rồi sau đó Mị hành động một cách mạnh mẽ. Mị nhìn rõ được bộ mặt tàn
ác và tội ác của cha con thống Lí. Sức mạnh của tình thương người và niềm khát khao tự
do trong Mị trỗi dậy, bùng phát mạnh mẽ đã khiến Mị vượt qua sự sợ hãi để đưa ra quyết
định và hành động táo bạo cắt dây cởi trói cho A Phủ và theo A Phủ bỏ trốn khỏi Hông

Ngài: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không
biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt
hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiến “Đi ngay…”” [6; tr .14]. Những hành động trên của
Mị cho thấy, Mị đã hoàn toàn hồi sinh trở lại. Hành động của Mị là kết quả tất yếu sau
những gì diễn ra ở Mị, là cả một q trình trong hành trình tìm lại chính mình, tự giải
thốt mình khỏi “xiềng xích” của cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Mị cắt dây
cởi trói cho A Phủ cũng là tự cắt sợi dây trói buộc cơ với nhà thống lí Pá Tra.
14


2.2.2. Nhân vật A Phủ
Tuổi thơ bất hạnh, A Phủ phải chịu cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm xưa, trong
một trận dịch bệnh cha mẹ và anh, em A Phủ đều chết cả “Năm xưa làng Hán – bla phải
một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn, chết, có nơi chết cả nhà. Anh của A
phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết”[22; tr.12]. Có người bắt A Phủ đem xuống
bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi nhưng A Phủ ngang bướng không
chịu ở dưới cánh đồng thấp, trốn lên núi, sau đó lưu lạc đến Hồng Ngài. Qua những chi
tiết trên ta thấy, A Phủ là một mầm sống khỏe mạnh đã vượt qua biết bao nghiệt ngã của
tự nhiên để sinh sống và tồn tại.
Lớn lên giữa núi rừng và được sự bao bọc của núi rừng, A Phủ trở thành một
chàng trai tài giỏi, khỏe mạnh : Biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bị
tót táo bạo. Nhờ vào sự khỏe mạnh, tài giỏi mà A Phủ được nhiều người mê mẫn. Nhưng
xét ở góc độ nào thì A Phủ vẫn là một chàng trai nghèo khó khơng thể lấy nổi vợ: “Nhiều
người nói: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc
mà giàu. Người ta ao ước đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn
tục lệ cưới xin, mà A Phủ thì khơng bố, mẹ, khơng có ruộng, khơng có bạc, A Phủ khơng
thể lấy nổi vợ” [29; tr.12]. Bởi phép làng và tục lệ cưới hỏi ở đây qua khắc nghiệt làm cho
A Phủ không lấy được vợ. Với những phong tục miền núi quá hà khắc đã vơ tình đẩy con
người đi vào bước đường cùng, túng quẩn. Qua đây, Tơ Hồi đã phê phán những phong
tục lạc hậu vùng Tây Bắc.

Từ năm lên mười, A Phủ đã bộc lộ mình là con người gan góc, cá tính ấy lại được
chính cuộc sống núi rừng, hoàn cảnh cực khổ, làm thuê, làm mướn hun đúc để A Phủ trở
thành người có mạnh mẽ, táo bạo. Cũng vì là người táo bạo, dám nghĩ dám làm nên A
Phủ đã đánh A Sử con trai thống lí Pá Tra khi A Sử đến sinh sự. Để rồi, A Phủ bị bắt, bị
hành hạ, bị xử ép và trở thành nơ lệ cho nhà thống lí Pá Tra. Dường như A Phủ không
quan tâm mấy đến việc mình đang ở trừ nợ cho nhà thống lí. A Phủ vẫn: “Đốt rừng, cày
nương, đốt nương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình bơn ba
rong ruổi ngồi gị ngồi rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. Cơng việc làm hay đi săn, cái
gì cũng làm phăng phăng. Khơng cịn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng
chẳng muốn trở về làm gì bên ấy nữa” [17; tr.12].
Vẫn tưởng cuộc sống của A Phủ sẽ suôn sẻ như thế nhưng không sóng gió một lần
nữa đến với A Phủ vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bị, cứ ngỡ A Phủ sẽ lo sợ lắm
nhưng A Phủ rất thản nhiên vác nữa con bò mà hổ ăn dở về, điềm nhiên nói với thống lí
sẽ bắt hổ về và coi đó là chuyện dễ dàng: “Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò
xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi: Mất mấy con bị? A Phủ trả lời tự
nhiên:Tơi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm”. Dù chỉ là một câu
nói nhưng ẩn chứa bên trong là cá tính táo bạo của A Phủ. A Phủ khơng sợ quyền lực,
cũng không sợ cái uy của ai cả. A Phủ bị trói đứng vào cọc ở nhà thống lí Pá Tra.
Trong suốt thời gian bị trói A Phử đã nhận ra được bản chất tàn bạo của xã hội
phong kiến, thần quyền Tây Bắc, cảm nhận được cuộc đời, số phận của mình. A Phủ đã
khóc, đó là những giọt nước mắt đau khổ khi ý thức được thực tại cuộc sống quá nghiệt
ngã, quá phủ phàng. Giọt nước mắt A Phủ: “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt
trông sang, thấy A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
15


