Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

PHÂN CẤP NGÂN SÁCH GẮN VỚI ĐỔI MỚI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.77 KB, 15 trang )

PHÂN CẤP NGÂN SÁCH GẮN VỚI
ĐỔI MỚI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG ĐÔ THỊ
PGS.TS. Sử Đình Thành
Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh

Trích dẫn: Sử Đình Thành, ‘Phân cấp ngân sách gắn với đổi mới chính
quyền địa phương đô thị’, Văn phòng Quốc hội, Oxfam, Unicef, Hội
thảo Tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Ninh Thuận, 06/04/2913,

1. Đô thị hóa và những thay đổi quản lý ngân sách của chính quyền địa
phương đô thị
1.1. Mức độ đô thị hóa ở Việt Nam
Với mục tiêu đến năm 2020 về cơ bản Việt Nam trở thành quốc gia công
nghiệp. Trong bối cảnh như vậy, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm
2020 đã xác định: phải tiếp tục phát huy vai trò trung tâm hành chính, kinh tế và
văn hóa của các đô thị. Đô thị phải đi đầu trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức. Để làm được điều này, khu vực đô
thị cần được phát triển theo quy hoạch thành một mạng lưới trong đó mỗi vùng sẽ
có những thành phố hạt nhân và những thành phố vệ tinh đảm nhiệm bớt chức
năng sản xuất công nghiệp, giảm áp lực dân cư và ô nhiễm cho các thành phố lớn.
Đô thị sẽ tạo ra đòn bẩy phát triển kinh tế của cả một vùng và rộng hơn là cả đất
nước.
Theo dự báo của Tổng Cục thống kê, Bộ Xây dựng đến năm 2010: dân số cả
nước là 93 triệu người. Dự kiến dân số đô thị sẽ tăng khoảng 1,14 triệu người/năm,
đưa tổng dân số đô thị cả nước lên 30,4 triệu người chiếm 33% số dân cả nước; đất
xây dựng đô thị sẽ là 243.200 ha, chiếm 0,74% diện tích đất tự nhiên cả nước, bình
quân 80m2 /người; năm 2020: dân số cả nước là 103 triệu người, trong đó dân số đô
thị là 46 triệu người, chiếm tỷ lệ 45% số dân cả nước, bình quân tăng 1,56 triệu
người/năm; đất xây dựng đô thị sẽ là 460.000 ha, chiếm 1,40% diện tích đất tự
nhiên cả nước, bình quân 100m2/người.


1


Tốc độ thị hóa diễn ra tốc độ nhanh, điều này hàm ý cần thay đổi hàng loạt
chính sách công. Trong suốt hơn thập kỷ qua, đô thị hóa đã đặt ra nhiều thách thức
cho chính quyền địa phương như là hạ tầng xuống cấp, nạn kẹt xe, ô nhiễm môi
trường, sức ép về cung cấp dịch vụ công, gánh nặng chi tiêu ngân sách… Đô thị
hóa và tính năng động của tăng trưởng đô thị ở Việt Nam trước hết cần được nhận
thức đầy đủ bởi chính quyền trung ương - do liên quan đến đến việc xác định nhu
cầu cung cấp dịch vụ của địa phương và tài trợ gánh nặng chi tiêu cho chính quyền
đô thị. Vị trí đô thị hóa cũng là tham số quan trọng đối với chính sách tài khóa: một
vài địa phương có mức độ đô thị hóa rất thấp, cũng là địa phương nghèo nhất ở
Việt Nam. Khoảng cách giữa thành phố giàu và nghèo trong một vài địa phương là
rất lớn. Điều này hàm ý rất quan trọng cho việc thiết kế cơ chế chuyển giao giữa
trung ương và tỉnh, giữa tỉnh và các đô thị thuộc tỉnh…
Mỗi một khía cạnh đô thị hóa như: mức độ, vị trí, và quy mô đô thị có ảnh
hưởng tiềm năng đến huy động nguồn thu cho ngân sách địa phương. Chúng cũng
ảnh hưởng đến khả năng của chính quyền đô thị đối với việc tiếp cận các loại hình
tín dụng… Tuy nhiên, đo lường chính xác đô thị hóa ở Việt Nam gặp phải nhiều
khó khăn. Thực tế, sự di dân từ khu vực nông nghiệp vào các thành thị rất lớn,
nhưng cơ chế đăng ký hộ khẩu, quyền hưởng dịch vụ công và thông lệ sở hữu đất
đai… gây rất nhiều trở ngại đến việc xác định định nghĩa dân số đô thị và làm giới
hạn rất nhiều tính hữu dụng của thông tin thống kê chính thức về khuynh hướng đô
thị hóa. Theo số thống kê hiện nay cho rằng, dân số đô thị Việt Nam chiếm khoảng
32% tổng dân số, nhưng thực tế nhu cầu dịch vụ công cơ bản ở đô thị phải đáp ứng
trên 40% tổng dân số. Điều này có nghĩa là gánh nặng chi tiêu công của đô thị cao
hơn nhiều so với số thống kê. Trong khuôn khổ chính sách tài khóa, Chính phủ cần
nắm rõ dân số quốc gia được phân bổ như thế nào đối với các loại hình quy mô đô
thị. Theo đó, các loại hình nhu cầu dịch vụ và gánh nặng chi tiêu công sẽ khác nhau
giữa các loại hình quy mô đô thị, như: các khu đô thị và thành phố lớn thường đòi

hỏi cơ sở hạ tầng cần nhiều vốn hơn so với các thành phố nhỏ hơn. Những ưu tiên
về cơ sở hạ tầng cơ bản trong các thành phố nhỏ hơn có lẽ ở thành phố lớn đã được
đáp ứng đầy đủ.
Để đáp ứng thách thức đô thị hóa, chính quyền đô thị yêu cầu thiết lập một
cơ cấu của chính quyền hợp lý để cung cấp có hiệu quả và hiệu lực các dịch vụ
công cho người dân đô thị. Và ngân sách đô thị phải thực hiện tốt chức năng huy
động và quản lý vốn tài chính để cung cấp đầy đủ dịch vụ công cho địa phương.
Mức độ gánh nặng chi tiêu công sẽ tùy thuộc vào quy mô và vị trí của đô thị, mức
độ phát triển kinh tế, sức ép tăng trưởng và hiện trạng cung cấp cơ sở hạ tầng.

