Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

TỔ CHỨC TRẦN THUẬT TRONG TRUYÊN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP (Nhìn từ lí thuyết của V.I.Chiupa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.13 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐINH VĂN ĐỒNG

TỔ CHỨC TRẦN THUẬT
TRONG TRUYÊN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
(Nhìn từ lí thuyết của V.I.Chiupa)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI, NĂM 2014

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐINH VĂN ĐỒNG

TỔ CHỨC TRẦN THUẬT
TRONG TRUYÊN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
(Nhìn từ lí thuyết của V.I.Chiupa)
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS La Khắc Hòa


HÀ NỘI, NĂM 2014

2


Lêi c¶m ¬n
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS La Khắc Hòa - Người
thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong tổ Lí luận văn học,
Khoa Ngữ văn, phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo
điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2014
Tác giả

Đinh Văn Đồng

3


MỤC LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt
Nam những năm sau đổi mới. Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân

tộc nửa sau thập kỉ 80 của thế kỉ XX trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một hiện
tượng văn học lạ, độc đáo, gây nhiều tranh cãi “ hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp”.
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có ý thức cao về sáng tạo, cách viết. Ông
nhận định rõ thiên chức của mình với cuộc đời: “ Nhà văn sinh ra là để kể
chuyện. Kể chuyện hay! Có thế thôi”.
Dường như ông cố tình đi ngược lại tư duy đám đông, không chấp nhận
kết thúc truyền thống, ông bắt người đọc phải nhìn thẳng vào sự thật, ông gạt bỏ
những lớp sơn hào nhoáng mà người ta tô vẽ lên sự thật, đối diện với những gì
vừa tàn nhẫn, vừa phi lí: ở hiền thì gặp chuyện bất trắc, đi tìm điều thiện thì gặp
toàn cái ác, đi tìm cái đẹp thì gặp cái xấu xa, bỉ ổi…cũng chính vì lẽ đó ông là
hiện tượng văn chương gây nhiều tranh cãi nhất kể từ sau 1975 đến nay.
Nguyễn Huy Thiệp viết ở khá nhiều lĩnh vực: kịch bản văn học, phê
bình văn học, tiểu thuyết, nhưng mảng sáng tác nổi bật và thành công hơn cả
là truyện ngắn. Nhận xét về phong cách truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,
các nhà phê bình, nghiên cứu từ trước tới nay thường tập trung nhiều vào việc
xem xét những yếu tố khác nhau của nghệ thuật tự sự như: giọng điệu trần
thuật, ngôn ngữ, cách kể chuyện, vị trí của người kể, bút pháp, nghệ thuật xây
dựng nhân vật…
Đối với một tác phẩm tự sự, tổ chức trần thuật là một yếu tố vô cùng
quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm và
làm nên thành công của tác phẩm. Với nghệ thuật trần thuật đa dạng nhằm tạo
ra sự đa chiều về điểm nhìn nghệ thuật, sử dụng các thủ pháp kĩ thuật kể độc
đáo, giáu sáng tạo. Giọng văn lạnh lùng nhưng ẩn chứa trong đó là lòng nhân
ái, lời văn dù chua chát nhưng không gây cho chúng ta sự tuyệt vọng, mất

5


niềm tin vào cuộc sống, mà trái lại gợi được bao nỗi xót xa với người xung
quanh.Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không ngừng suy tư về con người, về

cuộc sống, xoáy sâu vào đời sống nội tâm của con người.
Cho đến nay những cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp vẫn chưa dừng
lại, có người thì ca ngợi, có người thì muốn bỏ tù ông về tội “ hạ bệ thần tượng”,
“ xuyên tạc lịch sử”. Cho dù có nhiều quan điểm trái chiều, nhưng có
một sự thật chúng ta không thể phủ nhận, điều đáng quý nhất ở Nguyễn Huy
Thiệp là lòng dũng cảm, dám thìn thẳng vào sự thật, nói lên những điều mắt
thấy tai nghe. Mặc cho người đời khen chê, Nguyễn Huy Thiệp vẫn tỏa sáng
trên văn đàn Việt Nam như một tên tuổi lớn.
Nghiên cứu về tổ chức trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tôi với mong muốn có được cái nhìn mới mẻ về người trần thuật
trong truyện ngắn của ông. Hi vọng rằng, luận văn có thể góp một phần nhỏ
trong quá trình nghiên cứu chung về Nguyễn Huy Thiệp, để thấy được đóng
góp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi mới truyện ngắn
cũng như góp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong nền văn học đương đại.
2. Lịch sử vấn đề:
Trong quá trình khảo sát về Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đã tiếp xúc
với rất nhiều bài viết ở nhiều thể loại khác nhau, bộc lộ nhiều quan điểm và
suy nghĩ khác nhau: ca ngợi không ít mà chê trách cũng nhiều, nhưng tựu
chung lại vẫn phải thừa nhận: Nguyễn Huy Thiệp được coi như hiện tượng
văn học của thời kì hậu hiện đại. Với cách viết mới mẻ và quan điểm khác lạ
so cái nhìn truyền thống về văn học. Nguyễn Huy Thiệp đã ném ra hàng loạt
những tác phẩm làm người đọc sửng sốt, với nhiều quan điểm khác nhau. Tuy
nhiên có một điều không thể phủ nhận đó là tài năng của ông.Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp đã đề cập về nhiều phương diện, đời sống, suy tư, văn học
nghệ thuật, triết lý, thân phận con người… đặt ra rất nhiều câu hỏi cho người
đọc phải trăn trở về con người, về cuộc sống. Và dưới đây là những bài viết,
nghiên cứu tiêu biểu về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp:
6



