Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận tài chính tiềnf tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.18 KB, 16 trang )

Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

MỤC LỤC

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 1


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

I ) Lời mở đầu .
Nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từ năm 2000 cho đến nay tương đối ổn
định. Giai đoạn 2000 – 2007 đạt mức tăng trưởng cao, những bất ổn về kinh tế
vĩ mô giai đoạn 2008 – đến nay cho thấy mô hình tăng trưởng theo chiều rộng
của Việt Nam đã đi đến giới hạn.
Liên kết kinh tế của Việt Nam với phần còn lại của thế giới chủ yếu giới hạn
trong phạm vi các quan hệ thương mại, hỗ trợ phát triển chính thức và kiều hối.
Tuy nhiên, việc chính thức gia nhập WTO và các hiệp định quốc tế khác về
thương mại và đầu tư, kết hợp với quát trình nới lỏng kiểm soát đối với hoạt
động của khu vực dân doanh trong nước đã giúp Việt Nam mở rộng và tăng
cường quan hệ kinh tế quốc tế. Dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước
ngoài gia tăng đột biến và khu vực tài chính đã mở rộng cửa hơn cho cạnh tranh
quốc tế. Một số “tròng trành” gần đây cấp quản lý vĩ mô trong thời kỳ hội nhập
sâu hơn hậu WTO.
Qua nghiên cứu đề tài “ Tình hình kinh tế vĩ mô của việt nam và những chính
sách của chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô từ năm 2000 đến nay “ chúng
tôi nhận thấy rằng nền kinh tế Việt Nam đang nóng. Bằng chứng là lạm phát vẫn
tiếp tục gia tăng, thâm hụt ngân sách và thương mại ngày càng lớn, và bong


bóng giá bất động sản ngày càng phình to. , Nền kinh tế phát triển chưa bền
vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước.
II)

Tình hình kinh tế vĩ mô .

1. Lạm phát
Không thể phủ nhận việc tăng giá dầu và một số nguyên liệu sản xuất trên thị
trường thế giới cũng như thiên tai, dịch bệnh trong nước là nguyên nhân
khách quan dẫn tới việc tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) . Tuy nhiên, lạm phát
ở Việt Nam chủ yếu xuất phát từ các nhân tố chủ quan, có tính cơ cấu của
nền kinh tế vì nếu lạm phát chủ yếu do giá thế giới tăng thì các nước khác
như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia… cũng đều phải chịu sức ép tương tự.
Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này lại thấp hơn một cách đáng kể so với
Việt Nam
Nguyên nhân chính của lạm phát là mặc dù nền kinh tế kém hiệu quả nhưng
lại phải hấp thụ một lượng vốn quá lớn . Tổng lượng vốn từ bên ngoài chảy
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 2


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 - 23 tỷ USD (tương
đương 30% GDP) . Đồng thời, tăng cung tiền, tín dụng, và đầu tư đều đạt
mức kỷ lục, trong đó một tỷ lệ rất lớn được dành cho các DN nhà nước kém
hiệu quả. Khi lượng tiền đó vào nền kinh tế quá nhiều, lại không được sử

dụng một cách hiệu quả để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ thì sẽ dẫn tới tình
trạng “quá nhiều tiền nhưng quá ít hàng”. Cụ thể là trong 3 năm (từ 2005 đến
2007), cung tiền tăng tổng cộng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%, và lạm phát
là hệ quả tất yếu.
Giai đoạn 2008 – 2012 , tính trung bình, Việt Nam đã phải chịu mức lạm phát
2 con số; lãi suất huy động và cho vay kỳ hạn 12 tháng luôn ở mức cao. Tuy
nhiên, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này lại ở mức dưới 7% so với mức
trung bình của những năm đầu thập kỷ 2000, do nền kinh tế phải chịu nhiều
cú sốc về cung. Lạm phát cao cùng với quy mô thâm hụt thương mại lớn đã
dẫn đến những lo ngại VND bị mất giá, từ đó thúc đẩy người dân và DN
chuyển đổi tài sản từ VND sang USD, khiến thanh khoản của hệ thống ngân
hàng trở nên căng thẳng. Lãi suất trên thị trường từ đó gia tăng mạnh. Những
điều này lại xảy ra cùng với việc NHNN phải thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm
phát đã khiến tình hình càng trở nên trầm trọng