đã xám đen lại” [21; tr.13]. Lần đầu tiên con người gan góc, mạnh mẽ như A Phủ khóc,
khóc vì số phận, vì cuộc sống hiện tại dưới ách thống trị của thực dân phong kiến và thần
quyền.
Cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của Mị, A Phủ đã được giải thốt, hai người trốn khỏi

nhà thống lí giải thốt cuộc đời nơ lệ, tăm tối của mình.
Tơ Hồi đã thành cơng khi xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ với cá tính gan
góc, táo bạo và mạnh mẽ. Cùng với nhân vật Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ mang ý
nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng Tây Bắc. Từ cuộc sống tăm
tối, đau khổ họ đã vươn tới và bước ra ánh sáng của tự do, ánh sáng của cách mạng.

2.3. Một số hình tượng nhân vật khác
Cha Mị là một người cha biết thương con. Chỉ vì lúc trước vay tiền của thống lí để
cưới mẹ Mị mà giờ đây ông đành để cho Mị về làm con dâu gạt nợ. Thấy mình có lỗi ơng
đặt trách bản thân mình: “Ơng lão nhớ ngay câu nói của thống lí Pá Tra dạo trước: Cho
con gái về nhà thống lí Pá Tra thì trừ được nợ. Chao ơi! Thế là cha mẹ ăn ở bạc của nhà
giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác
được rồi!” [23; tr.5]. Ông cảm thấy hối hận nhưng dù có thế nào đi chăng nữa thì cũng
khơng thể cứu vãn, bởi giờ đây Mị, đứa con gái mà ông thương yêu cũng đã bị người ta
bắt về làm dâu gạt nợ. Xảy ra nghịch cảnh trớ trêu này ngun nhân khơng đâu khác
chính là xã hội bấy giờ, cuộc sống đã đẩy con người vào đường tù túng, khơng lối thốt.
Dù xót xa cho con nhưng ơng cũng khơng thể làm được gì.
Đau lịng khi Mị về cúi lạy mình, ơng đã khóc, ơng khơng khóc cho bản thân mà
ơng khóc cho số phận nghiệt ngã đã đẩy ơng vào cảnh như thế, khóc vì ơng đã làm khổ
con. Ơng là một người cha thương con, hiểu con đốn biết được lịng con gái. Lời nói của
ơng như van xin: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à ? Mày chết nhưng nợ tao
vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì khơng ai làm nương ngơ giả được nợ
người ta, tao thì ốm yếu q rồi. Khơng được con ơi !” [4; tr.6]. Tấm lòng của người cha
là vơ bờ bến nhưng cũng vì xã hội đẩy đưa mà giờ đây một người thương con như ông lại
phải đành để Mị trở thành con dâu nhà thống lí, sống cuộc sống như một con ở.
Tơ Hồi đã khắc họa hình ảnh bọn quan chức với vẻ bề ngoài lịch lãm, trang
nghiêm: Đội mũ, quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa nhưng khi bắt đầu xử kiện họ chỉ là
những người mê muội, bị mê hoặc bởi thuốc phiện: “Nhưng chỉ bọn con trai làng ấy phải
ngồi khoanh tay cạnh A Phủ vì họ bị gọi sang hầu kiện, cịn bọn chức việc thì nằm dài cả
bên khai đèn. Suốt từ trưa cho đến hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lí Pá

Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến lượt người khác hút, lại người khác
hút” [31; tr.10]. Bọn chức việc chỉ biết đến việc hút thuốc phiện mà chẳng quan tâm đến
vì sao A Phủ đánh A Sử. Họ là những người tham quan chỉ biết lo cho cuộc sống của
mình mà chẳng nghĩ đến cuộc sống của người khác. Bọn quan chức đã tạo điều kiện để
thống lí Pá Tra có cơ hội bắt A Phủ trở thành người ở. Bắt A Phủ phải lệ thuộc vào hắn.
Tơ Hồi đã xây dựng hình tượng nhân vật với hai mảng đối lập nhau: Một bên là
nông dân nghèo khổ, không quyền hạn. Một bên là quan chức giàu có, có uy quyền. Từ
đó, phản ánh rõ nét về cuộc sống của người dân nơi vùng núi Tây Bắc.
16


