Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Các biện pháp bảo đảm quyền được thông tin của công dân phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng Tập hợp các chuyên đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 213 trang )

thanh tra chính phủ

viện khoa học thanh tra

Báo cáo tổng kết các chuyên đề
Thuộc đề tài cấp bộ:
các biện pháp đảm bảo quyền đợc thông tin của công
dân phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng

Chủ nhiệm đề tài: ths . đinh văn minh

6942-1
07/8/2008
hà nội - 2007


MỤC LỤC
STT

Tên Chuyên đề

TRANG

1

Quan niệm, ý nghĩa và những nội dung của quyền thông tin
và bảo đảm quyền thông tin

3

2



Sự phát triển của quyền được thông tin của công dân trong
hệ thống pháp luật Việt Nam

17

3

Hệ thống thông tin ở nước ta hiện nay với việc bảo đảm
quyền được thông tin của công dân

31

4

Chuẩn mực tiếp cận thông tin và cuộc đấu tranh chống tham
nhũng

46

5

Bảo đảm quyền thông tin, góp phần đấu tranh chống tham
nhũng ở Việt Nam

59

6

Suy nghĩ về định hướng và nội dung cơ bản của đạo luật về

bảo đảm quyền được thông tin của công dân

74

7

Quyền được thông tin của công dân và việc thực hiện nghĩa
vụ công khai hoạt động của các cơ quan nhà nước hiện nay

87

8

Cơ chế thông tin đi và đến đối với người dân và khả năng
vận dụng cơ chế trong công tác phòng, chống tham nhũng
hiện nay

105

9

Những lĩnh vực cần được ưu tiên đảm bảo thực hiện quyền
được thông tin của công dân góp phần phòng, chống tham
nhũng

114

10

Kinh nghiệm các nước về bảo đảm quyền thông tin của công

dân

139

11

Các loại hình báo chí và việc nâng cao vai trò của báo chí
góp phần công khai, minh bạch hoạt động của chính quyền

151

12

Một số vấn đề về công khai, minh bạch hoạt động của Toà
án trong điều kiện cải cách tư pháp và phòng ngừa tham
nhũng ở Việt Nam

165

13

Các hình thức công khai và một số kiến nghị nhằm bảo đảm
quyền được thông tin của công dân trong việc thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn

178

1



14

Vai trò của Internet trong việc nâng cao nhận thức của công
chúng về công tác phòng, chống tham nhũng

190

15

Thực tiễn thực hiện quyền được thông tin của công dân tại
địa phương - những vấn đề đang đặt ra

199

2


Chuyên đề số 1:
QUAN NIỆM, Ý NGHĨA VÀ NHỮNG NỘI DUNG CỦA QUYỀN THÔNG
TIN VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN THÔNG TIN
ThS. Lê Thị Thuý
Nghiên cứu viên, Viện KHTT
Thông tin là nhu cầu thiết yếu trong mọi hoạt động của xã hội kể
từ khi xuất hiện xã hội loài người. Thông tin đã trở thành công cụ quan trọng
để quản lý đất nước. “Một Chính phủ không có thông tin hay không có
phương tiện tiếp cận thông tin là màn dạo đầu cho tấn hài kịch hoặc bi kịch
hay cả hai thứ đó” (James Madison-1981). Thông tin là phương tiện để qua
đó thực hiện sự hợp tác giao lưu giữa các dân tộc, là điều kiện cần thiết để
công dân có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật và cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để nhân dân tham gia quản

lý nhà nước, quản lý xã hội. “đối với công dân, tiếp cận thông tin sẽ là cánh
cửa then chốt đưa họ tham gia vào một nền quản trị dân chủ, ở đó họ không
chỉ được đặt câu hỏi mà ý kiến của họ còn được lắng nghe. Người dân được
trao quyền và được tham gia”.
(Nikhil Dey, Mazdoor Kisai Shakthi Sanghatan)
Thông tin là nhu cầu không thể thiếu, nhờ đó mà hình thành và phát triển
nhân cách mỗi con người cũng như các thể chế dân chủ. “Thông tin là ôxy của
nền dân chủ”. Mức độ cởi mở thông tin được xem như tiêu chí đánh giá trình độ
phát triển của một xã hội.
Chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng thông tin, kinh tế thông tin và
xã hội thông tin. Chính vì ảnh hưởng lớn lao của nó trong tiến trình phát triển
của lịch sử loài người và của mỗi quốc gia nên việc phát triển thông tin và sử
dụng nó một cách có hiệu quả hiện đang là vấn đề được nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau mà thông tin có thể được
nghiên cứu theo một số hướng sau đây:
3