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 3


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

Như vậy, chiến lược tăng trưởng dựa vào đầu tư của Việt Nam (tức là duy trì
tỉ lệ đầu tư nội địa cao hơn tỉ lệ tiết kiệm nội địa) đã đẩy nền kinh tế vượt quá
giới hạn hiện tại của nó. Vì vậy, nâng cao hiệu quả của đầu tư phải được xem
là một mục tiêu quan trọng hàng đầu trong trung hạn. Trong thời gian trước
mắt, chính phủ cần khôi phục lại sự cân bằng vĩ mô ngay lập tức bằng cách
giảm tỉ lệ đầu tư công. Đồng thời, đầu tư công cần được tập trung vào các dự
án có khả năng tháo gỡ những “nút thắt cổ chai” của tăng trưởng mà không

được phép phung phí vào những dự án tuy hoành tráng nhưng không đem lại
hiệu quả kinh tế. Chính phủ cần tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống cảng biển
và đường bộ kết nối các nhà xuất khẩu Việt Nam với thị trường thế giới.
Chính phủ cũng cần đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở, y tế cơ sở và y tế cộng đồng, cơ sở hạ tầng đô thị v.v… Không nên sử
dụng những nguồn đầu tư công khan hiếm để thực hiện các dự án mà khu
vực tư sẵn sàng tham gia như xây cầu, đường có thu lệ phí. Chính phủ cần
tìm cách khuyến khích sự tham gia của khu vực tư vào việc cung ứng các cơ
sở hạ tầng thiết yếu để có thể tăng cung, giảm chi phí, nâng cao chất lượng.

Biểu đồ lạm phát 10 năm gần đây cho thấy chỉ số lạm phát Việt Nam cao hơn
các nước như Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc…
2. Bong bóng bất động sản
So với Nhật Bản, Việt Nam có diện tích đất sinh hoạt trên đầu người lớn hơn,
thu nhập trên đầu người thấp hơn tới 50 lần, thế nhưng giá nhà đất đô thị ở
hai nước lại có khi tương đương nhau. Đây là một bằng chứng về mức độ
bong bóng của giá bất động sản ở các đô thị của Việt Nam. Không những thế,
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 4


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

giá đất vẫn tiếp tục tăng rất nhanh . Giá đất ở một số khu vực nông thôn giờ
đây cũng đã tăng nhanh một cách không thể chấp nhận được.
Tại sao giá đất lại cao và tăng nhanh như vậy? Nhu cầu thực sự của người
dân xuất phát từ quá trình đô thị hóa và mức sống gia tăng là một nguyên
nhân quan trọng. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân quan trọng nhất