2


1.2. Chính quyền đô thị và quản trị đô thị
Phải nói rằng xây dựng mô hình chính quyền đô thị ở Việt Nam gặp phải
không ít những khó khăn nhất định bởi tính đa dạng và không đồng bộ về cơ cấu
kinh tế - xã hội của các địa phương trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Vì thế xây
dựng mô hình đô thị ở Việt Nam cần chú trọng giải quyết đồng bộ các vấn đề sau:
(1) Mô hình chính quyền đô thị là mô hình tập trung quản lý. Trách nhiệm
quản lý của chính quyền đô thị thường được tập trung vào cấp thành phố, cấp còn
lại chỉ là cánh tay nối dài, chứ không phải một cấp quyền lực khác. Cấp cơ sở chỉ
quản lý hành chính dân cư thôi, đặc biệt không tham gia quản lý kinh doanh quá
nhiều như hiện nay. Muốn xây dựng chính quyền đô thị phải thay đổi cách quản lý
hộ khẩu. Vai trò của lực lượng kinh tế và thị trường trong việc định hình nhập cư
ngày càng gia tăng. Nhập cư được xem như là cơ chế đô thị hóa và phát triển kinh
tế ở Việt Nam. Cách quản lý hộ khẩu như hiện nay cũng không thể ngăn dòng nhập
cư vào các đô thị. Có thể thay một số chức năng của sổ hộ khẩu bằng thẻ an sinh xã
hội như một số nước đi trước. Thông tin về mỗi cá nhân đã nằm trong bộ lưu dữ
liệu của chính quyền. Chỉ cần đưa thẻ an sinh với mã số riêng vào máy là biết được
tên tuổi, quê quán, tình trạng lao động, khi cần thiết có thể truy cập đầy đủ thông

tin cá nhân.
(2) Xuất phát từ đặc điểm hiện nay về cơ chế hành chính của Việt Nam, xây
dựng mô hình chính quyền đô thị cần xử lý mối quan hệ giữa chính quyền trung
ương - chính quyền đô thị và giữa chính quyền đô thị - các thành phần khác trong
đô thị. Trước hết là mối quan hệ giữa trung ương - đô thị. Điểm mấu chốt trong mối
quan hệ này nằm ở sự phân quyền. Có lẽ Chính phủ chỉ nên đóng vai trò là “người
điều phối” tạo ra các khuôn khổ pháp lý và quản lý cơ bản mà thôi. Chính phủ cần
phân quyền mạnh mẽ hơn nữa cho các chính quyền đô thị như mô hình phi trung
hóa của Oates (1972) và mô hình phân cấp tài khóa. Trong nhiều nhiệm vụ quản lý
đô thị trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, quản lý kinh tế, qui hoạch... lại càng có
những đặc thù riêng so với vùng nông thôn. Do đó, cần có sự phân cấp mạnh mẽ
hơn nữa giữa đô thị và trung ương để làm sao chính quyền đô thị chủ động hơn nữa
nhằm phát huy được những tiềm năng về kinh tế tài chính, nguồn lực của xã hội.
Chẳng hạn, chế độ đãi ngộ nguồn nhân lực thì đô thị cần trao quyền cho đô thị để
thu hút nhân tài vào bộ máy nhà nước, các doanh nghiệp, các cơ quan sự nghiệp
như giáo dục, y tế... hoặc có những cơ chế cần đột phá như đấu giá quyền thu phí
các con đường mà Nhà nước đầu tư; hoặc thẩm quyền ra quyết định đầu tư nhằm
tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư. Thứ hai là
mối quan hệ giữa chính quyền đô thị - các thành phần khác trong đô thị. Xem sự
vận hành của các chính quyền địa phương (cả đô thị và nông thôn) trong thời gian
qua chúng ta đều thấy đây chỉ là các chính quyền trung ương thu nhỏ mà thôi. Vì
vậy, muốn tiến lên phía trước, có lẽ các chính quyền đô thị trong tương lai phải
3


thay đổi triết lý lãnh đạo của mình, cần xem việc đưa thành phố phát triển đi lên là
sự nghiệp của mọi thành phần trong thành phố. Những mục tiêu kinh tế, văn hóa và
xã hội sẽ đi theo con đường “từ dưới lên” chứ không còn là “từ trên xuống” như
trước đây nữa (Mô hình của Stigler, 1957). Như vậy nhiệm vụ của chính quyền đô
thị trong tương lai là phải thiết kế các cơ chế mới để làm sao tạo được sự tham gia

của mọi thành phần vào việc phát triển đô thị (Mô hình quản lý công mới hay NIE).
Chính quyền đô thị cần thiết chế hóa sự tham gia của mọi thành phần vào các quyết
sách liên quan đến ngân sách của thành phố. Theo đó, mỗi năm các công dân của
thành phố được mời gọi tham gia hai cuộc hội nghị để cùng thảo luận và chọn ra
năm vấn đề bức thiết nhất của thành phố để đầu tư, trên danh sách các vấn đề mà
thành phố đưa ra.
(3) Chính quyền đô thị là mô hình quản lý hành chính dựa trên đặc thù của
đô thị, có sự phân biệt rõ rệt với nông thôn, đào tạo và phát huy nguồn lực con
người đến mức tối đa. Bộ máy quản lý của chính quyền đô thị phải quy tụ nguồn
nhân lực được đào tạo bài bản, ưu tú cả về tài năng và đạo đức, gây ảnh hưởng tốt
đến lối sống của toàn xã hội. Thủ tục hành chính được tinh giản triệt để, số công
chức được tinh giản. Sự tinh giản thủ tục hành chính, tinh giản công chức dựa trên
sự tinh giản các cấp trung gian quản lý, mà công nghệ thông tin là phương tiện của
việc này. Ngân sách cho bộ máy hành chính cồng kềnh như hiện nay sẽ được tập
trung cho những công chức xứng đáng được tuyển chọn minh bạch.
(4) Thị trưởng là người đứng đầu và có quyền lực cao nhất trong địa phương
và người dân bầu theo cơ chế dân chủ trực tiếp hay đại diện. Cơ chế người dân
trực tiếp bầu thị trưởng được tiến hành bằng việc có nhiều hơn một ứng viên do tổ
chức Đảng, tổ chức xã hội tiến cử qua nhiều vòng tranh cử nội bộ trình bày chương
trình hành động của mình, tiến hành vận động tranh cử thông qua nhiều hình thức
khác nhau. Trên cơ sở đó, người dân bỏ lá phiếu chọn ra người tài năng nhất. Các
vị thị trưởng đắc cử qua bầu cử trực tiếp, công khai, minh bạch này thường là
những người có tài năng, uy tín. Dân chủ trực tiếp bao gồm cơ chế người dân trực
tiếp bầu thị trưởng là mức phát triển cao của dân chủ.
(5) Cần thiết xây dựng điều luật sát với thực tiễn của các đô thị, không thể sử
dụng một bộ luật chung, áp dụng trên tất cả các vùng miền khác nhau, từ nông
thôn cho tới đô thị. Cần xây dựng một luật áp dụng các đô thị chung chi phối các
đô thị, trong đó các đô thị loại một, loại hai, ba... Không nên áp dụng chung một
mặt bằng trong khi phát triển kinh tế xã hội, quản lý khác nhau giữa đô thị và nông
thôn.