- Thông tin và quyền tự do thông tin với tư cách là một trong số các quyền
cơ bản của con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp
luật cần được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
- Thông tin với tư cách là công cụ của sự lãnh đạo quản lý. Công tác lãnh
đạo, quản lý xét cho cùng là làm sao có được đầy đủ thông tin một cách nhanh
nhất, chính xác nhất và xử lý tốt các thông tin để phục vụ các nhiệm vụ đặt ra
trong mỗi giai đoạn.
- Thông tin là công cụ để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội, là điều kiện để nhân dân thực hiện quyền của mình và điều kiện để giám sát
bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước góp phần đấu tranh chống
tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí trong bộ máy nhà nước, làm cho nhà nước
thực sự là của dân, do dân và vì dân như Hiến pháp đã quy định. Lênin đã nói

rằng “chỉ khi nào công dân biết mọi điều và phán xét mọi điều, đồng thời họ
tham gia một cách tự giác vào hoạt động quản lý thì khi đó nhà nước mới có sức
mạnh”.
I/ Quan niệm về quyền được thông tin của công dân và việc bảo đảm
quyền được thông tin của công dân
Quyền tự do thông tin hay quyền được bảo đảm tiếp cận thông tin với tư
cách là một trong những quyền hết sức thiết yếu để bảo đảm công dân có thể
thực hiện các quyền tự do dân chủ khác đang ngày càng được nhìn nhận như là
một trong những biểu hiện của một nền dân chủ. Với việc bảo đảm quyền được
thông tin của người dân, Chính phủ thể hiện sự cởi mở và tính minh bạch trong
hoạt động của mình cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình trước công chúng.
Để có một cái nhìn tương đối toàn diện về quyền tự do thông tin, cần thiết
phải khảo sát những quan niệm trong nước và quốc tế từ trước đến nay về vấn
đề này.
Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người ghi nhận: “Mọi người đều có
quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không
phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận,
4


truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và
không giới hạn về biên giới”1.
Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và Chính trị khẳng định: "Mọi
người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm bao gồm quyền tự do tìm kiếm,
tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn
phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác,
không kể biên giới quốc gia... Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì
nhu cầu tôn trọng những quyền tự do, thanh danh của người khác và bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý".2
Hiến pháp năm 1992 đã chính thức ghi nhận quyền được thông tin là một

trong những quyền cơ bản của công dân: "Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí; có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật"3.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020: “củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp
luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người,
quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội”;
“hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp
giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công
chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công
việc của nhà nước” và “xây dựng cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của
các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”.
Phát biểu tại phiên khai mạc Quốc hội ngày 18/10/2005, nguyên Thủ
tướng Phan Văn Khải nêu rõ “Chính phủ chủ trương tăng cường mối quan hệ
của bộ máy nhà nước với công chúng, trước hết là trong quan hệ với báo chí.
Trừ những nội dung đã được qui định thuộc bí mật nhà nước và bí mật kinh
doanh , các cơ quan nhà nước phải tôn trọng quyền được thông tin của dân, bảo
1

Điều 19 Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người của Liên Hợp quốc năm 1948
Ðiều 19 Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp quốc năm 1966
3
Điều 69 Hiến pháp 1992
2

5


đảm cho báo chí tiếp xúc được với hoạt động của mình. Việc thực hiện đầy đủ

điều này không thể tuỳ thích mà phải coi là nghĩa vụ thể hiện tính chất nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Những qui định cụ thể về quyền được thông tin của dân
cần được thể chế hoá”.
Nghị quyết số 04-NQ/TƯ (tháng 8/2006) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí và đặt ra yêu cầu: "Nghiên cứu ban hành Luật Bảo
đảm quyền được thông tin của công dân".
Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đã cam kết tạo điều kiện để người dân
tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà nước và khẳng định nghĩa vụ công khai,
minh bạch của Nhà nước, thể hiện tại Hiệp định Thương mại Việt nam – Hoa
Kỳ đã được Quốc hội Việt Nam Khoá X phê chuẩn tại kỳ họp thứ 10 ngày
28/11/2001 và kết quả đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã ký
kết và trong quá trình phê chuẩn đã có những nguyên tắc khá rõ ràng trong
vấn đề này:
1. Mỗi quốc gia thành viên của Công ước, trong khả năng có thể và
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các
biện pháp thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và
tổ chức…và nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên
nhân và tính chất nghiêm trọng cũng như sự đe doạ của tham nhũng... thông
qua các biện pháp như:
(a) Tăng cường tính minh bạch trong các quá trình ra quyết định, thúc
đẩy đóng góp của công chúng vào các quá trình ra quyết định;
(b) Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu
quả;
(c) Tổ chức các hoạt động thông tin cho công chúng góp phần đấu
tranh không khoan nhượng chống tham nhũng, cũng như các chương trình
giáo dục công chúng, bao gồm cả chương trình giảng dạy trong nhà trường
và trường đại học.
6



(d) Tôn trọng, tăng cường và bảo vệ sự tự do tìm kiếm, nhận, xuất bản
và tuyên truyền thông tin về tham nhũng. Sự tự do đó có thể cũng có một số
giới hạn nhất định, nhưng những giới hạn đó phải được pháp luật quy định và
phải là cần thiết để:
(i)

Tôn trọng quyền và uy tín của người khác;

(ii) Bảo vệ an ninh quốc gia hay trật tự xã hội hay sức khoẻ cộng đồng
hay giá trị đạo đức.
Từ các qui định và định hướng nêu trên trong các Công ước quốc tế
cũng như của Việt Nam có thể bước đầu đưa ra một quan niệm về quyền được
thông tin như sau:
Quyền được thông tin là quyền của công dân, tổ chức xã hội hay doanh
nghiệp được đòi hỏi Nhà nước cung cấp thông tin thường xuyên và đầy đủ về
chính sách, pháp luật, về việc thực hiện chính sách pháp luật. về những quyền
hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cũng như quyền lợi và nhĩa vụ
của công dân, tổ chức, doanh nghiệp. Nói một cách vắn tắt, công dân có
quyền biết những việc nhà nước đã làm, đang làm và hoặc dự định sẽ làm với
những mục đích minh bạch, cụ thể và trách nhiệm giải trình công.
II. Nội dung về quyền được thông tin của công dân.
- Các bộ phận cấu thành của quyền được thông tin của công dân.
Quyền này có 3 yếu tố hợp thành (ba quyền cấu thành) đó là:
+ Quyền tiếp nhận thông tin: được hiểu là công dân được nhận thông tin
qua các kênh khác nhau, tức là thông qua các loại hình truyền tải thông tin báo
chí và trách nhiệm của Nhà nước trong việc thường xuyên tổ chức cung cấp
thông tin, nhất là những nội dung liên quan đến lợi ích của người dân hoặc
người dân quan tâm, kể cả khi họ không trực tiếp có yêu cầu.