vì nếu thế giá nhà đất phải tương ứng với mức thu nhập của người dân. Thế
nhưng, với giá nhầ đất ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh như hiện nay thì ngay cả
những người được coi là có thu nhập cao trong xã hội (những người phải
đóng thuế thu nhập cao, chiếm 0,4% lực lượng lao động) cũng phải tiết kiệm
30 - 40 năm may ra mới có thể mua được một căn hộ với diện tích và chất
lượng vừa phải..
Những nguyên nhân quan trọng hơn dẫn tới tình trạng bong bóng giá bất
động sản bao gồm. Thứ nhất, nguồn tiền trong nền kinh tế quá dồi dào (do
tăng cung tiền, tăng cung tín dụng đầu tư bất động sản, kiều hối, tiền tham
nhũng và thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản v.v…) trong khi đó lợi
nhuận từ đầu cơ đất đai lại hấp dẫn hơn bất kỳ một hoạt động đầu tư sản
xuất nào khác. Vì vậy, một phần rất lớn nguồn lực của nền kinh tế bị chuyển
sang mục đích phi sản xuất có tính đầu cơ và không tạo ra giá trị gia tăng cho
nền kinh tế. Thứ hai, trong khi cả nhu cầu thực, và đặc biệt, nhu cầu đầu cơ
tăng mạnh thì nguồn cung nhà và đất lại hạn chế. Tình trạng mất cân bằng
cung cầu tất yếu đẩy giá nhà đất lên cao.
Bong bóng bất động sản tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghiêm trọng đối với nền kinh
tế. Như chúng tôi đã phân tích trong Lựa chọn thành công, doanh nghiệp Việt
Nam (đáng kể nhất là các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước) đang di
chuyển nguồn lực từ các lĩnh vực kinh doanh nòng cốt sang hoạt động đầu
cơ bất động sản, một động thái chắc chắn sẽ làm suy giảm năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp này. Trong bối cảnh sản xuất trong nước gặp
nhiều khó khăn và nhà đầu tư có rất ít lựa chọn, thị trường bất động sản vẫn
là mảnh đất màu mỡ của doanh nghiệp, người dân và ngân hàng, đặc biệt khi
thị trường này còn bỏ ngỏ và chưa có biện pháp kiểm soát, dòng vốn này sẽ
tiếp tục tăng trong năm nay và những năm tiếp theo, từng bước tạo thành
bong bóng .Bong bóng bất động sản cũng gây ra những rủi ro đáng kể cho hệ
thống tài chính của Việt Nam. Nếu, và trên thực tế điều này đã xảy ra, các
ngân hàng thương mại của Việt Nam cho các nhà đầu cơ và phát triển bất
động sản vay dựa trên tài sản thế chấp là đất với giá đã được thổi phồng thì


Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 5


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

tồn tại một nguy cơ là khi giá đất “hạ cánh”, những người đi vay này sẽ mất
khả năng trả nợ. Mặc dù khi ấy ngân hàng vẫn nắm giữ các khoản thế chấp
bằng đất, nhưng với giá trị chỉ bằng một phần giá trị của khoản đã cho vay.
Hiện tượng này đã xảy ra ở Nhật vào đầu những năm 1990 gây nên những
đảo lộn trong hệ thống tài chính của nước này, và đến tận bây giờ, người ta
vẫn còn cảm nhận được dư chấn của nó.
Với những yếu kém hiện nay của hệ thống tài chính Việt Nam, rất có thể Việt
Nam sẽ chịu những tác động tương tự nhưng với hậu quả còn nặng nề hơn
so với Nhật Bản. Một thực tế hết sức đáng lo là hiện nay, hầu như không ai
biết một cách tương đối chính xác về quy mô của những khoản vay có sử
dụng đất làm vật thế chấp. Trong khi đó, thông tin chính xác và cập nhật là
một yêu cầu thiết yếu để có được những chính sách đúng đắn và hiệu quả.
3. Thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại
Như chúng ta điều biết, thâm hụt ngân sách là một vấn đề mà mọi quốc gia
trên thế giới đều gặp phải. Ngay cả một cường quốc kinh tế như Mỹ cũng
phải đau đầu và vật lộn với vấn đề này, và tất nhiên Việt Nam cũng không
ngoại lệ. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng và ngày
càng tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân cũng như tới toàn bộ nền kinh
tế. Đây chính là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gia
tăng lạm phát gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính
sách tài khóa và tiền tệ.

Qua thống kê cho thấy trong những năm trở lại đây , tỉ lệ thâm hụt ( bội chi )
ngân sách việt nam luôn ở ngưỡng 5% GDP và có xu hướng tăng lên đây là
một tỉ lệ rất cao .Theo kinh nghiệm quốc tế, ở điều kiện bình thường, thâm hụt
ngân sách 3% được coi là đáng lo ngại, còn 5% thì bị coi là đáng báo động.
Riêng năm 2009 tỉ lệ thâm hụt ngân sách lên tới 6,9% GDP . Tốc độ thâm hụt
ngân sách cũng khá cao từ 17-18% năm .Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt vào
khoảng 48,5 nghìn tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên 56,5 nghìn tỷ đồng .Và
theo kết quả của công bố dự toán NSNN năm 2010 , 2011 và 2012 thì tỉ lệ
thâm hụt ngân sách lần lượt là 5,8%GDP , 5,5%GDP và 6% , có giảm so với
năm 2009 nhưng vẫn ở mức cao . Không những thế, những khoản chi ngoài
ngân sách trong mấy năm gần đây lên tới 20 - 25% tổng ngân sách, một tỷ lệ
quá cao.