Chương 3: VÀI NÉT NGHỆ THUẬT VỀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ
3.1. Giọng điệu nghệ thuật
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi đã khắc họa chân thực những nét riêng
biệt về phong tục, tập quán, tính cách và cả về tâm hồn của người dân vùng Tây Bắc: Tục
trình ma, tục cưới hỏi, tục đi chơi ngày Tết,… với giọng văn nhẹ nhàng, đượm màu sắc.
Giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật tạo ấn tượng cho người đọc.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi có một nét riêng mà không thể lẫn đi
đâu bởi giọng điệu mà tác giả sử dụng là giọng điệu tự nhiên, gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của người dân. Bằng cách xưng hô “tao- mày” chân thực không chứa nhiều ẩn ý
làm cho người đọc dễ hiểu, dễ tiếp nhận: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à ?
Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì khơng ai làm
nương ngơ giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi !” [4; tr.6].
Đặc biệt thơng qua tác phẩm người đọc có thể hiểu thêm về phong tục, tập quán của
dân tộc Mông: Phạt vạ, trình ma,cho vay nặng lãi, cưới hỏi, nối dây, gọi bạn tình, chơi
xn,… “Tơi đã cướp được con gái bố về làm vợ, tơi đem về cúng trình ma nhà tơi rồi,
bây giờ tơi đến trình cho bố biết. Tiền bạc để cưới thì bố tơi bảo đã đưa cả cho bố rồi”
[21; tr.5]. Tơ Hồi đã sử dụng những từ ngữ đậm chất miền núi nhờ đó đã làm cho tác
phẩm có sức hấp dẫn đặc biệt và sức sống với thời gian với những nét văn hóa dân tộc.

Mị với giọng điệu van xin khi bố cô định bán cơ cho nhà giàu: “Ơng lão nghĩ năm
nào cũng phải trả một nương ngơ cho người ta, thì tiếc ngơ, nhưng cũng lại thương con
q. Ơng chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô,
con phải làm nương ngô giả nợ thay bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” [4; tr.5]. Giọng
điệu van xin tha thiết, Mị chấp nhận lao động để trả nợ nhưng không chấp nhận về làm
dâu con nhà giàu có lẽ Mị đã đốn trước được số phận mình khi chấp nhận cuộc sống làm
dâu gạt nợ.
Sự thương người của Mị khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng. Đó là giọng điệu xót xa
thương cho số phận của một kiếp người khi phải chịu những áp bức: “Cơ chừng này chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó
đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thơi… Người kia
việc gì mà phải chết thế” [27; tr.13]. Chỉ bấy nhiêu nhưng, ta thấy chứa đựng rất nhiều ý
nghĩa.
Bằng giọng điệu tự tin A Phủ xin thống lí cho đi bắt hổ về chuộc tội: “Về đến nhà,
A Phủ lẳng vai ném nửa con bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi: Mất mấy
con bị? A Phủ trả lời tự nhiên:Tơi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to
lắm”. Từ đó cho thấy sự gan dạ và táo bạo của A Phủ. Với tài năng của mình A Phủ tin
rằng mình sẽ bắt được hổ, là một con người mạnh mẽ vì vậy mà A Phủ cũng có những
hành động táo bạo.

17


Tơ Hồi đã thu hút mọi ánh nhìn của người đọc bằng cách sử dụng nghệ thuật trần
thuật uyển chuyển, linh hoạt, cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng.
Với sự dẫn dắt khéo léo và cách kể chuyện ngắn gọn nhà văn đã đưa người đọc đi từ bắt
ngờ này đến bất ngờ khác.

3.2. Nghệ Thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật

Ngoại hình và nội tâm là nhân tố khơng thể thiếu để thể hiện nhân vật. Bởi nhân
vật cần sự thống nhất giữa bên trong và bên ngoài. Để Mị xuất hiện ngay những dịng đầu
tiên của truyện Tơ Hoài đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc khi khắc họa lên hình
ảnh của một cơ gái lẻ loi, một cơ con dâu nhà thống lí giàu sang mà mặt lúc nào cũng cúi
xuống và buồn rười rượi: “Cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước
dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” [2; tr.4]. Nếu trước đây Mị là
một cơ gái u đời, ln vui vẻ thì bây giờ khi đã về làm dâu nhà thống lí Mị trở lặng lẻ
và mất hết sức sống lùi lũi. Bằng cách miêu tả rõ nét khuôn mặt của Mị, Tô Hoài đã khiến
ta phải suy ngẫm và cảm thấy mâu thuẫn. Một cô con dâu nhà giàu mà lúc nào cũng lùi
lũi, cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Mâu thuẫn ấy dường như muốn hé mở cho ta về cuộc đời
của Mị, báo hiệu một cuộc sống lắm chông gai và nghiệt ngã mà Mị sắp gánh chịu.
Nhân vật A Phủ là nhân vật được Tơ Hồi nhắc đến là một con người khỏe mạnh và
có vẻ bề ngồi ưa nhìn: “A Phủ khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng
nhiều người mê, nhiều người nói rằng: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu” [29; tr.12]. Tơ Hồi không miêu tả một cách trực tiếp
mà ông miêu tả gián tiếp ngoại hình của A Phủ thơng qua việc làm, cử chỉ và hành động.
A Phủ một người gan dạ, siêng năng và cá tính.
Nhân vật Thống lí Pá Tra không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng đây là nhân
vật điển hình cho tầng lớp thống trị miền núi. Tơ Hồi khơng miêu tả nhiều về ngoại hình
của thống lí mà chỉ phát họa sơ lượt, vài nét. Ta thấy, thống lí Pá Tra có cái đầu trọc và
đi tóc dài: “Lúc một loạt người hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài,
kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè” [3; tr.11]. Ngoại hình của thống lí Pá Tra
mang đậm chất miền núi.
Nhân vật A Sử với ngoại hình của một cơng tử giàu sang, con nhà quan chức: “A Sử
vừa ở đâu về, lại đang sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khốc thêm hai vịng bạc ở cổ
rồi bịt cái khăn trắng lên đầu . Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó cịn muốn rình bắt
mấy người con gái nữa về làm vợ” [7; tr8].
Ngoại hình là một trong những yếu tố không thể thiếu khi xây dựng hình tượng
nhân vật. Ngoại hình giúp ta hiểu thêm phần nào về nhân vật. Trong truyện ngắn vợ