Về sau các nhà nghiên cứu trên cơ sở khảo sát hàng loạt các truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng đã có bài viết liên quan đến tổ chức trần
thuật. Đó là (Tổ chức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - Phùng
Gia Thế ); người kể chuyện với cái nhìn dân chủ hóa (Hình thức đa thanh mới
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp - Châu Minh Hùng); giọng điệu
riêng và thái độ khách quan của người kể chuyện (Những dấu hiệu của chủ
nghĩa Hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hoài- La Khắc Hòa); những đúc rút về đặc điểm cơ bản
nhất của nghệ thuật kể chuyện xưng “ tôi” ở truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp (Vấn đề kể chuyện trong truyện ngắn đương đại (Một khía cạnh thi
pháp thể loại)- Bùi Việt Thắng); các kiểu người kể chuyện trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp (Một số nguyên tác tự sự của Nguyễn Huy Thiệp
trong truyện ngắn - Nguyễn Mạnh Hà); (Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp Hậu hiện đại – Cao Kim Lan). Và
gần đây nhất là luận văn “Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp” của Phạm Thị Thùy Trang – Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
năm 2009; Luận văn “Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp” của Bùi Thị Đức Thiện – Đại học khoa học xã hội & nhân văn năm
2012. Bên cạnh đó còn phải kể đến rất nhiều thành quả trong các công trình
khóa luận tốt nghiệp về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mà chúng tôi
chưa có dịp thống kê.
Có thể nhận thấy, các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp trên đây đã đi vào
khảo sát hình tượng người kể chuyện có phần sâu sắc, khái quát và dựa trên
nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên đó chỉ là những ý kiến của
các tác giả và khá ngắn gọn, khái lược. Nhìn chung, những nhận xét này cũng
chỉ phần nào bổ sung thêm những cho những quan điểm trước đó về người kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chứ chưa thực sự mang lại một

7



cách nhìn toàn vẹn, đầy đủ. Các ý kiến và luận văn trên nhìn dưới lí thuyết
của G.Genette.
Trên cơ sở tiếp thu những bài viết có liên quan đến sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu Tổ chức trần
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và phát triển ý tưởng đó thành
một luận văn nghiên cứu khoa học đem đến sự khác biệt đó là “ Nhìn từ lí
thuyết của V.I. Chiupa”.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu.
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu cho luận văn là “Tổ chức trần
thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”.
- Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi tập trung khảo sát khoảng 50 truyện ngắn, trong đó tập trung ở
một số truyện ngắn tiêu biểu của ông trong cuốn “Tuyển truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp” do Nhà xuất bản trẻ, tái bản lần thứ nhất, xuất bản năm 2013.
- Mục đích nghiên cứu:
Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn đem lại cái nhìn mới, có tính
khái quát và khoa học về tổ chức trần thuật trong hệ thống truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp.Qua đó góp phần khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo
độc đáo cũng như những đóng góp của ông trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
Phương pháp lịch sử.
Phương pháp loại hình.
Phương pháp hệ thống và một số thao tác: phân tích, tổng hợp, so
sánh…
8



5. Đóng góp của luận văn.
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi hi vọng mang đến một cái nhìn
mới, chi tiết hơn về tổ chức trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn. Qua đó,
thấy được vai trò quan trọng của nhân tố này trong việc định hướng cách thức
tổ chức trần thuật trong tác phẩm cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu ở từng
loại hình người kể chuyện. Bên cạnh đó góp phần khẳng định sự thành công
của nhà văn trong quá trình lao động nghệ thuật, thấy được sự độc đáo trong
trần thuật truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo cấu trúc luận văn bao gồm 03 chương:
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Chiến lược trần thuật và người kể chuyện
1.1 Khái niệm trần thuật.
1.1.1

Chiến lược trần thuật.

1.1.2

Diễn ngôn trần thuật.

1.1.2.1

Lí thuyết diễn ngôn.

1.1.2.2

Diễn ngôn trần thuật.


1.2 Người kể chuyện trong truyện ngắn.
1.2.1

Người kể chuyện.

1.2.1.1

Khái niệm.

1.2.1.2

Vai trò của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự.

1.2.2

Các dạng người kể chuyện.
Chương II: Hệ thống nhân vật và bức tranh thế giới trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.1 Hệ thống nhân vật và bức tranh thế giới chi phối nghệ thuật trần
thuật trong tác phẩm tự sự.
2.2 Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
9


2.2.1 Nhân vật văn học.
2.2.2 Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.2.2.1 Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất đa dạng về
lứa tuoir, nghề nghiệp và môi trường sống.
2.2.2.2 Nhân vật hèn mạt, đê tiện, thực dụng trong cuộc sống hiện đại.

2.2.2.3 Nhân vật cô đơn lạc loài, lỗi nhịp thời gian giữa cuộc sống.
2.2.2.4 Nhân vật lưỡng phân, đa diện.
2.3 Bức tranh thế giới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.3.1 Bức tranh thế giới qua không gian sinh hoạt.
2.3.2 Bức tranh thế giới phân mảnh.
2.3.3 Bức tranh thế giới suy thế, mạt vận.
Chương III: Tổ chức lớp, cảnh, đoạn trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
3.1 Cách tổ chức lớp, cảnh, đoạn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
3.2 Ý nghĩa của việc tổ chức lớp, cảnh, đoạn đối với nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
PHẦN KẾT LUẬN

10


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CHIẾN LƯỢC TRẦN THUẬT
VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN.
1.1 Khái niệm trần thuật.
Trần thuật là một phương diện cơ bản của tự sự, chi phối mạnh mẽ
mạch vận động của tác phẩm cùng bố cục, kết cấu tác phẩm, cho ta nhìn thấy
vị trí, góc nhìn của người trần thuật và mọi diễn biến tâm lý, hành động nhân
vật, diễn biến cốt truyện thì trần thuật được coi là vấn đề trung tâm.
Trần thuật là một kết cấu đẳng lập chỉ hành động kể, nó liên quan mật
thiết đến người kể chuyện/người trần thuật, thuộc về kỹ xảo trần thuật/kể chuyện
trên bậc diễn ngôn (discourse) trong văn bản văn học, là một quá trình giao lưu
mà nội dung trần thuật với tư cách là thông tin được người phát ra thông tin
(addresser) truyền đến cho người tiếp nhận thông tin (addressee). Trần thuật có
thể kể về sự kiện, sự tình chân thực, cũng có thể kể về sự tình hư cấu.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên thì: “trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của
phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với
nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần
thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích
hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…
Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý
của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng
tạo của tác giả” [18].
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “ở tác phẩm
văn học tự sự, trần thuật là thành phần của lời tác giả, của người trần thuật hoặc
của người kể chuyện,tức là toàn bộ văn bản của tác phẩm tự sự ngoại trừ các lời
nói trực tiếp của các nhân vật ...”, “nó (trần thuật ) bao gồm việc kể, miêu tả các