1.3. Mối quan hệ quản trị đô thị và quản lý ngân sách đô thị

4


Đô thị hóa và cải cách cơ cấu trong suốt thời gian chuyển đổi kinh tế làm nẩy
sinh nhu cầu mới đối với hệ thống chính quyền địa phương ở Việt Nam. Những
thay đổi này chưa từng xảy ra trong lịch sử, đó là: (i) tạo ra nhiều chức năng cho
chính quyền địa phương; (ii) gia tăng quy mô trách nhiệm đang tồn tại; (iii) đặt ra
sức ép phải tái phân phối trách nhiệm giữa các cấp chính quyền dựa trên nền tảng
chi phí và hiệu quả phân phối. Đô thị hóa và thay đổi cơ cấu trong bối cảnh kinh tế
thị trường tạo ra nhiều khuynh hướng phát triển ở cấp đô thị ở Việt Nam thông qua
tác động đến sự phân quyền, cơ cấu và trách nhiệm chức năng của chính quyền đô
thị. Và sự đổi mới quản trị đô thị và quản lý ngân sách đô thị cần quan tâm đến các
khuynh hướng này, đó là:
Các khu ngoại ô có khuynh hướng gắn kết vào các đô thị trung tâm:
Khuynh hướng này có thể diễn ra ở các cấp địa phương đô thị khác nhau.
Các dịch vụ công được cung cấp từ các đô thị sẽ tạo ra ngoại tác tích cực cho các
khu ngoại ô kế cận. Điều này có tác động trực tiếp đến chính sách thu đối với các
dịch vụ công khi thuế không tính đến lợi ích ngoại tác một cách hiệu quả bằng thu
phí tính cho người hưởng thụ.
Các đô thị có khuynh hướng tự chủ hơn:
Khuynh hướng này một mặt cho phép sự tham gia của người dân vào công
việc của chính quyền, mặt khác nó cho phép giải quyết các mâu thuẫn phát sinh
trong các hệ thống chính trị trước đây. Xu hướng tự do hóa chính trị ở tầm địa
phương được dẫn đặt bởi các lý lẽ đặt nặng mục tiêu hiệu quả kinh tế: do địa
phương là thực thể cung cấp trực tiếp hàng hoá và dịch vụ công cũng như là người
trực tiếp can thiệp và phản ứng linh hoạt trước các thay đổi của thị trường. Do đó
làm phát sinh ra yêu cầu phải có sự độc lập tương đối, tách biệt ở mức độ nào đó
khỏi sự phụ thuộc vào chính quyền cấp trên.

Nhu cầu dịch vụ đô thị gia tăng:
Nhu cầu các dịch vụ cơ bản tạo ra sức ép mà chính quyền đô thị phải đối mặt
không phải là từ dân di cư vào đô thị mà là từ các hộ gia đình ở khu ngoại ô thực tế
có tham gia vào kinh tế đô thị. Các đô thị còn là trung tâm cho những người dân từ
địa phương lân cận tới lui và sử dụng dịch vụ công ở đây. Trong tương lai, điều này
hàm ý quan trọng cho cả gánh nặng chi tiêu đô thị và nguồn thu mới tiềm năng.
Chức năng hàng đầu của chính quyền là cung cấp các hàng hoá và dịch vụ
công mà một trong những yếu tố tiên quyết là phải phát triển trên cơ sở hạ tầng. Ở
các đô thị nước ta thời gian qua chính quyền địa phương và cả chính phủ cũng đã
có những cố gắng đầu tư cho lĩnh vực này kết quả đạt được theo đánh giá chung là
5


không được cải thiện bao nhiêu, thậm chí có mặt tiếp tục bị xuống cấp. Trong
những yếu kém của kết cấu hạ tầng thì gay gắt nhất vẫn là các vấn đề giao thông,
cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải. Rõ ràng, vần đề cải thiện và phát triển
kết cấu hạ tầng của nước ta hiện nay có một ý nghĩa rất lớn không những về mặt
kinh tế mà còn cả về mặt xã hội.
Song song với các vấn đề kinh tế, những vấn đề xã hội của đô thị cũng cần
phải được chú trọng và cải thiện. Cải thiện mức sống xã hội của đô thị liên quan
đến khá nhiều việc như: nạn thất nghiệp đô thị, nhà ở cho những người có thu nhập
khá thấp, tình trạng di dân tự do từ nông thôn vào các đô thị làm những công việc
phi chính thức chưa kiểm soát được... Đây là những vấn đề cốt lõi của đô thị Việt
Nam và kết hợp với những thách thức chung đối với đô thị và sự phát triển của đô
thị trong tình hình mới, làm phát sinh yêu cầu cấp thiết với chính quyền đô thị nói
riêng và chính quyền các cấp nói chung nhằm xây dựng đô thị thực sự bền vững.
Các doanh nghiệp thường lựa chọn địa điểm hoạt động ở các đô thị do nhiều
lợi thế về sản xuất, về thị trường, về lao động, về thị trường hay về thông tin:
Sự phát triển của đô thị phải dựa trên việc tăng cường các yếu tố lợi thế
nhằm khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát triển sản xuất - kinh doanh.