+ Quyền tìm kiếm thông tin: Công dân chủ động bằng các phương thức
hợp pháp khác nhau để có được thông tin mà họ thấy cần thiết hoặc quan tâm.
Nội dung này đặc biệt liên quan đến quyền đề nghị của công dân đối với các cơ
quan, tổ chức hoặc những ngưòi có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước cung
cấp các thông tin mà họ nắm giữ.
7


+ Quyền phổ biến, chia sẻ thông tin: công dân có quyền truyền đạt, chia
sẻ quan điểm, thông tin mà mình nắm giữ bằng các phương thức hợp pháp
Như vậy có thể thấy việc thực hiện quyền thông tin chủ yếu được thực
hiện thông qua hai con đường:
+ Nhà nước chủ động cho dân chúng biêt thông tin về hoạt động của bộ
máy (Nhà nước là người chủ động còn người dân là người được thụ hưởng
thông tin do Nhà nước mang đến);
+ Hoặc, Nhà nước tạo cơ chế và sẵn lòng đáp ứng khi công chúng có yêu
cầu.
Như vậy trong cả hai trường hợp, trách nhiệm đều thuộc về phía nhà
nước, ngoài việc tạo ra cơ chế để công dân có thể tiếp cận dễ dàng với các
nguồn thông tin, thì việc bảo dảm thực hiện quyền thông tin của công dân còn
thể hiện ở việc nhà nước phát triển hệ thống cung cấp thông tin cho công dân
một cách đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng.
III/ Phạm vi, chuẩn mực và giới hạn quyền được thông tin của công
dân.
Nhìn chung, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam đều đưa ra
chuẩn mực cho việc thực hiện quyền thông tin và khả năng tiếp cận thông tin
như: Các thông tin về hoạt động công quyền được tiếp cận phải là các thông tin
chính thức, mục đích sử dụng thông tin không được phương hại đến an ninh
quốc gia, quyền và tự do của người khác; không làm ảnh hưởng đến hoạt động
bình thường của các cơ quan tổ chức hoặc ảnh hưởng đến trật tự công cộng, sức

khoẻ hoặc uy tín của người khác.
Chẳng hạn, Điều 38 Bộ luật Dân sự qui định rằng quyền bí mật đời tư của
cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông
tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó, trừ trường
hợp thu thập, công bố thông tin theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Luật Xuất bản năm 2004 cũng có qui định về việc không một cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào được lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
8


Quyền được thông tin của công dân có quan hệ mật thiết và bị giới hạn
bởi các nội dung:
+ Bí mật nhà nước;
+ Bí mật đời tư;
+ Bí mật kinh doanh.
Bản tuyên bố chung về cơ chế truyền thông quốc tế nhằm thúc đẩy tự do
biểu đạt ngày 06/12/2004 nhấn mạnh: “Quyền tiếp cận thông tin chỉ bị giới hạn
rất ít những ngoại lệ nhằm bảo vệ các lợi ích cần thiết của nhà nước và cá nhân,
bao gồm cả đời sống tư”.
Trong tuyên bố liên Mỹ về các nguyên tắc của sự tự do bày tỏ ý kiến được
Uỷ ban liên Mỹ về quyền con người thông qua tại khoá họp thường kỳ thứ 108
của tổ chức này cũng nhìn nhận: “cho phép một số hạn chế ngoại lệ, nhưng phải
được pháp luật cho phép trước, trong trường hợp thực sự có sự đe dọa đến an
ninh quốc gia trong các xã hội dân chủ”.
Như vậy có thể hiểu quyền tự do thông tin hay quyền được bảo đảm thông
tin chỉ bị giới hạn khi nó phương hại đến lợi ích công hoặc xâm phạm đến lợi
ích của cá nhân khác nhưng ngay cả sự hạn chế này cũng phải được pháp luật
qui định chứ không thể quyết định một cách tuỳ tiện, áp đặt bởi các cơ quan nhà
nước.