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 6


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

Dưới đây là biểu đồ thâm hụt ngân sách của việt nam qua các năm 2005-2011

Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳcông nghiệp hóa và mở cửa hội
nhập kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến vì
yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn
hạn chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp
thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và
dai dẳng cho thấy, sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô và hậu quả đối với
nền kinh tế rất trầm trọng.

Qua số liệu thống kê cho thấy từ năm 2000 đến năm 2002, cán cân thương
mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư, nhưng từ năm 2003 đến
nay cán cân thương mại liên tục ở trạng thái thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày
càng lớn .
Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến
năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003.
Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003.
Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức
thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD.
Tương tự như vậy, thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2012 ước chừng
9,6 tỷ USD, Cũng theo kinh nghiệm quốc tế, ở điều kiện bình thường, thâm

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 7


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

hụt thương mại 5 - 10% được coi là đáng lo ngại. Mức thâm hụt hiện nay của
Việt Nam có thể bị coi là đáng báo động, cần phải được xem xét thấu đáo
Dưới đây là biểu đồ cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1999 -2010 :

Nếu không có dòng vốn đầu tư và viện trợ nước ngoài đổ vào ồ ạt trong mấy
năm trở lại đây thì tình trạng thâm hụt ngân sách và thương mại ở mức độ
nghiêm trọng như thế này tất yếu sẽ dẫn tới những sự đổ vỡ trong nền kinh tế
vĩ mô. Nói cách khác, nếu vì lý do nào đó các dòng vốn này đảo chiều thì nền
kinh tế của Việt Nam sẽ đứng trước những rủi ro khôn lường.
4. Dự trữ ngoại hối

Dự trữ ngoại hối của Việt Nam thuộc loại thấp nhất trong khu vực. Câu hỏi
đặt ra cho các nhà làm chính sách là liệu mức dự trữ như vậy đã thích hợp
chưa? Một mặt, chi phí cơ hội của việc giữ dự trữ không nhỏ. Một lựa chọn
khác là giữ nợ nước ngoài, tuy nhiên lãi suất thu được hiện đang thấp hơn
mức lạm phát. Mặt khác, dự trữ ngoại hối đóng vai trò “giảm sốc”, giúp nền
kinh tế chống đỡ được các cú sốc trong thương mại quốc tế như giá hàng
xuất khẩu giảm (hay giá hàng nhập khẩu tăng), mất thị trường xuất khẩu, hay
những biến động về cầu trên thị trường quốc tế. Dự trữ ngoại hối còn giúp
“điều hòa” những biến động của các dòng lưu chuyển vốn. Điều này đặc biệt
quan trọng trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam đang bị thâm hụt thương
mại nặng nề .

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 8


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

Nếu nhập khẩu được thực hiện theo đúng kế hoạch nhưng các dòng vốn
nước ngoài lại suy giảm (hay tồi tệ hơn đảo chiều) thì việc quản lý nền vĩ mô
sẽ trở nên hết sức khó khăn.
Ghi nhận thành công lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
trong năm 2012 vừa qua là duy trì tỷ giá USD/VND ổn định ở mức 20,828
VND/USD, giữ nguyên so với mục tiêu điều hành trong năm 2012 (tỷ giá năm
2012 biến động không quá 2-3%).
Bên cạnh đó, tình hình cung – cầu ngoại tệ trong nền kinh tế tỏ ra khả quan
hơn khi Việt Nam có xuất siêu trở lại sau 19 năm (kể từ năm 1993) với 284
triệu USD; cán cân vẫn lại thặng dư sau khi đã thâm hụt trong năm 2010 –