Trong các hành động nhằm hướng đến việc tăng cường lợi thế của đô thị, yếu tố
quan trọng là nâng cao chất lượng công tác quản lý và những chính sách liên quan
đến sự phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở và các dịch vụ công cộng; hướng đến việc
tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi đối với doanh nghiệp.
Các đô thị sẽ bị chi phối bởi quá trình toàn cầu hóa:
Trong quá trình toàn cầu hóa, các đô thị mang tính toàn cầu hóa với tư cách
là một địa điểm được định vị với các đường ranh giới rõ ràng, song được hòa vào
dòng chảy toàn cầu, ví dụ như dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ quyết
định của các công ty đặt trụ sở tại các thành phố cụ thể, cũng như dòng người đến
làm việc cho các công ty này hoặc đến thành phố để kinh doanh và luồng hàng hóa,
dịch vụ mà các công ty này sản xuất ra khi họ đã quyết định đặt trụ sở ở một thành
phố cụ thể nào đó. Một thành phố trong bối cảnh toàn cầu sẽ thu được lợi ích từ
những đặc tính bản địa của mình. Các nhà chính trị và chính quyền đô thị sẽ quan
tâm đến việc đem lại giá trị địa phương cho công dân mình, phản ứng với các sự
kiện toàn cầu có ảnh ưởng tới thành phố và lập các chiến lược để thành phố thích
hướng tốt nhất.
2. Những thay đổi quan trọng trong quản lý ngân sách đô thị ở Việt
Nam

6


2.1. Một số nhận định tổng quan
Quy mô, phạm vi, vị trí và khuynh hướng gia tăng nhu cầu chi tiêu công đô
thị ảnh hưởng trực tiếp đến thay đổi quản lý ngân sách ở cấp quốc gia cũng như
ngân sách của các cấp chính quyền đô thị. Đồng thời, nhu cầu chi tiêu và nguồn tài
trợ yêu cầu phải thay đổi thiết kế chuyển giao tài khóa, các quy định tiếp cận tín
dụng đô thị. Hiện tại quản lý ngân sách đô thị Việt Nam có những khó khăn:
Nhu cầu tài khóa đô thị khó tính toán đầy đủ:
Quy mô và tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam nói chung tính toán không đầy đủ

do chủ yếu dựa vào hệ thống đăng ký hộ khẩu. Các tiêu chí pháp lý thiết kế đô thị
được thiết kế ở mức chuẩn cao hơn các nước khác, và mô hình phát triển đô thị hơn
2 thập kỷ qua trong đó những khu vực nông thôn đã được công nghiệp hóa và được
quy tụ vào những thành phố như là vùng ngoại ô hay sự mở rộng gần các khu đô
thị. Cũng có thể nhận thấy rằng, cả chính quyền trung ương và chính quyền đô thị
đều thừa nhận sự khác biệt giữa sự gia tăng đô thị thực tế và gia tăng đô thị được
định nghĩa theo quản lý vì hai lý do. Thiếu đi hệ thống an sinh xã hội hoạt động đầy
đủ các chức năng trong các vùng nông thôn – và tiêu chuẩn khác nhau trong dịch
vụ y tế và giáo dục – nghĩa là chấp nhận số lượng lớn các hộ gia đình có hộ khẩu
nông nghiệp nhập vào hệ thống đô thị chính thức. Điều này kéo theo gia tăng gánh
nặng chi tiêu ngân sách đô thị và một khi các đô thị bắt đầu phải gánh vác thêm các
khoản chi tiêu không mong đợi đối với người dân đô thị bị thất nghiệp do suy thoái
kinh tế. Thứ hai, về kiểu mẫu không gian phát triển đô thị, nhiều đô thị đã hấp thụ
các vùng vượt qua ngoài địa giới hành chính. Ảnh hưởng thay đổi địa giới là làm
gia tăng nhu cầu chi tiêu dịch vụ công. Đất đai nông nghiệp thu hẹp dần và biến
thành các khu công nghiệp, đất dự án... Hiện tại các cấp chính quyền đô thị Việt
Nam đang đối mặt nhiều thách thức để đáp ứng sự thay đổi địa giới và quản lý, đó
là giảm bất bình đẳng và không hiệu quả cung cấp dịch vụ công và cải thiện năng
lực tài chính của họ.
Sự công bằng không thể đạt được trừ khi tất cả người dân đô thị được hỗ trợ
tiếp cận công bằng dịch vụ công:
Vấn đề quan trọng mà chính quyền đô thị cần phải đáp ứng đầy đủ dịch vụ
công cho người dân trong tiến trình đô thị hóa. Đây là khía cạnh công bằng xã hội.
Trong vòng một thập kỷ tới thì gần ½ dân số trên thực tế là đô thị. Nếu như quyền
tiếp cận dịch vụ công cứ tiếp tục được quản lý bằng hộ khẩu, thì gần 40% dân số sẽ
bị từ chối tiếp cận đến các dịch vụ này. Trong khi vấn đề này liên quan đến chính
trị và ổn định xã hội.
Quy mô đầu tư công để cung cấp dịch vụ đô thị có giới hạn:
7