chồng A Phủ ta thấy mỗi nhân vật đều mang những nét ngoại hình khác nhau gắn liền với
những tính cách khác nhau. Mị với vẻ bề ngoài xinh đẹp nhưng khuôn mặt lúc nào cũng
cúi xuống, buồn rười rượi, ẩn chứa trong đó là sức sống mãnh liệt. A Phủ là một người
18


mạnh mẽ, gan góc. A Sử là một kẻ ngang ngược và thống lí Pá Tra là một người ác độc,
tàn bạo.

3.2.2. Miêu tả ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, là phương tiện để người đọc hiểu thêm về tính
cách, tư tưởng, tâm lí,…của nhân vật. Sêdrin cho rằng: “Từ cửa miệng một người nói ra
khơng hề có lấy một câu nào mà lại khơng thể có những hành động, những câu nói mà
đằng sau lại khơng có một lịch sử riêng” [4; tr.45]. Đằng sau câu nói của mọi người đều
ẩn chứa những cái riêng của nó.
Tơ Hồi đã thành cơng khi miêu tả ngôn ngữ nhân vật với cách xưng hô
“mày – tao”: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn
còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì khơng lấy ai làm nương ngơ giả được nợ
người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi !” [4; tr.6]. Qua đó cho thấy, Tơ
Hồi đã sử dụng từ ngữ hết sức mộc mạc, giản dị và gần gũi với cuộc sống.
Trong suốt chiều dài của tác phẩm nhân vật Mị chỉ hai lần cất tiếng nói. Lần đầu
tiên Mị nói là lúc van xin cha đừng gả cơ cho nhà giàu: “Ông lão nghĩ năm nào cũng
phải trả một nương ngơ cho người ta, thì tiếc ngơ, nhưng cũng lại thương con q. Ơng
chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải
làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” [4; tr.5]. Điều đó
chứng tỏ Mị là một cơ gái siêng năng, giỏi giang, hiếu thảo với bố và không ham giàu
sang, phú quý. Mị chấp nhận lao động để trả nợ nhưng không chấp nhận về làm dâu con
nhà giàu.
Lần thứ hai Mị cất tiếng là lúc cắt dây cởi trói cho A Phủ. Tiếng nói đầu tiên được
cất lênn sau bao nhiêu năm câm lặng: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A

Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở
người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiến “Đi ngay…””
[6; tr .14]. Bao nhiêu u uất, dồn nén để rồi Mị cất tiếng. Mị bắt đầu sợ cái chết bởi lúc này
đây Mị đã nhận thức được tất cả. Sức sống trong Mị đã thực sự trở về. Cũng từ đây, Mị đã
được tự do bắt đầu một cuộc sống mới, ở vùng đất mới.
A Phủ là một người mạnh mẽ và gan dạ: “Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con
bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi: Mất mấy con bị? A Phủ trả lời tự
nhiên: Tơi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm” đứng trước thế lực
thống trị A Phủ không hề sợ sệt bởi A Phủ là người không sợ cường quyền, là một người
gan góc, táo bạo. Qua câu nói của A Phủ ta cịn nhận thấy anh là người có trách nhiệm, A
Phủ nhận thức được đâu là người vừa cứu mình, là ân nhân của mình vì vậy mà anh đã
dẫn Mị cùng đi, chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.
Thống lí Pá Tra là người giàu có nhưng cậy quyền thế, không giúp đỡ người dân mà
ngược lại còn áp bức người nghèo khổ, ép Mị về làm dâu gạt nợ: “ Cho tao đứa con gái
này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” [3; tr.5]. Lợi dụng cơ hội ép A Phủ trở thành
người ở: “Mày khơng có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả
thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà
19


tao. Đời mày, đời con đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”
[6; tr.12]. Thống lí Pá Tra là đại diện cho tầng lớp áp bức thống trị, thần quyền miền núi.
A Sử là một cơng tử nhà giàu, con trai thống lí Pá Tra tính tình ngang ngược và có
tính cậy quyền như cha, ỷ thế mạnh ăn hiếp kẻ yếu: “A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay
lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi: Mày muốn đi chơi à?”
[14; tr.8]. Một câu nói cứ ngỡ là câu hỏi nhưng không, đây không phải là câu hỏi mà là
câu nói như có ý khơng cho Mị đi chơi, như một lời răn đe trước của A Sử.
Qua tác phẩm ta thấy, Tơ Hồi đã sử dụng những từ ngữ sinh động, có chọn lọc. Đặc
biệt là sử dụng từ ngữ đậm chất miền núi làm nổi bật lên nhân vật. Nhà văn đã dùng
những ngơn ngữ bình dân trong lời nói của nhân vật. Từ đó giúp cho người đọc dễ dàng

tiếp cận tác phẩm và hiểu thêm về nhân vât.