IV/ Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền thông tin của công dân
Cơ chế công khai thông tin, mà trong đó quyền được tiếp cận thông tin,
không thể tự nó loại trừ tham nhũng mà chúng có thể tạo ra môi trường trong đó
việc tham nhũng sẽ trở nên khó khăn hơn.
Trong các Nguyên tắc về tự do ngôn luận năm 2002 của Uỷ ban Châu Phi
về nhân quyền và dân quyền có đưa ra một nhận định hết sức xác đáng như sau:
“Quyền tiếp cận thông tin được thực hiện bởi các cơ quan công quyền sẽ dẫn
đến sự minh bạch và trách nhiệm giải trình công khai tốt hơn và cũng dẫn đến
sự quản lý tốt và tăng cường tính dân chủ”.
Quan điểm cho rằng quyền tiếp cận thông tin là “oxy của một nền dân
chủ” được rất nhiều người chia sẻ.
9


Thực hiện quyền được thông tin của dân sẽ tạo ra một chính phủ cởi mở
hơn và gần gũi với công chúng. Nó sẽ tạo điều kiện để người dân tham gia vào
quá trình hoạch định chính sách cũng như thực hiện nó trên thực tế, tạo điều
kiện để công chúng giám sát hoạt động công quyền, một yếu tố hết sức quan
trọng để giảm thiểu tham nhũng.
“Loại trừ tận gốc tham nhũng và tính hiệu quả là những mục đích
chính của công khai và minh bạch trong Chính phủ. Tiếp cân thông tin làm
cho Chính phủ cởi mở hơn và làm cho các cán bộ nắm giữ quyền lực trở nên
có trách nhiệm hơn nhân dân…tiếp cận thông tin đặc biệt quan trọng với
kiềm chế tham nhũng cũng như kiểm soát được hành vi chuyên quyền. Với
cách hiểu rộng hơn này, đối với công dân, tiếp cận thông tin sẽ là cánh cửa
then chốt đưa họ tham gia vào một nền quản trị dân chủ, ở đó họ không chỉ
được đặt câu hỏi mà ý kiến của họ còn được lắng nghe. Người dân được trao
quyền và được tham gia, khi ấy họ thức tham gia vào những quyết định ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống cũng như họ có khả năng mưu sinh”. (Nikhil
Dey, Mazdoor Kisai Shakthi Sanghatan)

Người ta luôn cho rằng tiếp cận thông tin là yếu tố quan trọng của
Chính phủ dân chủ. Nghĩa là để có dân chủ thì người dân phải được cung cấp
đầy đủ thông tin về hoạt động và Chính sách của Chính phủ. Tất cả những
yếu tố nêu trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp có tác dụng làm cho các cơ hội và
điều kiện tham nhũng bị kiểm soát và ngăn chặn. Chính vì lẽ đó mà hầu như ở
tất cả các nước khi bắt đầu thực sự tỏ rõ quyết tâm chống tham nhũng thì
cũng ngay lập tức phải quan tâm đến các cơ chế và thiết chế để bảo đảm
quyền thông tin của người dân.
Thực tế những năm vừa qua, chúng ta đã đạt được một số kết quả trong
việc chủ động công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước:
- Trong hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật.

10


Việc chủ động công khai, minh bạch các hoạt động hoạch định chính sách,
xây dựng pháp luật trong thời gian qua đã khuyến khích được sự tham gia của
người dân.
Nhiều báo, tạp chí đã đăng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và xây
dựng các diễn đàn để công dân tham gia đóng góp ý kiến. Quốc hội, Chính phủ,
nhiều bộ, ngành và tổ chức đã mở chuyên mục, diễn đàn để công dân, tổ chức,
doanh nghiệp đóng góp ý kiến trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị
mình.
Nhiều phiên họp của Quốc hội khi thảo luận về việc hoạch định chính sách,
xây dựng pháp luật cũng đã được truyền hình trực tiếp đến với người dân.
Việc phát hành công báo của Chính phủ cũng đi vào nề nếp, đáp ứng được
yêu cầu của thực tế trong việc công bố các văn bản quy phạm pháp luật đã được
ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật cũng như các cam
kết quốc tế mà Việt Nam ký kết.
- Trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

Quản lý nhà nước là lĩnh vực rất rộng, liên quan đến hoạt động nội bộ của
các cơ quan nhà nước và liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các yêu cầu cụ
thể của công dân.
Trong quan hệ nội bộ, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị đã chủ động công
khai, minh bạch hoạt động của mình theo các hình thức đã được quy định. Nhiều
cơ quan còn công khai các nội dung thông tin đó trên phương tiện thông tin đại
chúng và trang thông tin điện tử để cán bộ, công chức, nhân dân có thể giám sát.
Trong giải quyết công việc của công dân, các thủ tục hành chính, phí, lệ phí
đã được niêm yết công khai tại nhiều trụ sở của cơ quan nhà nước, đặc biệt là
việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính ở địa phương đã tạo
thuận lợi cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp khi tham gia giao dịch với Nhà
nước. Nhiều cơ quan cũng chủ động công bố công khai thủ tục hành chính, phí
và lệ phí trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trang thông tin điện tử.
11


Qua 3 năm thực hiện cơ chế "một cửa", cơ quan hành chính nhà nước các cấp ở
địa phương đã giải quyết cơ bản những yêu cầu của dân và doanh nghiệp trong
các lĩnh vực đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng, các quyết định về đầu tư, các lĩnh
vực về đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, chính sách xã hội v.v…Thời gian giải quyết
được rút ngắn, chất lượng và giải quyết công việc được nâng lên, người dân chỉ
cần đến một nơi, với thời gian nhất định để được giải quyết công việc đúng
nguyện vọng, không phải đi lại nhiều lần4.
Ở cơ sở, hoạt động chính quyền được công khai thông qua việc thực hiện
các quy định về dân chủ theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành
theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau đó là Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 Chính phủ) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn năm 2007. Thực hiện các quy định này, chính quyền cơ sở
cũng công khai nhiều nội dung để nhân dân biết, nhân dân bàn, nhân dân quyết