Nếu như các đô thị cung cấp đầy đủ dịch vụ cho người dân, thì họ phải gia
tăng đáng kể nguồn vốn và chi tiêu thường xuyên nhằm đáp ứng hàng loạt dịch vụ
xã hội và cơ sở hạ tầng. Những đầu tư hiện tại trong các dự án đầu tư công là
không đầy đủ. Hầu hết các dự án hiện tại được thiết kế và thực hiện ở quy mô đều
nhỏ hơn so với nhu cầu thực tế. Điều này dẫn đến kết quả là: giảm đi chuẩn dịch vụ
nều như tất cả người tiêu dùng được cung cấp hoặc là loại trừ một phần dân cư từ
việc tiếp cận dịch vụ công. Nếu như các đô thị đáp ứng nhu cầu trong giới hạn hiện
tại của hệ thống tài khóa, thì họ sẽ cần: (i) xã hội hóa đầu tư công; (ii) tối đa hóa
hiệu quả chi phí đầu tư công; và (iii) đẩy mạnh sự lưu chuyển các nguồn vốn đầu tư
của xã hội.
Nhu cầu và năng lực tài khóa khác nhau rất đáng kể theo các quy mô đô thị,
bối cảnh khu vực và mức độ phát triển kinh tế của đô thị:
Ở Việt Nam, có sự khác nhau rất lớn về quy mô các đô thị, phân phối không
gian, mức độ phát triển kinh tế và năng lực tài khóa. Điều này có ý nghĩa trực tiếp
các loại hình chính sách tài khóa mà Bộ Tài chính xem xét cho các đô thị. Sự mở
rộng gánh nặng chi tiêu đô thị và lựa chọn nguồn thu để đáp ứng nhu cầu sẽ khác
nhau đáng kể tùy thuộc vào quy mô đô thị và mức độ phát triển kinh tế đô thị.
Phạm vi lựa chọn nguồn thu sẽ khác nhau: các đô thị nhỏ hơn và ít phát triển
kinh tế sẽ không hưởng thụ lợi ích trực tiếp từ những thay đổi một số khoản thuế
được phân chia. Sự tiếp cận thị trường tín dụng có thể chỉ được thực hiện bởi các
thành phố lớn và hầu hết là chỉ dành cho những dự án có khả năng thu hồi phí. Dân
số đô thị ở Việt Nam bị phân tán rất nhiều, và không có địa phương nào được đô thị
hóa ở mức cao với sự tập trung tất cả dân số đô thị vào trong thành phố duy nhất.
Điều này làm cho việc thiết kế chuyển giao tài khóa công bằng từ trung ương đến
tỉnh hoặc từ tỉnh đến quận/huyện có những thách thức nhất định.
2. Vấn đề phân định nhiệm vụ chi của chính quyền đô thị
Xét ở góc độ quản lý ngân sách, những đặc điểm của đô thị được phản ảnh
qua quy mô và tính phức tạp của chi tiêu ngân sách. Chính quyền đô thị phải có
năng lực tài khóa lớn hơn so với chính quyền nông thôn và do vậy phải có quyền tự

chủ tài chính lớn hơn để thực hiện trách nhiệm cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
cho xã hội đô thị.
Không thể đồng nhất nhiệm vụ chi tiêu của chính quyền đô thị và chính
quyền địa phương nói chung. Làm như vậy sẽ dẫn đến thất bại về thể chế. Nhiều
quốc gia trao quyền cho chính quyền đô thị lớn thực hiện các quyền lực chi tiêu
ngân sách như là quyền lực của một bang hay một quốc gia. Lý thuyết vai trò của
chính quyền địa phương thì không phân biệt giữa đô thị và nông thôn, giữa thành
8


phố có quy mô lớn và quy mô vừa. Tất cả các chính quyền địa phương là không
như nhau. Chỉ có số lượng và quy mô dịch vụ công giữa các chính quyền là khác
nhau.
Với sự tập trung về quy mô, tính đa dạng của xã hội đô thị và là trung tâm
thu hút các lực lượng kinh tế, chính quyền đô thị nói chung có trách nhiệm cung
cấp nhiều dịch vụ hơn so với chính quyền nông thôn. Với cách phân loại chi tiêu
theo Luật Ngân sách nhà nước 2002 không phản ảnh rõ chức năng được phân định
cho chính quyền đô thị. Theo chúng tôi, nhiệm vụ chi của chính quyền đô thị cần
tập trung vào :
 Cơ sở hạ tầng, giao thông;
 Nguồn nhân lực có trình độ cao;
 Các thiết chế về văn hóa (công viên, giải trí, nhà hát…);
 Điện, nước, xử lý nước thải, thu gom rác;
 Cảnh sát và lực lượng phản ứng nhanh;
 Phòng cháy chửa cháy;
 Nhà ở, chăm sóc y tế…
Sự tập trung cao nhu cầu đặc biệt trong đô thị, nó đòi hỏi chính quyền quyền
đô thị phải thiết kế một chính sách chi tiêu công hợp lý. Những đô thị lớn, nơi quy
tụ nhiều doanh nghiệp, thì chính quyền đô thị cần chú trọng tăng cường đầu tư vào
cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, phát triển mạng lưới giao thông và bưu

chính viễn thông. Các đô thị còn phải cung cấp các dịch công liên quan đến nâng
cao chất lượng cuộc sống, mà có tính chất thu hút các nguồn lực con người từ các
địa phương khác quy tụ vào để phục vụ cho phát triển kinh tế, thương mại của đô
thị. Do vậy, các khoản chi tiêu về phát triển các thiết chế văn hóa, giao thông, điện
nước, môi trường... cần được chú trọng hơn. Sự tập trung càng cao về những nhu
cầu đặc biệt trong đô thị cũng đòi hỏi chi tiêu càng nhiều các dịch vụ xã hội, dịch
vụ nhà ở, dịch vụ chăm sóc y tế, chống đói nghèo. Tập trung dân số càng cao nghĩa
là dịch vụ cảnh sát càng chú trọng đặc biệt hơn. Mật độ dân số càng dày thì nhu cầu
chi mua sắm trang thiết bị phòng cháy chữa cháy càng lớn...
3. Nguồn thu của ngân sách tỉnh/thành phố
Nói chung, nguồn thu khả dụng của chính quyền đô thị nên phản ảnh trách
nhiệm chi tiêu được yêu cầu để thực hiện đúng nguyên tắc: nguồn tài chính của
9


chính quyền đô thị tương xứng với trách nhiệm mà luật pháp quy định. Nói khác đi,
có mối quan hệ giữa nhiệm vụ mà chính quyền đô thị thực hiện và nguồn tài chính
khả dụng đối với họ.
Trong quyền hạn thu ngân sách đô thị, cũng tương đương với ngân sách cấp
tỉnh, đô thị được quyền thu một số khoản và giữa lại 100%, một số khoản thu điều
tiết với ngân sách trung ương và ngân sách cấp dưới và bổ sung từ ngân sách trung
ương. Ở đây, kết hợp với những tính chất đặc thù của đô thị, đề tài đưa ra các
khuyến nghị nhằm mở rộng nguồn thu cho ngân sách như sau:
Tối đa hóa nguồn thu riêng của địa phương (nguồn thu 100%)
Nguồn thu riêng của đô thị là nguồn thu mà chính quyền đô thị được trọn
quyền sử dụng. Nguyên tắc thiết kế nguồn thu riêng của địa phương gắn liền với
việc phân định cung cấp dịch vụ đô thị: (i) đảm bảo sự cung cấp hàng hóa công của
chính quyền địa phương cho dù chính quyền cấp trên có thay đổi chính sách
chuyển giao tài khóa; (ii) trách nhiệm tốt nhất đối với số lượng và chất lượng hàng
hóa công cung cấp cho địa phương; (iii) hiệu quả cao nhất trong việc cung cấp hàng