11


hành động và các biến cố thời gian; mô tả chân dung; hoàn cảnh hành động; tả
ngoại cảnh, nội thất ... bàn luận; lời nói bán trực tiếp của nhân vật. Do vậy trần
thuật là phương thức chủ yếu của tác phẩm tự sự” [1,tr.338]
Sách Lý luận văn học do Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân
Nam biên soạn cũng viết: “Thành phần của trần thuật trước hết ứng với cốt
truyện ... còn bao gồm cả các tính chất tĩnh tại như đoạn giới thiệu lai lịch
(tiểu sử) nhân vật, trình bày tình trạng hiện tại, miêu tả chân dung, ngoại
cảnh, tả đồ vật, môi trường, tái hiện tâm trạng, hồi tưởng, các đoạn đối thoại
có tính chất kịch, các đoạn độc thoại, những lời bình luận của tác giả bám sát
theo hành động của nhân vật ”[36,tr.110]
G. Genette cho rằng, thực chất, trần thuật là “hành vi sản sinh tác phẩm
trần thuật” mà nếu thiếu đi thì sẽ không thể có phát ngôn trần thuật, thậm chí,
không thể có nội dung trần thuật” - G. Genette.- Tài liệu đã dẫn, tr. 63 -64.

Nhắc đến trần thuật thì chúng ta luôn nhắc đến kết cấu của nó, trần
thuật trở nên có hệ thống nhờ có kết cấu. Kết cấu của trần thuật là sự liên kết
chặt chẽ, hệ thống các yếu tố làm nên tác phẩm như sự lựa chọn đề tài, nghệ
thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật, những vấn đề về thể loại và tổ
chức lời văn nghệ thuật ... bao hàm cả nghệ thuật lựa chọn ngôi trần thuật,
cách lựa chọn điểm nhìn trong không gian, thời gian, đặc trưng phản ánh...
tạo nên sự cảm nhận riêng, độc đáo, không lặp lại của nhà văn về con người
và thế giới. Mỗi một thể loại riêng, chọn cho mình một cách trần thuật phù
hợp để chuyển tải nội dung trần thuật.
Từ các ý kiến trên, có thể đi đến kết luận về trần thuật là vấn đề số một
của tự sự. Không có trần thuật nghĩa là không có nội dung trần thuật, đồng
nghĩa với việc không có văn bản trần thuật. Việc nghiên cứu trần thuật là một
vấn đề vô cùng quan trọng với việc nghiên cứu tự sự học.
1.1.1 Chiến lược trần thuật.

12


Muốn phác hoạ phạm vi thể loại trong nghiên cứu trần thuật học, chúng
ta phải dựa vào các chiến lược giao tiếp cơ bản của diễn ngôn trần thuật,
những chiến lược này là cơ sở tạo nên sự đa dạng thể loại không chỉ riêng đối
với văn học nghệ thuật. Chiến lược trần thuật là một khái niệm của V.I.
Chiupa để nói đến tổng hòa tất cả những nghệ thuật trần thuật như một chiến
lược nhằm tạo hiệu quả tốt nhất cho quá trình trần thuật. Chiến lược trần thuật
phải được hiểu là chiến lược của giao tiếp, trong đó diễn ngôn trần thuật đóng
vai trò rất quan trọng. Không phải ngẫu nhiên mà khi nghiên cứu về tự sự học
Bakhtin lại đề cập đến vai trò quan trọng của “các thể loại lời nói”. Lời hay
phát ngôn là một trong những chiến lược để thể hiện tác phẩm: “Phát ngôn
nào cũng có đặc điểm do thẩm quyền tiếp nhận của một thể loại tương ứng
quyết định: có địa chỉ riêng mang tính chiến lược. Địa chỉ ấy chính là một lập

trường nào đó được qui cho ý thức tiếp nhận của người cùng tham gia vào sự
kiện giao tiếp. Thẩm quyền của người tiếp nhận do thể loại yêu cầu quyết
định lập trường nói trên. Người nghe (người đọc) thực tế có thể không có lập
trường đã được chuẩn bị sẵn cho anh ta, nhưng khi đó, việc tham gia giao tiếp
của anh ta sẽ không phù hợp với diễn ngôn mà có khả năng sẽ không thể thực
hiện”[8]. Chính vì vậy, mà khi đi tìm hiểu chiến lược trần thuật của bất kì một
nhà văn hay của một hệ thống các tác phẩm, thì điều cần thiết đó là chúng ta
đi vào phân tích diễn ngôn trần thuật được thể hiện trên văn bản.
1.1.2 Diễn ngôn trần thuật.
1.1.2.1