định và nhân dân giám sát cũng như công khai những nội dung để nhân dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.
- Trong lĩnh vực tư pháp.
Các quy định pháp luật về tố tụng và thi hành án như quy định về quy trình
thụ lý và giải quyết các vụ án, quy định việc cung cấp thông tin cho các đương
sự trong vụ kiện dân sự, quy định công khai, minh bạch trong quá trình tranh
tụng, quy định cho phép luật sư được tiếp cận với vụ án cũng như sao chụp các
tài liệu phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp... đã thể hiện nghĩa vụ công khai,
minh bạch hoạt động tư pháp trong thời gian qua. Ngoài ra, Toà án nhân dân Tối
cao đã công bố hai tập quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao về Hình sự, Hành chính, Dân sự, Kinh doanh, thương mại,
Lao động (năm 2004), tạo cơ sở ban đầu để có thể xây dựng, công khai hệ thống
dữ liệu về án lệ ở Việt Nam.
4

Báo cáo số 3649/BC-BNV ngày 04/10/2006 của Bộ Nội vụ sơ kết 3 năm thực hiện cơ chế "một cửa"
theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ

12


Ngoài ra, việc công khai hoạt động của các cơ quan nhà nước theo yêu cầu
của công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan cũng đạt một số thành tựu:
Cơ chế công khai hoạt động của cơ quan nhà nước theo yêu cầu của cơ
quan, tổ chức, cá nhân được chính thức ghi nhận tại Luật Báo chí năm 1989.
Theo đó, người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người
có chức vụ có nghĩa vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí5 và các cơ
quan nhà nước không được từ chối cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu
không thuộc phạm vi quy định trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước6.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã hoàn thiện thêm một bước

nghĩa vụ công khai, minh bạch của các cơ quan nhà nước theo yêu cầu của công
dân. Cụ thể là, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
các cơ quan báo chí và có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung
cấp thông tin về hoạt động của cơ quan nhà nước mình. Cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan nhà
nước nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan nhà nước
đó. Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn đó.7 Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung
cấp thông tin có căn cứ cho rằng việc cung cấp thông tin là chưa đầy đủ hoặc
trái pháp luật thì có quyền khiếu nại, việc khiếu nại được thực hiện theo quy
định của pháp luật về khiếu nại. Người được yêu cầu cung cấp thông tin mà
không thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp thông tin thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật8.
Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế:

5

Điều 8 Luật Báo chí năm 1989
Điều 8 Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành
Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
7
Điều 31, điều 32 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005
8
Điều 11 Nghị định 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
phòng, chống tham nhũng
6

13



- Hoạt động tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân vào việc xây dựng chính
sách, pháp luật còn chưa rõ ràng do thiếu quy định về việc tiếp nhận, phân loại ý
kiến góp ý, trách nhiệm giải trình, phản hồi của các cơ quan chủ trì xây dựng
chính sách, pháp luật.
- Việc chủ động công khai thủ tục hành chính, phí và lệ phí trong lĩnh vực
quản lý nhà nước ở nhiều nơi còn hình thức, một số cơ quan công khai nhưng
không thực hiện đúng như đã công khai, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải
quyết công việc của người dân còn ở mức phổ biến. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này, trong đó có nguyên nhân do thiếu cơ chế xử lý vi phạm trong
trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật.
- Chưa có sự chủ động công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan tư
pháp, cụ thể là chưa chủ động niêm yết, công bố công khai, rộng rãi thủ tục,
trình tự trong hoạt động tư pháp nên người dân khó khăn khi yêu cầu cơ quan tư
pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Nghĩa vụ công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan nhà nước theo
yêu cầu của công dân còn nhiều hạn chế, tình trạng cơ quan nhà nước không trả
lời bằng văn bản hoặc từ chối cung cấp mà không có lý do chính đáng vẫn còn
phổ biến và không bị xử lý. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là đa số
các quy định pháp luật về công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan nhà
nước theo yêu cầu của công dân mới chỉ dừng lại ở mức độ có tính chất nguyên
tắc, thiếu cụ thể nên cơ quan nhà nước có thể trốn tránh nghĩa vụ của mình mà
không bị xử lý.
- Chưa quan tâm xử lý tốt, đảm bảo sự cân đối trong cơ chế thông tin đi và
đến đối với người dân.
Do vậy, khi đã xác định quyền được thông tin là một trong những
quyền cơ bản của công dân thì vấn đề là ở chỗ Nhà nước cần tạo những điều
kiện kinh tế-xã hội và xác định ra cơ chế để thực hiện nó trên thực tế. Nói một