2011, góp phần quan trọng tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể nửa đầu
năm 2012. Dự trữ ngoại tệ từ mức 9 tỉ USD hồi cuối năm 2011 đến nay đã
tăng trên 25 tỉ USD, đủ để trang trải hơn 2.4 tháng nhập khẩu. Dự trữ ngoại tệ
đã quay trở lại sau đợt sụt giảm mạnh kể từ 2008. Tất cả những điều này đã
giúp diễn biến tỷ giá USD/VND duy trì xu thế ổn định trong suốt năm 2012.

Lượng kiều hối gửi về nước ngày càng tăng cao đã rở thành một trong những
nguồn cung ngoại tệ lớn trong cán cân thanh toán của Việt Nam góp phần cải
thiện cán cân vãng lai nói riêng và phát triển nền kinh tế nước ta nói chung.
Đồng thời lượng kiều hối này cũng có tác động đáng kể đến việc điều hành
chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 9


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

5. Thất nghiệp
Có thể thấy trong nhưng năm gần đây , số người thất nghiệp ở việt nam tăng
lên với số lượng nhanh chóng , số người có được việc làm đa phần là không
đúng chuyên môn , nếu tình trạng này cứ tiếp tục xảy ra thì rất nguy hiểm cho
nên kinh tế . Bên cạnh đó còn có thể gia tăng tệ nam xã hội , gia tăng chi phí
đi kèm với thất nghiệp , ngoài ra thất nghiệp còn ảnh hưởng đến đời sống của
người dân lao động , nhất là mức sống của người dân ….
Nguyên nhân khiến người lao động bị mất việc làm là do sự suy thoái về kinh
tế toàn cầu .Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất , có doanh nghiệp
phải đóng cửa do sản phẩm làm ra không bán được , nhất là các doanh
nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy họ phải “dãn thở” khiến người lao động bị mất

việc làm.
Việt nam bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy giảm tăng trưởng toàn cầu , nhất là
kinh tế việt nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài và xuất khẩu
( đặc biệt sang hoa kì và châu âu ). Danh sách doanh nghiệp bị giải thể , phá
sản , thu hẹp sản xuất ngày càng nhiều .
Từ năm 2000-2008, việc tiếp tục kiên trì đường lối đổi mới với nhiều cải cách
mạnh mẽ, đặc biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực
dồi dào trong khu vực dân doanh. GDP liên tục tăng qua các năm và đạt
8,5% năm 2007, thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2%. Tuy nhiên, để đạt
được kết quả đó, trong giai đoạn 2003-2007 cung tiền cũng tăng cao trung
bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên 35%/năm và đạt mức cao nhất thế
giới là 53% trong năm 2007.
Báo cáo kết quả điều tra Lao động việc làm năm 2012 cho thấy tỷ lệ thất
nghiệp 9 tháng năm 2012 là 2,17%, tỷ lệ thiếu việc làm là 2,98%. Trong khi
cùng kỳ 2011, 2 con số này lần lượt là 2,18% và 3,15%.
Về con số cụ thể, thống kê cho thấy cả nước hiện có 984.000 người thất
nghiệp và 1,36 triệu người thiếu việc làm. Trong đó, người thiếu việc làm ở
nông thôn là 1,1 triệu người, cao hơn rất nhiều so với thành thị (246.000
người). Số người thất nghiệp ở khu vực thành thị là 494.000, khu vực nông
thôn là 459.000 người. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53% cao
hơn ở khu vực nông thôn với 1,55%.
Biểu đồ thất nghiệp ở việt nam từ 1989 đến 2008

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 10


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng


III)