Lý thuyết diễn ngôn.
Khái niệm diễn ngôn trở thành thuật ngữ khi người ta phát hiện thấy
ngôn ngữ học cấu trúc của F. de Sausure, đem đối lập ngôn ngữ với lời nói, và
ngôn ngữ học chỉ nghiên cứu ngôn ngữ, tức là hệ thống các nguyên tắc chi
phối việc sử dụng ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Lời nói thuộc
phạm vi cá nhân không thuộc đối tượng nghiên cứu của ngữ học. Một số nhà
13


ngữ học thấy không thể không nghiên cứu văn bản, diễn ngôn (ngôn bản) như
là những đơn vị biểu đạt trên câu tồn tại trong thực tiễn đời sống. Và diễn
ngôn được đề xuất như là đối tượng mới của ngữ văn học.
Sau phát hiện đó của F. de Sausure, thì M. Bakhtin đề xuất một hướng
mới cho việc nghiên cứu diễn ngôn. Hướng này xuất hiện khi thấy hạn chế
của ngữ học Saussure, đồng thời cũng thấy hạn chế của các nhà lí luận thuộc
phái hình thức chủ nghĩa không thừa nhận mối quan hệ văn học với ý thức hệ
xã hội. Ông là người đề xuất hướng nghiên cứu “siêu ngôn ngữ học”, tức là
nghiên cứu sự phát ngôn, lời nói, văn bản, đối lập với Saussure, đồng thời ông
cũng phản đối lối nghiên cứu ngôn từ tách khỏi đời sống xã hội và ý thức hệ.

Nhưng cuối cùng, diễn ngôn thực sự được hiểu rộng hơn với lý thuyết
diễn ngôn của M. Foucault. M. Foucault đã đưa ra ba đặc điểm chính của diễn
ngôn như sau:
Một là, diễn ngôn biểu hiện ra bề ngoài thành hình thức ngôn ngữ,
nhưng nó không phải là ngôn ngữ thuần tuý, mà là một phương thức biểu đạt
của tư tưởng và lịch sử. Một mặt diễn ngôn do thực tiễn tạo thành, mặt khác,
diễn ngôn lại ảnh hưởng đến thực tế diễn ngôn, thực tiến diễn ngôn cũng làm
thay đổi diễn ngôn. Diễn ngôn không phải là công cụ, không phải hình thức
ngôn ngữ, mà là bản thân thực tiến được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ.
Hai là, diễn ngôn có tính chất chỉnh thể, “thuật ngữ diễn ngôn có thể xác
định là một chỉnh thể trần thuật hình thành hệ thống đồng nhất”. Diễn ngôn không
phải là sự phơi bày của một chủ thể tư duy, nhận thức và sử dụng diễn ngôn để
trình bày một cách trang nghiêm, mà là một tổng thể được xác định do sự khuếch
tán của chủ thể và tính không liên tục của nó trong đó. Diễn ngôn là không gian
ngoại tại, trong đó triển khai một mạng lưới ở các vị trí khác nhau”. Phạm vi của
sự kiện diễn ngôn truớc sau là hữu hạn, hiện thời do các đoạn ngữ nghĩa hợp
thành chỉnh thể hữu hạn, đoạn ngữ nghĩa có thể vô số, nhưng là chỉnh thể hữu
hạn.

14


Ba là, diễn ngôn không phải là cái hình thành một cách tự nhiên, mà
trước sau là kết quả của một sự kiến tạo. Với quan niệm của ông thì một diễn
ngôn hình thành, thay thế một diễn ngôn khác không có nghĩa là một chỉnh
thể lựa chọn lí luận hoàn toàn mới mẻ về đối tượng, trần thuật, khái niệm, đột
nhiên được trang bị hoàn thiện, tổ chức tốt đẹp, xuất hiện trong một văn bản,
văn bản đó làm một sự sắp xếp ngon lành… mà có nghĩa là một sự thay đổi
về quan hệ sẽ nảy sinh, nhưng sự thay đổi đó không có nghĩa là thay đổi toàn
bộ mọi thành phần, cũng tức là nói, trần thuật phục tùng một số quy luật hình

thành mới, không có nghĩa là tất cả đối tượng hoặc khái niệm tất cả trần thuật
hoặc tất cả lí luận đều biến mất.
Có thể nói khẳng định sau đây của ông đã nói đầy đủ về những điều
trên về diễn ngôn: “Tôi cho rằng, trong bất cứ xã hội nào, việc sản xuất ra
diễn ngôn đều phải kinh qua kiểm soát, lựa chọn, tổ chức, và phải được cân
nhắc qua trình tự nhiều lần nhằm trung lập hóa sự toàn trị của quyền lực và
các mối nguy hiểm gắn liền với nó, thức tỉnh những điều chưa dự kiến trước
về sự kiện phát ngôn, nhằm tránh tính vật chất của quyền lực ấy và sự uy hiếp
ấy.” – M. Foucault.
Ngoài ra ta còn có thể có những cách hiểu linh hoạt về diễn ngôn trong
bằng các định nghĩa sau trong cuốn Lí thuyết hiện đại về diễn ngôn như sau:
Teun A Van Dijk thì nhấn mạnh diễn ngôn như sự kiện giao tiếp có
ngữ cảnh: “Diễn ngôn là sự kiện giao tiếp giữa người nói và người nghe
(người quan sát…), trong quá trình hành động giao tiếp trong ngữ cảnh không
gian thời gian nhất định.”
P. Riceau thì cho rằng nhắc đến thuộc tính diễn ngôn trên văn bản: “Tôi
cho rằng, nói một cái gì về cái gì đố là thuộc tính của diễn ngôn và đó cũng là
thuộc tính của văn bản với tư cách là chuỗi câu”.
Louis Maren và Jakob Torfing đều nhắc đến diễn ngôn ở khía cạnh quyền
lực của nó: “Diễn ngôn là kết quả của thao tác có tính chất quyền năng, nhằm
xác lập địa vị đứng đầu về chính trị, đạo đức trí tuệ trong xã hội.” – Jakob

15


Torfing; “Diễn ngôn là hình thức tồn tại của một cái tưởng tượng, gắn liền với
sức mạnh của cái tưởng tượng, mà tên của nó là quyền lực.” – Louis Maren.
Ju. Kristeva đề cập đến diễn ngôn với nguyên tắc đối thoại: “Tính đối
thoại được sinh ra từ bản chất bề sâu của cấu trúc diễn ngôn. Tính đối thoại là
nguyên tắc của bất cứ phát ngôn nào.”