cách khác, Nhà nước cần tạo ra một khuôn khổ pháp lý để người dân được
14


bảo đảm về quyền thông tin đồng thời sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu về
phương diện tài chính và kỹ thuật để phục vụ cho việc vận hành cơ chế đó
trên thực tế.
Một là, xây dựng một hệ thống các qui định đến việc bảo đảm quyền thông
tin của công dân theo hai hướng:
Qui định trách nhiệm và phương thức thực hiện trách nhiệm của các cơ
quan tổ chức đơn vị trong việc chủ động mang thông tin đến với công dân;
Qui định quyền của công dân và trình tự thủ tục cho phép công dân tiếp cận
với các thông tin liên quan đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị;
Hai là, tạo ra cơ chế, điều kiện thuận lợi để cung cấp thông tin cho công
dân; thậm chí có là một thể chế giúp đỡ công dân trong viêc tìm kiếm tiếp cận
các thông tin trong hoạt động công quyền mỗi khi họ gặp khó khăn; có thể thông
qua vai trò của các tổ chức đoàn thể mà công dân là thành viên để thực hiện
quyền được tiếp cận thông tin, trong đó bao gồm cả việc khiếu nại khi quyền
này bị cản trở thực hiện.
- Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc
chuyển tải đến với người dân;
+ Thông tin rộng rãi về hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin và trả lời các vấn đề mà
công dân đặt ra trên các phương tiện thông tin đại chúng;
+ Là diễn đàn để nhân dân phổ biến, chia sẻ thông tin.
- Xây dựng một hệ thống cung cấp thông tin cho công dân phù hợp với nhu
cầu và đặc điểm của nhóm đối tượng theo ngành nghề, vùng miền, đặc điểm giới
tính, lĩnh vực công tác, xây dựng tủ sách pháp luật xã phường;
- Thực hiện chương trình tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật một
cách thường xuyên và sâu rộng (hiện nay các địa phương đều có Hội đồng tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật).
15


Ba là, phải tạo ra một cơ sở hạ tầng tốt và hiện đại có khả năng đáp ứng
nhu cầu thông tin của công dân, nhất là những thông tin liên quan trực tiếp đến
lợi ích của công dân của từng khu vực, nhóm đối tượng khác nhau một cách
nhanh chóng, đầy đủ và chính xác nhất.

16


Chuyên đề số 2:
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUYỀN ĐƯỢC THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
ThS. Vũ Đình Nam
Viện Nhà nước và pháp luật
Đặt vấn đề
Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật". Đây
là lần đầu tiên ở Việt Nam, quyền được thông tin của công dân được ghi nhận
mang tính chất Hiến định. Tuy nhiên, quyền được thông tin của công dân đã
được nhiều văn bản quốc tế và pháp luật các nước quy định từ rất lâu. Đứng
trước yêu cầu "Nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của
công dân" theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương Ba, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X (tháng 8/2006) đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/T.Ư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí thì việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản và các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam về quyền được thông tin của công dân là hết sức cần thiết.
I. Khái niệm về quyền được thông tin của công dân.

Hiện nay, trên thế giới, quyền được thông tin của công dân còn được gọi
với một số tên gọi khác như: quyền được biết của công chúng (public's right to
know), hay quyền tiếp cận thông tin (the right to access to information), quyền
tự do thông tin. Các công ước quốc tế và pháp luật của đa số các quốc gia đều
thừa nhận đây là quyền con người cần phải được Nhà nước bảo vệ.
Nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, khái niệm quyền tiếp cận thông tin
được quy định lần đầu tiên trong pháp luật của Thuỵ Điển vào năm 1766 tại Đạo
luật về tự do báo chí. Về sau, Luật này được sửa đổi để hoàn thiện hơn. Điều 1
Chương 2 Luật tự do báo chí của Thuỵ Điển (số 1945:105) quy định: “Nhằm
khuyến khích việc tự do trao đổi ý kiến và việc công khai toàn diện thông tin, tất
17


cả công dân Thuỵ Điển đều có quyền tiếp cận tự do đối với các tài liệu chính
thức”. Đây là những biểu hiện cụ thể của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền
được thông tin của công dân.
Nếu so sánh với các quyền con người khác thì quyền tiếp cận thông tin
của công dân xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên, thời gian đầu kể từ khi xuất hiện
nó mới chỉ được ghi nhận trong phạm vi quốc gia.
Quyền được thông tin của công dân được nhận thức và nhìn nhận trên
phạm vi quốc tế chỉ từ sau khi Liên Hợp quốc thông qua bản Tuyên ngôn Thế
giới về Quyền con người (năm 1948). Điều 19 Tuyên ngôn Thế giới về Quyền
con người quy định: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của
mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi
phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.
Năm 1966 Liên Hợp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các Quyền
dân sự và chính trị. Ðiều 19 Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và Chính trị
của Liên Hợp Quốc quy định:
“1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can

thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao
gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng
truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi
phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói
trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền
này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác;
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay
đạo lý”.
18


Điều 13 Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em được thông qua
ngày 20/11/1989 cũng quy định:
“1. Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến; quyền này bao gồm quyền tự do
tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tất cả các loại thông tin và tư tưởng ở mọi lĩnh
vực bằng lời nói, văn bản viết tay hoặc bản in, hay dưới hình thức nghệ thuật
hoặc bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác mà trẻ em lựa chọn.
2. Việc thực hiện quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định,
nhưng những hạn chế này phải được quy định bằng pháp luật và là cần thiết:
a. Để tôn trọng các quyền và danh dự của người khác;
b. Để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức và sức khoẻ
của cộng đồng”.
Khoản 1.b Điều 13 Công ước của Liên Hợp quốc về phòng, chống tham
nhũng năm 2003 quy định: “Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin
một cách hiệu quả”.
Ở tầm khu vực, Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho
Châu Á và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được ký kết ngày 30/11/2001

tại Tokyo Nhật Bản, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công
chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi
trường ngày 25/6/1998, Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước
Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR)... cũng có nhiều quy định về quyền được tiếp
cận thông tin của công chúng.
Ở cấp độ quốc gia, mặc dù có sự khác nhau về thể chế, chính trị, trình độ
phát triển kinh tế, văn hoá... nhưng pháp luật của các quốc gia đều quy định về
việc tiếp cận thông tin của công dân.
Xét một cách chung nhất, quyền được tiếp cận thông tin của công chúng
là quyền con người được Nhà nước bảo đảm thông qua việc công khai, minh
bạch hoạt động của cơ quan công quyền và Nhà nước thiết lập các điều kiện cần
thiết để công chúng được tiếp cận các thông tin đó.
19