hóa và dịch vụ trên cơ sở so sánh lợi ích và chi phí; (iv) cải thiện trách nhiệm ra
quyết định tài chính của chính quyền đô thị. Phù hợp với mô hình lợi ích của tài
chính địa phương, ai là người nộp thuế hoặc trả phí để tài trợ cho chính quyền địa
phương thì người đó được quyền thụ hưởng các khoản chi tiêu của chính quyền địa
phương. Nghĩa là những khoản thu đó là địa phương được hưởng trọn, không có
điều tiết hay phân chia.
Tong các khoản thu mà ngân sách đô thị được hưởng 100%, sự biến động có
thể xảy ra như sau:
 Các khoản thu về bán nhà sở hữu Nhà nước, tiền chuyển quyền sử
dụng đất thường không ổn định do những biến động bất thường của thị trường
bất động sản.
 Các khoản thu như tiền như phạt hành chính, tiền viện trợ không hoàn
lại, tiền đóng góp tự nguyện của tổ chức và cá nhân thường không ổn định.
 Tiền huy động vốn, tiền vay có khả năng và tiềm lực gia tăng nhưng
lại đòi hỏi rất nhiều yếu tố kèm theo. Giải pháp về tăng huy động từ nguồn này
rất phức tạp.
 Phí và lệ phí là nguồn thu nhưng hiện nay còn tồn tại các bất hợp lý.
Do vậy, để mở rộng nguồn thu và quản lý chặt chẽ nguồn thu đối với những
khoản mà đô thị được hưởng trọn, theo chuyên đề cần chú trọng đến hai nguồn có
10


khả năng mở rộng nhiều hơn cả, đó là phí, lệ phí. Nghị định 57/2002/NĐ – CP
ngày 03/06/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí,
đô thị được áp đặt và thu các loại phí gắn với đất đai, tài nguyên và chức năng quản
lý hành chính Nhà Nước của chính quyền. Theo đó, thì đô thị có thể thu được gần
20 loại phí và lệ phí trong đó có 10 loại phí, lệ phí đặc thù của địa phương và 10
loại thuế phổ biến – chỉ được thu trong thẩm quyền do đô thị quản lý. Trong khi đó,
nếu xét về tổng số, cả nước hiện có 227 khoản thu phí và lệ phí các loại. Do vậy,
phạm vi thu phí và lệ phí của đô thị là quá ít. Một số khoản phí và lệ phí thuộc về

phạm vi chức năng của địa phương nhưng lại do Bộ Tài chính quy định và thu vào
ngân sách trung ương. Vả lại, do tính chất đặc thù của đô thị, nhiều hoạt động, đối
tượng có thể thu được phí nhưng hiện nay chưa được chú ý. Do vậy, để mở rộng
nguồn thu cho ngân sách đô thị cần phải:
 Phân chia lại các loại phí hiện có giữa trung ương và địa phương sao
cho những khoản thu này phản ánh thực sự chức năng quản lý Nhà Nước của
chính quyền đô thị; những khoản thu này phải được chính quyền xây dựng dựa
vào mặt bằng chung của đối tượng thu.
 Chính quyền đô thị nên nghiên cứu và đưa ra một số loại phí đặc thù
đối với đô thị. Phí đặc thù đối với đô thị là một trong những giải pháp được áp
dụng rất nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một loại phí mà nguồn thu của nó
được xác định rõ cách sử dụng. Ví dụ như dành để xây dựng đương giao thông
hay dùng cho mục đích liên quan đến bảo vệ môi trường... phí đặc thù cũng là
một nguồn thu đáng kể đối với ngân sách địa phương.
 Hợp lý hóa và hợp nhất cơ cấu thuế và phí hiện tại về đất đai và công
trình xây dựng vào thành một khoản thuế tài sản hàng năm có thể tồn tại lâu dài,
liên quan đến chính sách sử đất.
Về nguyên tắc, phí là công cụ cơ bản mà chính quyền đô thị sử dụng để cung
cấp dịch vụ đô thị một cách hiệu quả. Người sử dụng dịch vụ đô thị nhận thức rất
rõ chi phí của dịch vụ và có thái độ lựa chọn, đánh giá chất lượng dịch vụ. Sử dụng
dịch vụ gắn với phí người hưởng lợi (Beneficiary charges) sẽ cung cấp tín hiệu thị
trường cho chính quyền đô thị về cái gì mà người dân có nhu cầu. Phí người hưởng
lợi bao gồm phí người sử dụng (Users fees), lệ phí cấp giấy phép, bằng lái xe....
Bên cạnh hình thức thu phí người sử dụng, đối với các đô thị ở nước ta, nhất
là các đô thị đã được phân cấp đặc biệt như Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh thì việc
nghiên cứu sử dụng một cách có hệ thống các loại phí đặc thù là hết sức cần thiết,
vì nó sẽ tạo ra nguồn thu thu khá lớn cho ngân sách đô thị dùng để giải quyết
những vấn đề bức xúc trong sự phát triển của thực thể này như: ách tắc giao thông,
ô nhiễm môi trường, cung cấp các dịch vụ hạ tầng cơ bản... Việc sử dụng thành
11