3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật
Dường như trong suốt chặn đường tìm lại chính mình nhân vật Mị chẳng nói một
lời nào. Có thể nói, Mị là một người sống nội tâm, chỉ thể hiện qua những dòng suy nghĩ.
Nhân vật Mị được Tơ Hồi xốy sâu từ bên trong nhằm giúp ta khám phá và phát hiện vẻ
đẹp tiềm tàng ở sức sống nội tâm.
Ở đoạn đầu của truyện diễn biến tâm lí của Mị khơng được tác giả miêu tả nhiều
lắm. Diễn biến tâm lí của Mị chỉ thật sự chuyển biến mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân.
Với tác động của yếu tố ngoại cảnh, trước hết là khung cảnh mùa xuân, tiếng chiêng đánh
ầm ĩ của bữa cơm tết, tiếng hát mộc mạc, giản dị. Quan trọng là tiếng sáo gọi bạn tình
trong đêm tình mùa xuân đã làm cho tâm trạng Mị thay đổi một cách bất ngờ và mạnh
mẽ.
Tiếng sáo là chất xúc tác khơi dậy sức sống của Mị. Đầu tiên, tiếng sáo lấp ló từ xa:
“Ngồi đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi” [3; tr.7]. Khi nghe tiếng sáo trong lòng Mị bổng nghe bổi hổi, Mị bắt
đầu nhớ lại lời của bài hát rồi nhẩm theo chứng tỏ sức sống trong Mị đã được gợi lại. Men
rượu đã đưa Mị về với những ngày trước những ngày có thể gọi là tươi đẹp nhất đối với
Mị, đầy sự kiêu hãnh và tự do.
Tiếng sáo cứ thế gót vào lòng Mị biết bao là suy nghĩ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi
người nhảy đồng, người hát, nhưng lịng Mị thì đang sống về những ngày trước. Tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” [17; tr.7]. Đã mấy năm rồi chẳng năm nào A Sử
cho Mị đi chơi, Mị cũng chẳng buồn đi. Nhưng mùa xuân này lại khác, tiếng sáo đã khơi
gợi ham muốn đi chơi của Mị. Mị đã ý thức được mình cịn trẻ và Mị muốn sống lại với
những ngày trước.Thật phủ phàng, một cô gái yêu đời, lúc nào cũng được tự do, vui vẻ
như Mị mà giờ đây cô lại bị trói buộc như thế, đau khổ như thế. Đi chơi là quyền tự do
của mọi người vậy mà Mị cũng khơng có cái quyền ấy.
Từ tiếng sáo của ngoại cảnh giờ đây đã trở thành tiếng sáo nội tâm thâm nhập vào
Mị: “Bây giờ Mị cũng khơng nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị sắp đi chơi”

20


[11; tr.8]. Tiếng sáo thúc giục sức sống tiềm tàng của Mị, tiếng sáo làm nền tảng để sức
sống ấy có thể trổi dậy mạnh mẽ.
Trong lịng Mị giờ đây chẳng cảm nhận được gì ngồi tiếng sáo: “Trong bóng tối,
Mị đứng im lặng, như khơng biết mình đang bị trói. Hơi rượu cịn nồng nàn, Mị vẫn nghe
tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” [22; tr.8]. Trong tiềm thức,
Mị nghe thấy có tiếng hát của những đôi trai gái. Mị nhớ lắm ngày trước, cái ngày chưa
về làm dâu nhà thống lí. Mị đã từng hát như thế, vui vẻ như thế nhưng những ngày tháng
ấy đã kết thúc. Mị giờ đây chỉ là một người ở không hơn, không kém những giây phút ấy
giờ đây chỉ cịn trong hồi tưởng, kí ức. Để rồi trong dòng suy nghĩ Mị bước đi, đi theo
tiếng gọi của lịng mình.
Nhà văn Tơ Hồi đã miêu tả thành công nội tâm của nhân vật Mị khi cho Mị chứng
kiến cảnh A Phủ bị trói đứng rồi thấy những giọt nước mắt của A Phủ rơi xuống hai hõm
má. Để từ đó lịng thương mình, thương người trong Mị trổi dậy. Mị nhớ lại đêm năm
trước: “Nhìn thấy tình cảnh như thế. Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng xuống cổ,
không biết lau đi được” [23; tr.13]. Mị bắt đầu nhận ra sự độc ác của cha con thống lí.
Một khi đã nhận ra sự độc ác của bọn cường quyền chắc chắn con người sẽ đứng lên để
phản kháng và Mị cũng không ngoại lệ. Mị nhớ lại đời mình,nhớ số phận nghiệt ngã của
mình. Mị cảm thấy khơng sợ nữa, mạnh dạn cắt dây cởi trói cho A Phủ sau đó cùng A
Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
Tơ Hồi đã rất thành công khi dùng bút pháp miêu tả nội tâm qua ngoại hình: “Có
việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có một cơ con gái ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi”
[1; tr.4]. Dáng vẻ buồn rầu như chứa đựng nhiều u uất trong lòng Mị.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhà văn không miêu tả về nội tâm của nhân vật
A Phủ, A Sử và thống lí Pá Tra mà chỉ miêu tả nhiều về hành động, qua những hành động