Khái niệm diễn ngôn này của Phillipp Beneton đã cho thấy phần hàm
ẩn trong diễn ngôn chi phối văn bản: “Bất kì văn bản hay lời nói đều mang
một nội dung, đồng thời cũng mang một hành động. Nói bao giờ cũng có
nghĩa là thực hiện. Nhà tư tưởng nói một điều gì, đông thời cũng thực hiện
một hành động gì. Diễn ngôn hay hành động diễn ngôn có thể phù hợp nhau
hay không… Khi tôi nói bằng ám thị hay là điều gì bằng ám thị thì không phù
hợp với lời nói: ý nghĩa có dụng ý được che giấu trong diễn ngôn, hành động
diễn ngôn cho thấy điều đó.”
Diễn ngôn là một khái niệm được dùng trong lịch sử, văn hóa, sinh hoạt
giao tiếp… và nó được nghiên cứu như là kết quả của chiến lược trần thuật
trong văn bản văn học. Nó được nhận xét bằng chuỗi câu văn bản gắn liền với
các phát ngôn có hiệu lực. Trong giới hạn luận văn này, người viết chỉ đề cập
khái lược về diễn ngôn như là bước đệm làm rõ diễn ngôn trần thuật chi phối
1.1.2.2

đến việc xây dựng tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Diễn ngôn trần thuật.
Lý thuyết tự sự học quan niệm diễn ngôn trần thuật là văn bản được tạo
ra bởi hành động kể dưới dạng truyền miệng hoặc viết. Theo đó, một văn bản
trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người kể
chuyện và diễn ngôn của nhân vật. Nói như Dolezel thì “Mỗi văn bản trần
thuật là sự móc nối và luân phiên giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn
ngôn của nhân vật”.
Các lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu về diễn ngôn và các quy định
của chúng có quan hệ với chủ nghĩa phê phán hình thức chủ nghĩa. Các lý
thuyết này cố gắng nhận dạng các xu hướng hay mức độ khác nhau trong
16


tiếng nói (phương thức thể hiện) của một văn bản: không còn, hay không chỉ

có tiếng nói của tác giả được phân tích, mà còn một số mặt nạ hư cấu của
nhân vật làm trung gian cho tiếng nói của tác giả với tính cách nhân vật. Các
lý thuyết như vậy phân biệt tác giả có tính lịch sử với người trần thuật và tác
giả ngầm. Chủ nghĩa thực dụng về trần thuật cũng có thể tập trung vào các
đặc trưng diễn ngôn của trần thuật hư cấu và phi hư cấu. Các hình ảnh tu từ
loại biệt của mỗi phương thức văn bản giúp xác định phong cách văn bản.
Trần thuật hư cấu là một hoạt động diễn ngôn bậc hai (hay hành động
lời nói phức hợp) mà sự lĩnh hội đòi hỏi sự lĩnh hội các tình huống nguyên sơ
hay theo đúng nguyên văn mà từ nó xuất phát. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
của diễn ngôn thực sự không thể không phải là dựa trên cơ sở một ngữ pháp
văn bản và chắc chắn đạt được những kết quả ít rõ ràng hơn, mà còn phải dựa
vào điều kiện và ngữ cảnh của nó nữa. Tiểu thuyết rõ ràng là một loại hành
động lời nói, song tính loại biệt cần phải được được giải thích bằng một loại
lý thuyết diễn ngôn quan tâm đến các điều kiện và và bối cảnh thực tế trong
đó thiên tiểu thuyết được viết.
Trong cuốn Diễn ngôn trần thuật xuất bản năm 1972, Gérard Genette
viết rằng, trần thuật “có thể tồn tại vì nó kể một câu chuyện nào đó mà nếu
không có thì diễn ngôn sẽ không còn là diễn ngôn trần thuật… Với tư cách
trần thuật, sự trần thuật tồn tại nhờ mối liên hệ với câu chuyện được triển khai
trong đó (sự kiện được thuật lại), với tư cách diễn ngôn (sự kiện kể chuyện),
nó tồn tại nhờ mối liên hệ với sự trần thuật đã tạo ra diễn ngôn ấy”
Trong bài nghiên cứu Trần thuật học như là khoa học phân tích diễn
ngôn trần thuật của V.I. Chiupa thì tác giả cũng đã nhắc đến tính sự kiện kép
của trần thuật khi xem phát ngôn – tức diễn ngôn là phương thức kiến tạo văn
bản: “ có hai sự kiện: sự kiện được kể lại trong tác phẩm và sự kiện của bản thân
việc kể chuyện (chính chúng ta tham gia vào loại sự kiện thứ hai này như những

17



thính giả - độc giả); các sự kiện này diễn ra ở những thời điểm khác nhau (khác
nhau cả về độ dài) và ở những địa điểm khác nhau, nhưng đồng thời, chúng liên
kết chặt chẽ thành một sự kiện duy nhất, phức tạp mà chúng ta gọi là tác phẩm
với tất cả sự toàn vẹn mang tính sự kiện của của nó”[8]. Nói cách khác diễn
ngôn trần thuật quan tâm đến hai vấn đề cơ bản nhất, đó chính là câu chuyện
được kể và cách thức câu chuyện được kể. Sự kết hợp giữa nội dung kể và tư
cách diễn ngôn khi kể sẽ tạo thành diễn ngôn trần thuật.
Ngoài ra cũng trong bài viết nghiên cứu này, V.I. Chiupa đã lưu ý đến
sự phân biệt giữa diễn ngôn trần thuật sự kiện kép với các phát ngôn có sự
kiện: “Tính trần thuật là một trong những phương thức tu từ phổ quát, muốn
minh định bản chất của nó, cần chỉ ra các hiện tượng giáp ranh với nó, tức là
những phương thức phát ngôn khác (phương thức kiến tạo văn bản). Một mặt,
cần phân biệt diễn ngôn trần thuật sự kiện kép với những phát ngôn mà ở đó
tính sự kiện của đối tượng được tham chiếu bị giảm thiểu. Mặt khác, các văn
bản mà nội dung đối tượng được tham chiếu của chúng không có được vị thế
của sự kiện trong hành vi của ý đồ diễn ngôn cũng không nằm trong phạm vi
đối tượng của trần thuật học” [8]. Nói như vậy để phân biệt rằng, không phải
phát ngôn nào cũng được xem là diễn ngôn trần thuật nếu nó không nhằm
phục vụ ý đồ diễn ngôn ban đầu của tác giả.
Diễn ngôn trần thuật còn được phân biệt nhờ mục đích hướng đến của
nó để xem đó là diễn ngôn lý thuyết hay diễn ngôn đồng nhất. Phương pháp
“lặp” cũng được xem là một phương thức để đạt được kết quả dẫn đến mục
đích của diễn ngôn. Từ phương thức “lặp” người trần thuật có thể thể hiện
những suy ngẫm có tính chất khái quát. Bên cạnh loại trần thuật sự kiện “đơn
nhất ”, diễn ngôn trần thuật có thể dung nạp cả trần thuật “lặp ” , cũng như
các hình thức hành ngôn của siêu trần thuật tự tham chiếu.