Từ các quy định về quyền tiếp cận thông tin trong các điều ước quốc tế
và khu vực cũng như pháp luật của nhiều quốc gia cho thấy quyền được thông
tin của công dân bao hàm 3 quyền: Quyền tự do tìm kiếm thông tin; quyền tự do
tiếp nhận thông tin; quyền tự do phổ biến, chia sẻ thông tin.
Quyền tự do tìm kiếm thông tin, bản thân tên gọi của quyền này cũng thể
hiện tính chủ động của mỗi cá nhân. Công dân có quyền được tìm kiếm các
thông tin mà mình quan tâm, bất kể đó là thông tin thuộc lĩnh vực chính trị, kinh
tế hay văn hoá xã hội. Quyền tự do tìm kiếm thông tin của công dân được thể
hiện thông qua việc cá nhân tìm kiếm các thông tin mà mình quan tâm thông qua
hệ thống phương tiện truyền thông mà còn thể hiện thông qua việc gửi yêu cầu
đề nghị các cơ quan Nhà nước cung cấp.
Quyền tự do tiếp nhận thông tin là việc công dân được tiếp nhận thông
tin từ các phương tiện truyền thông khác nhau như báo chí, internet, phương tiện
truyền thông cơ sở... Gắn với nó là trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo lập
hành lang để các kênh thông tin này hoạt động có hiệu quả.

Tự do phổ biến, chia sẻ thông tin là cá nhân, công dân có quyền truyền
đạt, chia sẻ những thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi người mà không
phải chịu bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới và hình thức đưa tin.
Đây là ba bộ phận cấu thành quan trọng nhất của quyền được thông tin
của công dân. Mỗi bộ phận (quyền) cấu thành trên đây, tương ứng với nó là sự
bảo đảm của Nhà nước để người dân có thể thực hiện từng quyền này một cách
hiệu quả nhất.
II. Quyền được thông tin trong hệ thống các quyền cơ bản của công
dân: vị trí, vai trò và ý nghĩa của việc đảm bảo thực hiện quyền được thông
tin của công dân.
Như đã nói ở trên, quyền được thông tin của công dân là quyền con
người, được hình thành từ khá sớm. Trong hệ thống các quyền cơ bản của công
dân, quyền được thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng. Xét từ góc độ quyền
làm chủ của nhân dân, quyền được thông tin của công dân là quyền đầu tiên để
20


công dân thực hiện quyền làm chủ trong nhà nước dân chủ. Xét từ các quyền tự
do, quyền được thông tin của công dân là điều kiện để công dân, cá nhân thực
hiện được các quyền tự do của mình.
Câu nói nổi tiếng của Abraham Lincon: Chính phủ của dân, do dân và vì
dân (and that goverment of the people, by the people, for the people) đã trở
thành biểu tượng của ước mơ đến một nhà nước dân chủ. Trong nhà nước dân
chủ đó, để thực sự là của dân, do dân và vì dân thì Nhà nước phải thực sự nằm
trong sự kiểm soát của người dân. Khi đó, thông tin trở thành điều kiện cơ bản
nhất để người dân kiểm soát Chính phủ. Biểu hiện cụ thể của nó là người dân
phải biết được Chính phủ mà mình tạo dựng lên đang hoạt động như thế nào,
hoạt động vì mục đích gì. Không còn cách nào khác để nắm bắt được thực trạng
đó, người dân phải có được thông tin từ phía nhà nước – đó chính là quyền cơ sở
của quyền được thông tin của công dân.

Tuy nhiên, cùng với quyền làm chủ của mình, con người còn có các
quyền khác mà bất kỳ nhà nước dân chủ nào cũng không thể tước đoạt. Cùng
với quyền được sống, quyền được an toàn, quyền không bị bắt, giam giữ hay lưu
đày một cách tuỳ tiện .... và các quyền tự do như: tự do báo chí, tự do ngôn luận,
tự do hội họp, quyền tự do đi lại, tự do cư trú. Trong hệ thống các quyền này,
quyền được thông tin của công dân cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, đứng
vai trò trung tâm nhờ đó mà công dân có thể thực hiện các quyền trên. Chẳng
hạn, quyền tự do ý chí, tự do bày tỏ quan điểm của công dân chỉ có thể được
thực hiện một cách có hiệu quả khi công dân có được thông tin trước khi đưa ra
quyết định hay quan điểm mang tính chất cá nhân của mình. Gắn bó chặt chẽ với
quyền tự do thông tin, người ta thường đề cập đến quyền “tự do báo chí” và “tự
do ngôn luận”, “tự do bày tỏ quan điểm”. Các quyền này có quan hệ rất gần
nhau, trong nhiều trường hợp nó còn nằm trong nhau.
Ví dụ, Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng là Điều
4 về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân và
Điều 5 về trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do
21


ngôn luận trên báo chí của công dân. Các quy định này đều đề cập đến khía cạnh
đảm bảo quyền được thông tin của công dân trong việc bảo đảm các quyền tự do
báo chí và tự do ngôn luận.
Như vậy, xem xét mối quan hệ giữa quyền được thông tin của công dân
và các quyền con người khác, việc bảo đảm cho công dân có quyền được thông
tin chính là cơ sở, thể hiện bản chất nhà nước thực sự dân chủ và khát vọng tự
do hay không. Với tầm quan trọng đó, việc khẳng định quyền được thông tin của
công dân với tư cách là một quyền độc lập là có ý nghĩa vô cùng cần thiết.
Từ quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật của một số nước khi
đề cập đến quyền được thông tin của công dân cho thấy, để bảo đảm quyền được
thông tin của công dân, cần có các điều kiện sau:

Thứ nhất, có hệ thống các quy định pháp luật ghi nhận nội dung quyền
được thông tin của công dân, giới hạn quyền được thông tin của công dân và
trình tự thủ tục cung cấp thông tin.
Thứ hai, có hệ thống các phương tiện truyền tải thông tin để công dân có
thể thực hiện quyền tiếp nhận, tìm kiếm, chia sẻ và phổ biến thông tin.
Thứ ba, có hệ thống các cơ quan, đầu mối chịu trách nhiệm cung cấp
thông tin và giải quyết các khiếu nại liên quan đến việc cung cấp thông tin của
công dân.
Những bảo đảm này góp phần bảo đảm các quyền của công dân, mà trực
tiếp là quyền dân chủ, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận.
III. Quyền được thông tin của công dân qua các Hiến pháp.
Mặc dù đến Hiến pháp năm 1992, quyền được thông tin của công dân mới
chính thức được ghi nhận là quyền cơ bản của công dân, nhưng tư tưởng bảo
đảm công dân có quyền được thông tin đã được thể hiện từ bản Hiến pháp đầu
tiên và tiếp tục được hoàn thiện trong các bản Hiến pháp sau đó, bởi lẽ như đã
nói trên, để thực hiện quyền được làm chủ của mình, công dân phải có quyền
được thông tin. Có thể điểm qua một số nét chính sau đây:
22


- Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp
bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan, nước ta đã
bước sang một quãng đường mới. Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ
quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà và bản
Hiến pháp năm 1945 của nước ta là Hiến pháp của nhà nước dân chủ đầu tiên
của Đông Nam Á được ra đời. Hiến pháp đã xác định nhiệm vụ của dân tộc ta
trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết
quốc gia trên nền tảng dân chủ, trong đó nguyên tắc đặc biệt quan trọng là đảm
bảo các quyền tự do dân chủ, thực thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân. Ngoài các quyền làm chủ như quyền bãi miễn các đại biểu mình

đã bầu ra, quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia, Điều thứ 10 Hiến pháp 1945 đã ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền:
Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản”.
- Hiến pháp 1959 tiếp tục được xây dựng trên nền tảng chế độ dân chủ. Các
quyền con người tiếp tục được Nhà nước bảo đảm và được mở rộng hơn. Điều 4
quy định: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dâm chủ cộng hoà đều thuộc
về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thống qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực
hành nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cơ chế tiếp nhận ý kiến góp ý, một phương thức thể hiện quyền phổ biến,
chia sẻ thông tin trong việc thực hiện quyền thông tin của công dân được hình
thành rõ nét hơn. Điều 6 quy định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân.
Cùng với quyền dân chủ, công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có
các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Điều 25 quy
định: “Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được
hưởng các quyền đó”.
23


Cơ chế bảo đảm người dân được thông tin về chính sách, pháp luật của Nhà
nước cũng được quy định thành điều khoản riêng. Điều 49 quy định: “Các đạo
luật phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày sau khi Quốc hội đã thông
qua”.
- Hiến pháp 1980 ra đời trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ bao
cấp, về cơ bản, các quy định về quyền dân chủ, quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận và các cơ chế đảm bảo cho người dân có quyền được thông tin vẫn được kế
thừa từ Hiến pháp năm 1959.

IV. Pháp luật hiện hành về quyền được thông tin của công dân và
những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện.
1. Hệ thống các quy định của pháp luật về quyền được thông tin của
công dân.
Nói đến quyền được thông tin của công dân là nói đến phạm vi người
dân có thể tiếp cận thông tin rất rộng, khó có thể phân nhóm để hệ thống hoá các
quy định của pháp luật có liên quan. Quyền được thông tin của công dân gắn với
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, chính vì vậy, trước hết quyền được thông
tin của công dân được đề cập đến rất nhiều trong các văn bản liên quan đến
quyền con người, quyền công dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đó là các
luật như: Luật Báo chí, Luật xuất bản...Tuy nhiên, không thể phủ nhận một điều
quyền được thông tin của công dân gắn liền với trách nhiệm công khai, minh
bạch hoạt động của bộ máy Nhà nước. Trong khi đó, hoạt động của bộ máy Nhà
nước được thể hiện trên ba nhánh quyền lực là quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Đây có thể coi là căn cứ để hệ thống hoá các quy định của
pháp luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Tuy nhiên, xét trên cả
ba lĩnh vực trên, việc hệ thống toàn bộ các quy định đó là việc không đơn giản.
Thiết nghĩ, bước đầu cần phải hệ thống những quy định mang tính chủ yếu,
thậm chí có tính nguyên tắc cơ bản cho việc bảo đảm quyền được thông tin của
công dân.
a. Bảo đảm quyền được thông tin của công dân trong lĩnh vực lập pháp.
24


×