Chính sách của nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ mô.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua cho thấy, đó không đơn thuần
là sản phẩm của một vài sai lầm chính sách nhất thời nào đó, không thể phủ
nhận vai trò của nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính
sách tài chính và tiền tệ; vấn đề an sinh xã hội; an ninh quốc phòng; chất
lượng cuộc sống… Những diễn biến vừa qua cho thấy sự cần thiết phải có
sự can thiệp của nhà nước và cơ cấu quản trị phát triển trong nền kinh tế thị
trường hiện đại, điều này không có nghĩa là thiếu tôn trọng thị trường.
1.Chính sách tài khóa của chính phủ đối với kinh tế Việt Nam.
Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định
hướng phải triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu
chính phủ và thuế khóa.s
Giai đoạn 2000 – 2007
Từ năm 2000 – 2007 nền kinh tế đã trải qua giai đoạn suy thoái và Chính phủ
đã sử dụng biện pháp kích thích bằng chính sách tài khóa. Chính phủ đã thực
hiện nhiều chính sách năng động khác nhau để kích thích kinh tế, như cải
cách thể chế kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường; mở cửa thu hút vốn
đầu tư và thúc đẩy thương mại quốc tế; đẩy mạnh tự do hóa hệ thống tài
chính và phát triển thị trường tài chính năng động...
Giai đoạn 2007 – 2008
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 11


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán

Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

Trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện quyết liệt 8 nhóm giải
pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững
và thực thi chính sách an sinh xã hội mà Nghị quyết số 10/2008/NĐ-CP ngày
17- 4-2008 đã đề ra: Trong tháng 8-2008 đã có hai lần điều chỉnh giảm giá
bán xăng và dầu hỏa, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp
và người sử dụng; tăng cường công tác thu ngân sách để bảo đảm nhiệm vụ
được giao, kết hợp với việc rà soát nợ đọng thuế, chống thất thu; tiếp tục rà
soát lại chi ngân sách, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cắt giảm, đình
hoãn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án đầu tư không có
hiệu quả; không tăng chi ngoài dự toán, dành nguồn kinh phí cho bảo đảm an
sinh xã hội; xem xét điều chỉnh giảm mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm
bình ổn thị trường, hạn chế nhập siêu...
Nhờ những chính sách tài khóa quyết liệt trên của Chính phủ mà kinh tế Việt
Nam đã có kết quả tích cực. Những biện pháp điều hành của Chính phủ đã
phát huy hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, nền kinh tế còn đối mặt với nhiều
thách thức đòi hỏi Chính phủ phải có những điều hành quyết liệt hơn nữa bảo
đảm ngăn chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô, hướng tới mức tăng
trưởng cao hơn.
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Cùng với xu hướng chung của thế giới, Chính phủ đã thực hiện các biện
pháp điều hành quyết liệt nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và
hướng tới tăng trưởng bền vững. Một trong những giải pháp chủ yếu là Chính
sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích cầu. Gói kích cầu thứ nhất đã được
triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói kích cầu thứ hai, với
tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm
kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và tạo việc
làm, đây là hai điều quan trọng nhất thể hiện khá rõ vai trò của Nhà nước
thông qua các gói kích cầu. Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các

chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác đã giúp nền kinh tế Việt
Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt
5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008), thị trường chứng
khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng
bước.
Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm
ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 12


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

lạm phát cao quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà
nước bơm vào thị trường trong các năm 2008 - 2009 để thực hiện các giải
pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp đến là nguy cơ thâm hụt cán cân
thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng nhập
siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ USD, và
năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao,
nếu tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn đến tình trạng lạm
phát kép, tức là vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro
tiềm ẩn khác trong chính sách tiền tệ là tính thanh khoản của các ngân hàng
thương mại tại thời điểm này đang được cho là có vấn đề, do các ngân hàng
thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để huy động vốn.
Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ thực hiện 6 nhóm giải pháp đồng bộ
cùng với gói kích cầu thứ hai để nâng cao hiệu quả đầu tư, trong đó, tập
trung vốn đầu tư cho phát triển các dự án, công trình có hiệu quả, có khả
năng hoàn thành đưa vào sử dụng sớm trong năm tới, thay vì mở rộng đầu tư