công các loại phí đặc thù sẽ nâng cao đáng kể năng lực quản lý đô thị. Tính thuyết
phục của việc thiết lập các quy định về thu phí đặc thù còn thể hiện ở chỗ do chúng
là các khoản thu được xác định rõ cách sử dụng nên dễ tạo ra được sự chấp thuận
của đối tượng thu phí.
Đối với nguồn thu phân chia với trung ương
Các khoản thu phân chia với trung ương của ngân sách đô thị hiện nay được
quy định khá chi tiết trong Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi năm 2002. Phân chia
nguồn thu liên quan trực tiếp đến khả năng tài chính của mỗi cấp ngân sách, ảnh
hưởng đến tính năng động, tích cực và chủ động của địa phương trong công tác
động viên nguồn thu nói riêng và cân đối ngân sách nói chung. Nếu địa phương
được phân định những nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa
bàn thì cơ chế phân định nguồn thu sẽ kích thích địa phương tích cực trong nuôi
dưỡng, phát triển và khai thác nguồn thu. Hiện tại cả nước có tất cả 63 tỉnh - thành,
nhưng chỉ có 13 tỉnh - thành tự cân đối được ngân sách. Như vậy, số tỉnh - thành
được hưởng trọn 100% nguồn thu phân chia giữa trung ương và địa phương là 50
trong trường hợp này, khái niệm “tỷ lệ điều tiết” không còn ý nghĩa.
Do vậy, để tăng nguồn lực tài chính cho địa phương, khắc phục những hạn
chế của cơ chế điều tiết hiện hành thì cần thiết phải xem xét giảm dần các khoản
thu phân chia giữa trung ương với địa phương, chuyển thành khoản thu 100% cho
địa phương phù hợp với việc nâng cao năng lực quản lý, tính trách nhiệm và minh
bạch. Theo chúng tôi, Thuế thu nhập cá nhân có thể là khoản thu đầu tiên nên
chuyển thành khoản thu 100% của địa phương. Một khi Thuế thu nhập cá nhân
được chuyển thành khoản thu 100% của địa phương thì sẽ thúc đẩy địa phương
quan tâm quản lý nguồn thu một cách chặt chẽ hơn, chú ý nhiều đến khu vực kinh
doanh, tăng trưởng kinh tế để nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu. Khả năng gia
tăng nguồn thu của sắc thuế này là khả thi nếu được quản lý tốt.
Cần triển khai từng bước cơ chế trao quyền tự chủ cho địa phương. Trước
mắt nên áp dụng thí điểm cho phép địa phương được tự quyết định thuế suất một số

loại thuế gắn với địa phương. Điều này là hợp lý, bởi vì chính quyền địa phương
nắm chắc được năng lực tài chính và nhu cầu của người nộp thuế nên có thể định ra
các mức thuế phù hợp với đặc thù của địa phương. Theo đó, những địa phương có
tiềm năng về một loại thuế nào đó có thể tăng thuế suất để tăng nguồn thu cho địa
phương. Cơ chế này sẽ khuyến khích địa phương nuôi dưỡng và phát triển nguồn
thu ngân sách địa phương. Theo nguyên lý chung, việc trao quyền tự chủ cho địa
phương nên tập trung vào một số loại thuế có đặc trưng sau đây:
- Cơ sở thuế cố định;

12


- Gánh nặng thuế chủ yếu chuyển giao cho những dân cư ở chính địa
phương đó;
- Quản lý đơn giản; và
- Khoản thu thuế ổn định và có thể dự báo.
Dựa vào những tiêu chí trên, trong thời gian tới có thể giao quyền nhiều hơn
cho địa phương về các sắc thuế như: thuế nhà đất và thuế chuyển quyền sử dụng
đất. Mặc dù Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã phân định các loại thuế trên
cho ngân sách địa phương hưởng 100%, song quyền định thuế suất vẫn thuộc về
trung ương. Nếu chuyển quyền quyết định thuế suất các khoản thuế này cho địa
phương thì vai trò của địa phương đối với các loại thuế này sẽ được nâng cao, từ
chỗ không có quyền thành có quyền tự chủ. Và để kiểm soát sự chênh lệch mức
thuế giữa các địa phương, chính phủ có thể đặt ra giới hạn trần về mức thuế suất.
Lý lẽ biện minh cho mức trần thuế suất là giúp cho chính phủ ngăn ngừa không cho
các địa phương có những hành vi thiếu minh bạch. Giải pháp chính quyền trung
ương áp đặt thuế suất trần trong quá trình chuyển đổi từ tập trung hóa sang phi tập
trung hóa là cần thiết vì nó cho phép chính quyền địa phương phát triển chính sách
và năng lực quản lý. Nhưng khi kinh tế phát triển hơn, khả năng quản lý của địa
phương được nâng cao thì không nên kéo dài chính sách thuế suất trần. Vì khi các

chính quyền địa phương điều chỉnh thuế suất đạt mức trần, thì vô hình chung địa
phương mất quyền tự chủ vì họ không thể tăng thuế quá giới hạn đó. Về phía mình,
các chính quyền địa phương cũng phải củng cố và phát triển năng lực của mình để
có thể sử dụng hiệu quả quyền lực được giao. Giải pháp này thúc đẩy địa phương
quan tâm quản lý nguồn thu một cách chặt chẽ hơn, chú ý nhiều hơn đến nuôi
dưỡng và khai thác nguồn thu. Mặt khác, với giải pháp này ngân sách trung ương
vẫn tập trung được các nguồn thu quan trọng để tăng cường khả năng điều hòa một
cách có hiệu quả, công bằng giữa các vùng trong cả nước.
Cơ chế hỗ trợ cân đối ngân sách
Với nhu cầu chi tiêu lớn và khả năng gia tăng nguồn, nghĩa là các chính
quyền đô thị có khả năng tự chủ hơn so với chính quyền nông thôn, do đó ít có nhu
cầu phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, vẫn có
trường hợp các chính quyền đô thị cần có sự hỗ trợ của trung ương để thực hiện
cung cấp các dịch vụ khi mà lợi ích của các dịch vụ này tạo ra sự lan tỏa đến các
khu vực khác. Nói cách khác, ngân sách trung ương chỉ trợ cấp bổ sung cân đối cho
ngân sách đô thị trong số trường hợp không nên cấp toàn bộ số thiếu hụt.
Xuất phát từ lý thuyết quản trị và theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế
giới, mức trợ cấp này nên ở vào khoảng 80% đến 90% số thiếu hụt. Cụ thể con số
13