18



Cũng trong chuyên đề về trần thuật học, V.I. Chiupa đã phân chia các vị
thế giao tiếp, cái mà được thông báo trong diễn ngôn trần thuật bao gồm: “1. tri
thức, 2. tín niệm, 3. ý kiến, hoặc 4. sự thông hiểu- một trong số các vị thế ấy sẽ
quyết định thẩm quyền sáng tạo của trần thuật. Mỗi vị thế của nội dung tham
chiếu vừa liệt kê sẽ được phát triển bằng một thể loại tương ứng với tư cách là
hạt nhân cố định nào đó của lập trường tác giả, nhân tố tổ chức văn bản và đòi
hỏi có một hành vi giao tiếp đặc biệt (mặt nạ lời nói) để thể hiện bản thân từ phía
người trần thuật. Chính điều này cho phép ta nói về những loại tu từ học khác
nhau của các dạng phát ngôn đang được khảo sát.” Điều này, sẽ giúp chúng ta
định hình được việc vì sao tác giả lại chọn hình thức thể loại này để trần thuật
mà không phải là hình thức thể loại khác. Mặt khác, với một văn bản đã định
hình tính thể loại của nó, khi ta đi phân tích diễn ngôn trần thuật chúng ta cũng
sẽ căn cứ vào những vị thế giao tiếp ở trên để hiểu rõ được lập trường của tác giả
cũng như mục đích giao tiếp của diễn ngôn. Tất nhiên sẽ có sự qua lại giữa lập
trường của tác giả với diễn ngôn trần thuật và lập trường của người nghe và
người đọc trong khi tiếp cận văn bản bởi vì: “Phát ngôn nào cũng có đặc điểm
do thẩm quyền tiếp nhận của một thể loại tương ứng quyết định: có địa chỉ riêng
mang tính chiến lược. Địa chỉ ấy chính là một lập trường nào đó được qui cho ý
thức tiếp nhận của người cùng tham gia vào sự kiện giao tiếp. Thẩm quyền của
người tiếp nhận do thể loại yêu cầu quyết định lập trường nói trên. Người nghe
(người đọc) thực tế có thể không có lập trường đã được chuẩn bị sẵn cho anh ta,
nhưng khi đó, việc tham gia giao tiếp của anh ta sẽ không phù hợp với diễn ngôn
mà có khả năng sẽ không thể thực hiện” [8].
Với những hiểu biết về diễn ngôn trần thuật cũng như sự áp dụng của
nó với thực tế nghiên cứu văn bản văn học, tác giả luận văn chỉ muốn góp
nhặt những điều mới mẻ và những cơ yếu nhất lý thuyết trần thuật học của

19



V.I. Chiupa để không bị lạc lối trong việc nghiên cứu một hiện tượng trần
thuật mới mẻ như Nguyễn Huy Thiệp.
1.2 Người kể chuyện trong truyện ngắn.
Như chúng ta biết, điều làm nên chiều sâu của tác phẩm là ở tính tư
tưởng của nó, nhưng tác phẩm đó có say mê hấp dẫn người đọc hay không lại
là ở cách họ kể câu chuyện đó như thế nào. Một tác phẩm nội dung không
được sâu sắc hay quá xoàng, sao vẫn được độc giả đón nhận hồ hởi, ngấu
nghiến đọc, bởi chăng họ bị cuốn vào cách kể. Viết văn suy cho cùng là tìm
cho mình một cách kể mới mẻ. không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Thiệp
lại cho rằng: “Nhà văn sinh ra là để kể chuyện. Kể chuyện hay! Có thế thôi”.
Khi bước vào đánh giá một tác giả văn học hay giá trị của một tác phẩm văn
học, người ta không chỉ quan tâm đến tác phẩm đó viết về cái gì, mà cao hơn
nữa, phải đánh giá được tác phẩm đó được viết như thế nào. Cách kể chuyện
góp phần thể hiện phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn. Cách kể chuyện
thể hiện qua rất nhiều phương diện khác nhau trong đó tổ chức điểm nhìn trần
thuật là phương diện cơ bản. Và tất nhiên, đóng vai trò quan trọng làm nên
thành công đó chính là người kể chuyện hay còn gọi là người trần thuật trong
tác phẩm tự sự.
1.2.1 Người kể chuyện.
1.2.1.1 Khái niệm
Nhắc đến tác phẩm tự sự là nhắc đến cốt truyện, kết cấu, tình tiết,
người kể chuyện…trong đó người kể chuyện có vai trò không thể thiếu trong
cấu trúc tự sự. Tự sự học cũng đã dành khá nhiều quan tâm cho vai trò của
người trần thuật / kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Người kể chuyện là một
thuật ngữ công cụ của tự sự học, được xem là khái niệm trung tâm nhất trong
phân tích trần thuật. Người kể chuyện chính là chủ thể của những lời kể về
câu chuyện nào đó trong tác phẩm văn học. Chủ thể đó dẫn dắt, gợi mở hay