trong bối cảnh khan hiếm vốn, tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP cao và hệ số ICOR
cao. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần chọn lọc hơn khi triển khai gói
kích thích kinh tế bổ sung, chỉ ưu tiên hỗ trợ những ngành, lĩnh vực trực tiếp
sản xuất tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, gói kích thích
kinh tế bổ sung đặt trọng tâm vào chính sách tài khóa (chính sách thuế, tài
chính, ngân sách...) và cải cách hành chính nhằm làm cho chính sách dễ đi
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Chính sách tiền tệ của chính phủ đối với kinh tế Việt Nam.
Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường thì quá trình xây dựng chính
sách tiền tệ ở nước ta cũng xây dựng và đổi mới . Các công cụ của chính
sách tiền tệ được sử dụng một cách linh hoạt ,phù hợp với điều kiện Việt
Nam ở những giai đoạn cụ thể .
Giai đoạn 2000-2007
Chính sách về lãi suất :
Tháng 8 /2000 , cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND được chuyển
từ cơ chế lãi suất trần sang lãi suất cơ bản
Năm 2001 lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa và phù
hợp với mục tiêu CSTT

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 13


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

Từ năm 2003 , việc điều hành CSTT chuyển biến theo hướng nới lỏng một
cách thận trọng . Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần về lãi suất trần ,lãi
suất chiết khấu được điều chỉnh về lãi suất thị trường .

Cuối năm 2007 NHNN đã tăng lãi suất cơ bản , lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
tái chiết khấu nhằm thắt chặt thêm tiền tệ , qua đó kiểm soát tình hình lạm
phát đang có xu hướng gia tăng
Chính sách dự trữ bắt buộc :
Tháng 5/2001 tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15% giảm tỉ lệ dự trữ
bắt buộc bằng VND xuống 3% , tháng 11/2001 giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng
ngoại tệ xuống còn 10%.
Từ năm 2003 , các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh
NHNN , đây là bước đầu trong việc tăng cường khả nặng điều tiết tiền tệ của
công cụ này .
Chính sách về tỷ giá :
Năm 2006 tỷ giá VND/USD lần đầu tiên được được điều hành thử nghiệm
theo tỷ giá thả nổi thận trọng , có quản lý thực hiện can thiệp mua bán trao
đổi ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu điều hành .
Chính sách nghiệp vụ về thị trường :
Chính sách nghiệp vụ về thị trường ra đời 7/2000 đã góp phần điều hành vốn
khả dụng của các tổ chức tính dụng .
Từ năm 2004 , nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường sử dụng như một
công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ , không chỉ khắc phục hiện tượng mất cân
bằng ngoại tệ mà còn tạo điều kiện cho NHNN tặng dự trữ ngoại tệ.
Giai đoạn 2008- đến nay .
Sau thời gian thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát từ đầu năm
2008 đến 2009 Việt Nam áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát
giảm lãi suất để kích thích đầu tư và đưa lãi suất về gần với mức lãi suất
trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới .Đi liền với nói là tạo điều kiện
cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả , tính thanh khoản được đảm
bảo . Không để hệ thống ngân hàng ( quốc doanh và cổ phần ) , mất ổn định .
Ngân hàng nhà nước thực hiện một loạt giải pháp nhằm hướng các khoản
Tiểu luận kinh tế vĩ mô


Trang 14


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

vốn vay đúng đối tượng , triển khai các giải pháp hạn chế tình trạng thông tin
không cân bằng , giảm rủi ro lựa chọn đối nghịch , tăng tính sẵn sàng cho vay
của ngân hàng . Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc , giảm lãi suất dự trữ bắt buộc ,
giảm lãi suất hệ thống chỉ đạo
Kết quả đạt được từ chính sách tiền tệ 2009 đó là kiểm soát lạm phát từ mức
19,98% năm 2008 xuống mức 6,52% hỗ trợ tăng trưỡng kinh tế ở mức 5,2 %
và chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô
Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng
kinh tế 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao
(6,78%) nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khẩu
(25,5%) và tiêu dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24,5%); các
cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo. Trong
năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát
tình hình thực tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ

Năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt vàthận
trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô, góp phần tăng trưởng kinh tế." - Đây là một định hướng chiếnlược mới,
thay cho hỗ trợ tăng trưởng của chinh sách tiền tệ năm 2010. Các mức lãi
suất điều hành đã được điều chỉnh tăng ở mức hợp lý (lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng lên 16%/năm, lãi suất tái
cấp vốn lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu lên 13%/năm), phản ánh đúng
vai trò của NHNN là người cho vay cuối cùng. Lãi suất trên nghiệp vụ thị

trường mở được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với các mức lãi suất điều
hành, lãi suất thị trường liên ngân hàng và tình hình vốn khả dụng của hệ
thống. Trần lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam tiếp tục được duy trì ở
mức 14%/năm nhưng đi đôi với việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm.
Bước sang năm 2012, ngay từ đầu năm NHNN đã định hướng giảm lãi suất
trung bình 1%/năm mỗi quý. Tuy nhiên, với diễn biến giảm nhanh của lạm
phát và thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện, NHNN đã điều
chỉnh nhanh hơn dự kiến. Điều chỉnh giảm 5%/năm các mức lãi suất điều
hành và giảm 4%-5%/năm trần lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam. Từ
tháng 5-2012, NHNN quy định trần lãi suất cho vay đối với bốn lĩnh vực ưu
Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 15


Trường Đại Học Tài Chính – Kế Toán
Khoa Tài Chính – Ngân Hàng

tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, DN nhỏ và vừa.
Mức trần lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh giảm phù hợp với trần lãi
suất huy động, hiện ở mức 13%/năm. Ngoài ra, để chia sẻ và tháo gỡ khó
khăn cho DN và hộ dân, NHNN đã đề nghị các tổ chức tín dụng (TCTD) điều
chỉnh giảm lãi suất đối với các khoản cho vay cũ về mức tối đa là 15%/năm.
Trên thực tế, lời hiệu triệu này đã được các TCTD đồng tình và ủng hộ mạnh
mẽ, chỉ trong vòng ba tuần tỷ trọng dư nợ cho vay có lãi suất hơn 15%/năm
còn 29,1%, giảm khoảng 60% so với tỷ trọng trước ngày 15-7-2012. Đến nay,
mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm về xấp xỉ mức lãi suất năm
2007, trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu. Lãi suất huy động giảm từ 3% đến 6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 5%

đến 8%/năm so với đầu năm 2012, trong đó lãi suất cho vay đối với các lĩnh
vực ưu tiên phổ biến 10%-13%/năm, lĩnh vực kinh doanh khác và tiêu dùng
phổ biến 12%-15%/năm, các lĩnh vực không khuyến khích có lãi suất cao hơn
nhưng cũng đã giảm so với trước đây. Lãi suất cho vay giảm đã có tác động
tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn, giảm áp lực chi phí vay vốn của các DN
và hộ dân, qua đó hỗ trợ tăng tổng cầu của nền kinh tế.
III ) Kết luận
Mặc dù môi trường quốc tế đặt ra nhiều thách thức cho kinh tế VN, song do
có chính sách điều hành vĩ mô phù hợp, khá hiệu quả, cùng với sự cố gắng
vượt qua các thách thức và khắc phục những điểm yếu của các doanh
nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế nên kết quả cuối cùng đạt được khá ấn
tượng đây là cơ sở để chúng ta phấn đấu đạt tốt hơn cho năm tới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các website :
1.Báo điện tử Vietnamnet : www.vn.media.vn
2.www.infotv.vn
3.www.mof.gov.vn của bộ ngoại giao
4.cùng một số trang website khác
Do thời gian và trình độ hiểu biết có hạn nếu có gì thiếu xót chúng tôi mong thầy
góp ý và giúp đỡ để hoàn thiện thêm đề tài . Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Trang 16



×