làm tốt lên nhân vật và những gì nhà văn muốn gửi gắm trong nhân vật. Tơ Hồi đã chọn
hai góc nhìn khác nhau để tạo nên hai hình tượng khác nhau. Nếu nhân vật Mị được khắc
họa bằng cái nhìn từ bên trong nội tâm với sức sống tiềm tàng thì A Phủ được tác giả thể
hiện ở cái nhìn bên ngồi qua tính cách và hành động với sự gan dạ và táo bạo của tuổi
trẻ.

3.2.4. Miêu tả hành động nhân vật
Nếu nội tâm là yếu tố tình cảm giúp người đọc cảm nhận được nhân vật thì hành
động chính là yếu tố khơng thể thiếu để tác phẩm có thể thu hút người đọc. Suốt tác
phẩm, đơi lúc Mị âm thầm, chịu đựng nhưng có lúc Mị phản kháng quyết liệt, nhằm mong
thoát khỏi cuộc sống đau khổ kia, cuộc sống của cô con dâu gạt nợ.
Từ những ngày đầu về làm dâu nhà thống lí, Mị đã phản kháng mạnh mẽ: “Có đến
hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hơm, Mị trốn về nhà, hai trịng mắt cịn đỏ
hoe. Trơng thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở” [7; tr.6]. Mị đã có ý định tự tử
21


để không phải chấp nhận số phận con dâu gạt nợ. Dường như Mị đã biết trước số phận
của mình khi về làm dâu nhà thống lí.
Mị dần sống lại khi trong mình đã có hơi men. Mị uống ực từng bát như uống đi cay
đắng những ngày qua, Mị muốn chơn vùi đi cay đắng mà mình đã chịu. Mị muốn tìm về
những ngày trước với những ước mơ tươi trẻ của lứa tuổi đôi mươi. Phút chốc, trong đầu
Mị lóe lên một ước muốn lạ lùng, ước muốn mà bao năm qua, từ khi về nhà thống lí Mị
đã không bao giờ nghĩ đến: “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng Mị đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi
chơi” [27; tr.7]. Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác.
Hành động lại tiếp nối hành động, một lần nữa Mị muốn tự tử khi đã nhận thức
được thực tại cuộc sống. Như người ta thường nói sống trong cái khổ lâu ngày, chịu nhiều
uất ức, dồn nén rồi cũng có ngày nó bùng nổ “tức nước vỡ bờ” thì con người sẽ có những
hành động nhất định. Cịn đối với Mị một con người đã cam chịu bao lâu nay cũng khơng

ngoại lệ: “Bây giờ Mị cũng khơng nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ
thêm vào đĩa đèn cho sáng” [11; tr.8]. Mị thắp sáng lên cuộc đời tăm tối của mình, thắp
lên ngọn lửa lòng của Mị. Mị bắt đầu hàng loạt những hành động: Quấn lại tóc, với tay
lấy cái váy hoa. Mị muốn đi chơi, sắp đi chơi và đang chuẩn bị cho việc đi chơi của mình.
Chuẩn bị cho sự trở về con người thật của Mị.
Dường như không biết mình đang bị trói đứng, Mị đã bước đi, đi trong vô thức như
người mộng du trong đêm tối: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như khơng biết mình
đang bị trói. Hơi rượu cịn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc
chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả phao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt phao
nào…”. Mị vùng bước đi” [22; tr.8]. Mị muốn đi theo tiếng gọi của lịng mình. Nhưng sự
đau đớn ở tay, chân đã đưa Mị về với hiện tại đau khổ.
Trong suốt đêm tình mùa xuân, Mị đã đấu tranh dữ dội để tìm lại chính mình. Hành
động của Mị ngày càng quyết liệt hơn như báo trước rồi sẽ có những cuộc phản kháng
tiếp theo còn hơn thế nữa. Đến đây, ta đã thấy được sự thành cơng của Tơ Hồi khi miêu
tả nhân vật Mị, từ một cô gái bị tê liệt về cảm xúc thì giờ đây Mị đã có những hành động
phản kháng mạnh mẽ.
Sau cái ngày bị trói đứng, Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Mị thản nhiên khi thấy A
Phủ bị trói đứng Mị trở lại với cuộc sống lầm lũi. Khi bắt gặp những giọt nước mắt của A
Phủ: “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa
mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” [21; tr.13]. Lịng
thương mình, thương người của Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra được bản chất tàn độc của cha
con thống lí. Sau đó, Mị đã có một quyết định hết sức táo bạo đó là cắt dây cởi trói cho A
Phủ: “Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng
Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây” [5; tr.14]. Mị đã cởi trói và cứu sống A Phủ đồng thời cũng cứu sống bản thân.
Cắt bỏ sợi dây trói buộc đời mình với nhà thống lí. Mị vụt chạy trong đêm tối, Mị chạy
theo A Phủ dù Mị không biết rồi sẽ đi đâu về đâu. Nhưng Mị biết một điều đi theo A Phủ
Mị sẽ không phải chịu cảnh khổ cực như ở nhà thống lí. Mị chạy theo A Phủ để tìm một
cuộc sống mới, một cuộc sống tươi đẹp hơn.
22