20



sắp đặt câu chuyện được kể, là người kể lại câu chuyện trong tác phẩm bằng
một chỗ đứng một điểm nhìn phù hợp, với ý đồ sáng tạo của nhà văn. Chính
vì vậy mà người ta gọi họ là “kẻ được sáng tạo để mang lời kể”.
Tác phẩm tự sự từ đầu đến cuối là do tác giả viết, nhưng lại dưới cách
kể của một người khác đó chính là người kể chuyện. Ở một khía cạnh cụ thể
nào đó, người kể chuyện vừa là sáng tạo của nhà văn, vừa là phương tiện để
nhà văn gửi gắm tiếng nói của mình. Có nhiều tên gọi khác nhau cho người kể
trong tác phẩm tự sự như: người kể chuyện, người trần thuật, chủ thể trần
thuật, chủ thể kể… Vậy thế nào là người kể chuyện trong tác phẩm tự sự,
chúng ta có thể hiểu thêm điều này qua các định nghĩa, đúng hơn là những
khái niệm sau về người kể chuyện.
Trong cuốn 150 từ điển thuật ngữ văn học, 2004, Nxb ĐHQG HN, tác
giả Lại Nguyên Ân định nghĩa như sau: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi
một người, được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được
miêu tả và thính giả (độc giả) loại người chứng kiến và giải thích những gì đã
xảy ra” [1,tr.360].
Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (chủ biên), 2004, NXB GD, HN định nghĩa về người kể chuyện: “Người trần
thuật là một nhân vật hư cấu hay có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn
ngữ của anh ta tạo ra…”; “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần
thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi câu chuyện được kể bởi một
nhân vật cụ thể nào trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, dĩ
nhiên không đồng nhất với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do
tác giả sáng tạo ra, có thể là một người biết câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có
thể có một hoặc nhiều người kể chuyện”[18, tr.211, 212].
Không đồng nhất tác giả với người kể chuyện điều này cũng đã được
Lê Ngọc Trà nhấn mạnh: “Người kể chuyện và tác giả không phải là một.
Không nên đồng nhất người kể chuyện với tác giả, ngay cả khi tác giả xưng
21



“tôi” đứng ra trần thuật câu chuyện, và hoàn toàn đứng ngoài sự vận động của
các sự kiện các tình tiết” [64, tr.153]. Tác giả Lê Ngọc Trà cũng quan niệm
môt cách rõ ràng rằng, người kể chuyện chính là người đứng ra kể câu chuyện
trong tác phẩm tự sự: “Người kể chuyện là thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò
chủ thể của người kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học”
[64, tr.153]
Thái Phan Vàng Anh trong bài viết Người kể chuyện với Điểm nhìn bên
trong đã nhận xét về vị trí này của người kể chuyện trong sự đối sánh với tác
giả: “Trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện được kể như thế nào
bao giờ cũng quan trọng hơn ai là người viết nên truyện kể ấy. “Điểm nhìn” trở
thành cơ sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể
mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể
và không có vai trò đáng kể trong việc tổ chức truyện. Điểm nhìn và người kể
chuyện trở thành hai phương diện không thể tách rời” [2].
Giáo sư Trần Đình Sử đã nhận xét một cách thấu đáo về người trần
thuật: “Người trần thuật trong văn bản văn học là một hình tượng nghệ thuật
phức tạp, mà ngôi kể chỉ hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn
không có gì là ngôi kể, mà chỉ là chủ thể kể. Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”
“ngôi thứ ba” chỉ là sự khác nhau về mức độ bộc lộ và ẩn giấu của người trần
thuật mà thôi. Sự ẩn giấu của ngôi thứ ba làm cho nó gần như vô nhân xưng.
Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng điệu. Điều quan trọng nữa là kể
theo điểm nhìn nào. Đây là vấn đề tiêu cự trần thuật, là vấn đề phân biệt các
hình thức tự sự khác nhau”.
Ngô Tự Lập thì dùng cho người kể chuyện một cái tên mĩ miều hơn và
cũng là để trao nhiệm vụ cho họ “kẻ mang thông điệp”: “Các thông điệp của
một văn bản bao giờ cũng được chuyển đi, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ một

22



hay vài phát ngôn viên (speaker hay narrator) mà tôi gọi là kẻ mang thông
điệp… Những kẻ mang thông điệp có thể có thật hay hư cấu” [32, tr.178].
T Z. Todozop lại quan niệm về kể chuyện như sau: “Người kể chuyện là
yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng…không thể có trần thuật
thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại
khác mà kể chuyện. Như vật kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người
kể, nhân vật nhân danh cuốn sách được kể có vị trí hoàn toàn đặc biệt” tr.116
( Một cách bình luận lịch sử, 6/1977, Tạp chí Văn Nghệ Quân đội)
Có thể nói có rất nhiều định nghĩa về người kể chuyện nhưng chung
quy lại ở những đặc trưng nhận biết chính như sau: Trước hết, người kể
chuyện là người làm nhiệm vụ kể lại câu chuyện được nhà văn viết ra, là
người với giọng kể riêng, dẫn dắt câu chuyện từ đầu đến cuối, thuyết minh
cho người đọc hiểu các tình tiết trong tác phẩm tự sự. Thứ hai, người kể
chuyện là đại diện cho phát ngôn của tác giả, là một sản phẩm do nhà văn
sáng tạo ra và không đồng nhất với tác giả. Ngay ở cả những tác phẩm tự
truyện thì người kể chuyện và tác giả có những nét khác nhau, lúc đó cuộc đời
tác giả chỉ là chất liệu, và nhân vật kể chuyện lúc này có cảm xúc riêng,
không gian riêng để kể lại. Thứ ba, người kể chuyện là người có cá tính riêng,
giọng điệu riêng, ở một mức độ nào đó, hình thành một hình tượng riêng, hình
tượng người kể chuyện.
1.2.1. Vai trò của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự.
Trần thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó.
Trong sử thi, cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết trực tiếp hay gián tiếp đều có
người trần thuật. Người trần thuật không những chỉ tổ chức ngôn ngữ, mà còn
đóng vai trò quan trọng về mặt kết cấu, chi phối ngôn ngữ của nhân vật.
Trước hết, hiểu một cách đơn giản thì ta cũng có thể thấy được vai trò
của người kể chuyện ngay ở tên của anh ta, dù là khoác cho mình chiếc áo