này là bao nhiêu cần xác định căn cứ theo vùng ngân sách khác nhau. Theo Luật
Ngân sách Nhà nước hiện hành, Việt Nam có 4 vùng ngân sách khác nhau: Đô thị;
Đồng bằng; Núi thấp – Vùng sâu; Núi cao – Hải đảo. Tỷ lệ trợ cấp sau khi được
xác định cũng nên được giữ ổn định trong khoảng thời gian phù hợp với thời kỳ ổn
định ngân sách. Phần còn lại (10 – 20% mức thiếu hụt) các địa phương phải tự cân
đối trên cơ sở nỗ lực để nuôi dưỡng khai thác nguồn thu hoặc thông qua vay nợ.
Như vậy, giải pháp này sẽ tạo sức ép buộc chính quyền địa phương nâng cao năng
lực quản lý, nỗ lực để cải thiện tình hình kinh tế trên địa bàn. Bởi vì có như vậy
việc vay nợ công chúng và khai thác nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách mới khả

thi. Cũng xin được nói thêm rằng, địa phương càng có quyền tự chủ thì tính đa
dạng của các giải pháp tìm nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách càng phong phú.
Nghĩa là, giải pháp này cần được thực hiện phối hợp với giải pháp thí điểm trao
quyền tự quyết chính sách thu mà chúng tôi đã đề cập ở trên.
Mặt khác, như chúng tôi cũng đã đề cập, giải pháp căn cơ để tăng thu là tăng
trưởng kinh tế ổn định, bền vững. Thực tế thì đa số các địa phương trong 50 địa
phương không tự cân đối được ngân sách có tình trạng kinh tế yếu kém. Do vậy,
trong thời gian tới nên tăng cường thực hiện bổ sung theo mục tiêu nhằm hỗ trợ các
địa phương trong việc củng cố cơ sở hạ tầng, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế của các
địa phương nghèo. Có như vậy thì những giải pháp về tăng quyền tự quyết, nỗ lực
trong bù đắp thiếu hụt của địa phương mới khả thi, bài toán cân đối ngân sách địa
phương mới thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Tuy nhiên, bổ sung mục tiêu cho địa
phương về đầu tư phát triển cần được nghiên cứu một cách tổng thể trong cả thời
kỳ ổn định ngân sách, hướng theo việc xây dựng ngân sách trung hạn và tăng
cường giám sát để tránh tình trạng “xin – cho”. Về trình tự ưu tiên, thì trước hết
nên ưu tiên bổ sung ngân sách theo mục tiêu cho các địa phương có điều kiện kinh
tế – xã hội khó khăn, chậm phát triển. Tiếp đến là hỗ trợ cho mục tiêu phát triển
hoặc bổ sung để thực hiện các chương trình mục tiêu quan trọng; đồng thời, cũng
phải chú trọng đúng mực đến những địa phương nằm trong vùng động lực phát
triển kinh tế. Mặt khác, cũng phải lưu ý đến yếu tố thuận lợi khách quan và lợi ích
nghiễm nhiên được hưởng từ cơ sở hạ tầng được xây dựng bằng nguồn vốn của
ngân sách trung ương trên địa bàn của địa phương. Cần bỏ hẳn phương pháp bổ
sung giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản cho các địa phương như thời gian qua. Bổ
sung giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản vừa làm cho địa phương thiếu chủ động,
vì cuối năm Trung ương mới thông báo số bổ sung, lại vừa làm cho quản lý ngân
sách manh mún, thiếu hệ thống và kém minh bạch, thiếu khách quan. Thực hiện cơ
chế bổ sung có mục tiêu như vậy sẽ tạo cơ sở cho địa phương chủ động trong cân
đối ngân sách cấp mình, vừa khắc phục được những hạn chế của cơ chế hiện hành,
làm cho cơ chế bổ sung có mục tiêu trở nên minh bạch và khách quan hơn, quản lý
ngân sách có tính hệ thống hơn.


14


Tóm lại, đã đến lúc Việt Nam cần khẩn trương thành lập chính quyền đô thị,
đi đôi với đó là cấp ngân sách đô thị để đáp ứng nhu cầu của xã hội đô thị và nâng
cao chất lượng của người dân đô thị. Việc quản lý ngân sách đô thị phụ thuộc nhiều
vào mô hình chính quyền đô thị mà Việt Nam hướng đến xây dựng.
Dựa vào các lý thuyết về quản trị đô thị và bản chất của xã hội, mô hình
chính quyền đô thị của Việt Nam cũng không thể nằm ngoài khuôn khổ nâng cao
tính hiệu quả, hiệu lực của chính quyền đô thị, cụ thể đó là hành động đúng (cung
cấp dịch vụ phù hợp với sở thích của công dân); không chuyên quyền (hành động
trong cách thức tốt nhất với chi phí thấp và chuẩn mực tốt); và trách nhiệm (hành
động thông qua cách tiếp cận dựa vào quyền lợi của công chúng). Theo đó, chính
quyền đô thị được trao quyền nhiều hơn; ngân sách đô thị được phân cấp phi tập
trung hơn. Như vậy, Việt Nam cũng thay đổi lại Hiến pháp và hệ thống các văn bản
luật pháp có liên quan .
Xây dựng mô hình ngân sách đô thị cần chú trọng: (i) hợp lý hóa quản lý chi
tiêu đô thị nhằm tối ưu hóa gánh nặng chi tiêu đô thị; cải thiện hiệu quả cung cấp
dịch vụ công và cải thiện hiệu quả đầu tư vốn; (ii) gia tăng nguồn thu bền vững cho
đô thị nhằm tối đa hóa nguồn lực cho đô thị.
Kết luận này được làm tiền đề cho thực tế là trong quá trình quản lý đô thị ,
các cấp chính quyền ở đô thị phải luôn đương đầu giải quyết những khó khăn như:
tình trạng xây dựng hỗn loạn không tuân thủ qui hoạch, vấn đề cấp thoát nước,
thiếu cây xanh, tình trạng thiếu nhà ở, nhà ổ chuột, nạn ùn tắc giao thông, đường sá
xuống cấp, mạng lưới điện quá tải, ô nhiễm môi trường, thiếu công ăn việc làm,
thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn xã hội, gia tăng dân số, trật tự giao thông… Thực
trạng đó bắt nguồn từ các nguyên nhân luật pháp về đô thị chưa đủ, chưa đồng bộ,
trong khi nguồn lực tài chính để đầu tư cho phát triển đô thị không tương xứng,
thiếu hụt.


15



×