Tơ Hồi đã khắc họa rõ nét hành động của Mị. Hành động tất yếu phải có trong suốt
q trình tự nhận thức của Mị. Qua đó ta thấy, ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một
sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối nguồn trong mát khơng bao giờ
cạn.
Tơ Hồi đã sử dụng hành động để bộc lộ thêm về tính cách của A Phủ. A Phủ là một
mầm sống khỏe mạnh của núi rừng, xuất thân từ núi rừng vì vậy mà A Phủ rất bản lĩnh và
gan dạ. Cũng vì là một người cá tính mà A Phủ có những hành động hết sức táo bạo.
Đầu tiên, A Phủ đã đánh A Sử khi A Sử gây sự trong đêm tình mùa xuân. Hành
động của A Phủ chứng tỏ A Phủ là một người khỏe mạnh và không sợ cường quyền. Bởi
nếu sợ A Phủ đã không đánh A Sử. Dù ở hồn cảnh nào A Phủ cũng khơng sợ. Khi làm
mất bò A Phủ đòi đi bắt hổ để chuộc lỗi với thống lí. Cứ ngỡ con người mạnh mẽ ấy sẽ
khơng bao giờ khóc nhưng khơng A Phủ đã khóc khi bị trói đứng trong đêm mùa đơng:
“Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở,
một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”[21; tr.13]. A Phủ
khơng khóc vì đau đớn mà khóc vì nhận ra sự áp bức của ách thống trị thần quyền, sự cơ
cực của người dân nơi đây. Đồng thời A Phủ cũng cảm thương cho số phận của mình.
A Sử một người tàn bạo, ngang ngược. Bắt ép Mị về làm vợ, trói đứng Mị trong
đêm tình mùa xuân: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả
một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn ln tóc lên
cột, làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiên được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái
thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại” [17; tr.8]. Tơ Hồi
đã miêu tả rất chân thực cách cư xử độc ác của A Sử đối với Mị. Một người chồng chính
nghĩa khơng bao giờ làm vậy với vợ mình. Từ đó ta thấy, A Sử là một người tàn ác, ức
hiếp kẻ yếu.
Cịn thống lí Pá Tra một người nham hiểm, ác độc, lợi dụng cơ hội để bóc lột của
và sức lao động của người dân: “Mày khơng có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở
nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con
trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết

nợ tao mới thôi. A Phủ ! Lại đây nhận tiền quan cho vay” [6; tr.12]. Thống lí Pá Tra là
nhân vật tiêu biểu cho những tên địa chủ ác độc, áp bức và ức hiếp kẻ yếu, là đại diện cho
ách thống trị miền núi.
Tơ Hồi đã xem những hành động như là một điểm nhấn để thu hút ánh nhìn của
độc giả đối với nhân vật của mình. Qua đó, nhà văn cịn tố cáo tội ác của bọn chúa đất,
thực dân cảm thông cho số phận cực khổ, bị áp bức giam hãm trong cuộc sống tăm tối.
Đồng thời, nói lên sự phản kháng của những người lao động để đi tìm cuộc sống tự do.

3.3. Nghệ thuật xây dựng kết cấu
Qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ta thấy Tơ Hồi đã xây dựng kết cấu thời gian
rất chặt chẽ: Đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Đầu tiên Mị xuất hiện ở hiện tại với hình
ảnh một cơ gái lùi lũi, mặt buồn rười rượi: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra
thường trơng thấy có một người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh
23


tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước
dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” [1; tr.4]. Dáng vẻ của Mị đã
phản ánh được số phận của cô, số phận của người dân lao động bị áp bức.
Sau đó, Tơ Hồi đưa Mị trở về với quá khứ tươi đẹp, một cô Mị trẻ trung yêu đời
và có tài thổi sáo: “Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo.
Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” [21; tr.7]. Quá khứ qua đi hiện tại nghiệt ngã lại trở về A
Sử đã trói đứng Mị khi Mị đang chuẩn bị đi chơi nhưng dù trói được thể xác của Mị
nhưng A Sử cũng khơng thể trói được tâm hồn Mị, Mị vẫn đi theo những cuộc chơi, đám
chơi. Một lần nữa tiếng chân ngựa đạp vào vách đã làm Mị thức tỉnh Mị trở về hiện tại
trong hoàn cảnh bị trói đứng.
Đêm mùa đơng đến, khi Mị nhìn thấy những giọt nước mắt của A Phủ thì một lần
nữa Mị hồi tưởng về quá khứ: “Nhìn thấy tình cảnh như thế. Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống

miệng xuống cổ, khơng biết lau đi được” [23; tr.13]. Nhớ lại hoàn cảnh bản thân để rồi Mị
nhận ra được bản chất xấu xa của ách thống trị tàn ác mà tiêu biểu là thống lí Pá Tra. Từ
đó, Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ.
Tơ Hồi đã sử dụng kết cấu thời gian vào tác phẩm của mình một cách tinh tế. Các
sự kiện được sắp xếp và xuất hiện lần lượt. Dù khơng xảy ra ở cùng một hồn cảnh nhưng
kết cấu vẫn liền mạch, không bị đứt quãng. Giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện.

Tơ Hồi đã thành cơng khi xây dựng kết cấu tâm lí nhân vật Mị. Mị là nhân vật
sống bằng nội tâm. Vì vậy mà diễn biến tâm lí của Mị diễn ra mạnh mẽ. Khi mới về thống
lí bắt đầu cuộc sống của con dâu gạt nợ, Mị đã khóc rịng rã như để phản kháng. Mị có ý
định tự tử nhưng rồi lại thơi bởi Mị sống khơng chỉ vì mình mà cịn vì người cha thân u
của mình: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hơm, Mị trốn về nhà,
hai trịng mắt cịn đỏ hoe. Trơng thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất nức nở” [1; tr.6].
Kể từ đó diễn biến của Mị khơng có gì nổi bật. Cho đến khi mùa xuân đến, những yếu tố
ngoại cảnh tác động đến Mị đặc biệt là tiếng sáo đã làm cho diễn biến tâm lí Mị có sự
chuyển biến mạnh mẽ. Trong Mị có những giằng xé, mâu thuẫn giữa hiện tại và quá khứ.
Hiện tại thì quá trớ trêu mà quá khứ thì quá tươi đẹp. Tiếng sáo từ xa đến gần làm cho sức
sống trong Mị trở lại. Bởi sức sống ấy không hề mất đi mà nó chỉ như đang chờ một xúc
tác tác động vào để rồi nó trổi dậy mạnh mẽ. Đêm mùa đơng, diễn biến tâm lí Mị diễn ra
quyết liệt hơn Mị nhận ra được bản chất của mọi việc, ý thức được bản thân và Mị đã giải
thoát cho A Phủ.
Qua việc sử dụng kết cấu tâm lí cho nhân vật, nhà văn đã lột tả được hết sự cam
chịu của người dân nghèo khổ bị áp bức và bộ mặt xấu xa của giai cấp thống trị. Tô Hoài
đã sử dụng kết cấu thời gian đan xen với kết cấu tâm lí nhằm thể hiện hết tâm trạng cũng
như số phận của nhân vật.
Ngoài việc sử dụng kết cấu thời gian, kết cấu tâm lí Tơ Hồi cịn sử dụng kết cấu
theo hai tuyến nhân vật đối lập trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Hai tuyến nhân vật đại
diện cho hai mảng đối kháng của xã hội giữa: Một bên là tầng lớp bị trị, cái thiện, một
24



bên là tầng lớp thống trị, cái ác. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Thống lí Pá Tra và
A Sử là đại diện cho tầng lớp thống trị, áp bức còn Mị và A Phủ là đại diện cho tầng lớp
nơng dân nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Ngồi ra lối kết cấu này cịn đối lập trong cả các
sự kiện, hình ảnh, âm thanh, tình tiết,… Chứ khơng riêng gì nhân vật. Trong truyện cịn
có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại: “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa
được. Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn
đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa” [25; tr8],
tiếng sáo trong q khứ thật hay, hữu tình cịn hiện tại là tiếng chân ngựa đạp vào vách
thô bạo. Hiện thực và quá khứ là hai mặt trái nhau, để soi sáng và tương phản lẫn nhau
giữa một cô Mị vui vẻ, yêu đời và một cô Mị vô cảm, thiếu sức sống.
Kết cấu đối lập là thủ pháp được sử dụng nhiều trong văn học. Tơ Hồi đã sử dụng
sự đối lập này làm nổi bật lên hai tuyến nhân vật, bộc lộ hết tính cách, nhân phẩm và tâm
hồn nhân vật. Phản ánh rõ nét bộ mặt thật của xã hội.

KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
của Tơ Hồi, ta thấy được cuộc sống cơ cực, khổ sở của người dân miền núi Tây Bắc
dưới ách thông trị cường quyền và sự tàn ác, bóc lột của bọn địa chủ thực dân.
25


×