23


nào thì anh ta có nhiệm vụ dẫn dắt, miêu tả và kể lại diễn biến câu chuyện xảy
ra. Có thể nói rằng, nếu không có người kể chuyện dẫn đường thì người đọc
như đi qua một sông mà không có cầu nối. Người kể chuyện là cầu nối giữa
sự kiện, nhân vật – người kể chuyện – độc giả, nhiệm vụ của anh ta là làm sao
nhân vật đó, sự kiện đó phải chuyển đến người đọc theo một mục đích đã
được hoạch định trước. Cũng bởi điều này mà ta thấy rằng, sau một nhân vật
xuất hiện, hay một sự kiện biến cố, người kể chuyện đều dừng lại chút ít để
miêu tả, hay tô đậm, giải thích…sao cho người đọc tường tận được điều kể ra.
Tuy nhiên, như ta đã biết, trong một văn bản không phải chỉ có một người kể
chuyện, mà có nhiều chủ thể tham gia kể câu chuyện theo chủ ý mở rộng
điểm nhìn hay còn gọi là đa điểm nhìn, thì việc dẫn dắt ấy theo một ý đồ nào
đó, chính là sự kích thích đối thoại giữa người kể, nhân vật và độc giả. Vì vậy
mà tính hấp dẫn của câu chuyện lại càng cao hơn.
Thứ hai, người kể chuyện là “kẻ mang thông điệp” có nghĩa anh ta là
người trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển những thông điệp trong văn bản đến
người đọc. Có những thông điệp được dấu kín, cũng có những thông điệp là
những phát ngôn của chính anh ta, được gọi là trữ tình ngoại đề. Có thể nói
một cách hẹp rằng, người kể chuyện chính là một hình thức thể hiện quan
điểm của tác giả về cuộc sống trong tác phẩm. Vai trò của người kể chuyện
được cho là vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải quan điểm của tác giả:
“Trong tác phẩm tự sự người kể chuyện có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhờ
hình thức tường thuật, tác giả có thể trực tiếp phát biểu những cảm nghĩ, nhận
xét của mình về nhân vật, về sự kiện được miêu tả và về cuộc đời chung”
[63,tr.154]. Song ta cũng cần nhận biết rằng, những quan niệm và tư tưởng
của tác giả lại được lọc qua lăng kính của người kể chuyện, cho nên cũng
không hẳn là bao giờ tư tưởng đó của tác giả trong tác phẩm với tư tưởng
ngoài đời thực là giống nhau. Mặt khác, ta cũng nhận ra một hình tượng


24


người kể chuyện có cá tính riêng, có quan điểm riêng. Họ không bộc lộ mình
bằng cách đánh giá nhân vật như việc các nhà phân tích phê bình, mà họ thể
hiện sự đánh giá đó qua thái độ đối với câu chuyện xảy ra trong tác phẩm. Ta
chỉ nhận biết họ rõ nhất qua thái độ của họ, vì vậy mà giọng điệu là điều cần
thiết để nhận biết quan điểm của người kể chuyện trong tác phẩm. Ở một khía
cạnh nào đó, có thể xem người kể chuyện là một người đồng hành trên con
đường sáng tạo, quan trọng hơn người kể chuyện là một cái tôi, nhưng đó là
cái tôi được sáng tạo nên cho nên dù sao, vẫn mang những cá tính khác biệt.
Đó là lí do mà ta hiểu rằng, ngoài đời Vũ Trọng Phụng là một người hiền khô,
ít khi văng tục, nhưng người kể chuyện ông sáng tạo ra lại là một kẻ sắt đá,
mạnh mồm và hơi chát chúa. Không nên đồng nhất tác giả và người kể
chuyện cho dù biết rằng, người kể chuyện là kể mang thông điệp cho tác giả
trên văn bản.
Thứ ba, người kể chuyện có một vai trò quan trọng đối với việc tổ chức
kết cấu của văn bản. Nói điều này có nghĩa là để chuẩn bị một kết cấu cũng
như việc tổ chức nó thì nhà văn việc đầu tiên là phải chọn cho mình người sẽ
tham gia là người kể câu chuyện đó. Như ta biết, văn học là lĩnh vực của cái
khả nhiên, có nghĩa là, tác phẩm có nhiều hướng để đi, có nhiều cách để kể
nó, và tác phẩm mà đến với tay bạn đọc là một trong vô số những con đường
đã được lựa chọn, và cũng là một cách tổ chức tác phẩm duy nhất được lựa
chọn. Nói thêm một chút, đó là vì sao, ở lứa tuổi trẻ con , học kể chuyện,
chúng thường được tập duyệt kiểu đóng vai nhân vật khác để kể. Vì lúc đó là
lúc chúng được sáng tạo ra một kết cấu mới dù nội dung vẫn vậy.
Người kể chuyện với vai trò là người tham gia vào việc tổ chức kết cấu
tác phẩm là người tìm được con đường làm sao kể câu chuyện đó hấp dẫn
nhất. Và chính điều đó chi phối đến việc chọn nhân vật, đặt tình huống kể,

chọn lời, chi tiết…Điều này thấy rất rõ ở chỗ, nhân vật sẽ chọn là một người

25


×