Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

AN NINH CON NGƯỜI TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.22 KB, 64 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
------------------

NGUYỄN ANH HOÀNG SƠN
350814

AN NINH CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG
– NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 2014


BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
------------------

NGUYỄN ANH HOÀNG SƠN
350814

AN NINH CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG
– NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Công pháp quốc tế


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giảng viên hƣớng dẫn: Th.S. Lê Thị Anh Đào

Hà Nội, 2014


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên của Khóa luận này, em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất tới Thạc sĩ Lê Thị Anh Đào, giảng viên bộ môn Công pháp quốc tế, trường
Đại học Luật Hà Nội – cô giáo đã nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn và động viên em
trong suốt quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài thành công nhất.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Công pháp
quốc tế nói riêng và trường Đại học Luật nói chung đã truyền đạt kiến thức cho em
trong 4 năm học tập tại trường cũng như tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn
thành Khóa luận này.

Hà Nội, tháng 3 năm 2013
Sinh viên

Nguyễn Anh Hoàng Sơn


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu độc lập của em.
Các số liệu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Em xin chịu mọi trách nhiệm
về các thông tin đã đưa ra trong khóa luận.


Hà Nội, tháng 3 năm 2013
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

Sinh viên

Nguyễn Anh Hoàng Sơn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT
Từ viết tắt
UNDP (United
1
NationsDevelopment Programme)
EU (European Union)
2
IIASA (International Institute of
3
Applied System Analysis)
UN
4
UNICEF (Children's Rights &
5
Emergency Relief Organization)
OECD (Organisation for Economic
6
Co-operation and Development)
ICCPR (International Covenant on
7

Civil and Political Rights)
CBD (Convention on Biologial
8
Diversity)
ABS
9

10
11

ECOSOC
CESCR

12

ICESCR

13
14
15

GEF
Greenpeace
FAO (Food and Agriculture
Organization of the United
Nations)
AU (African Union)
CJEU
WB (World Bank)


16
17
18

Quy ƣớc
Chương trình phát triển Liên hợp
quốc
Liên minh châu Âu
Viện nghiên cứu phân tích hệ thống
ứng dụng quốc tế của Hoa Kỳ
Liên hợp quốc
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế
Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị
Công ước đa dạng sinh học
Nghị định thư về tiếp cận nguồn
gen và chia sẻ lợi ích phát sinh từ
nguồn gen
Hội đồng Kinh tế- Xã hội
Ủy ban về các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa
Công ước về các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa
Quỹ môi trường toàn cầu
Tổ chức hòa bình xanh
Tổ chức nông lương thế giới

Liên minh châu Phi

Tòa án liên minh châu Âu
Ngân hàng thế giới


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ AN NINH CON NGƢỜI
TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG

1

1.1. Khái niệm an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi trƣờng

1

1.1.1. Định nghĩa

1

1.1.2. Đặc điểm

2

1.1.3. Các yếu tố cấu thành

4

1.2. Mối quan hệ giữa an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi
trƣờng với quyền con ngƣời, an ninh con ngƣời và an ninh môi

trƣờng
1.2.1. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
với quyền con người
1.2.2. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
và an ninh con người
1.2.3. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
và an ninh quốc gia
1.3. Các nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh con ngƣời trong lĩnh vực
môi trƣờng
1.3.1. Tác nhân tự nhiên

6

7
8
8
10
10

1.3.2. Tác nhân xã hội

11

CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH CON
NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG

13

2.1. Bảo đảm quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành


13

2.2. Bảo đảm các quyền liên quan đến các yếu tố từ môi trƣờng

15

2.2.1. Bảo đảm quyền tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên

15

2.2.2. Bảo đảm quyền về nước

17

2.2.3. Bảo đảm quyền tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ nguồn
gen
2.3. Bảo vệ, phát triển bền vững môi trƣờng nhằm bảo đảm an
ninh con ngƣời
2.3.1. Bảo vệ môi trường khí quyển và chống biến đổi khí hậu

19
21
21


2.3.2. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

22

2.3.3. Bảo vệ đa dạng sinh học


23

2.4. Thiết chế quốc tế bảo đảm an ninh con ngƣời trong lĩnh vực
môi trƣờng
2.4.1. Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế trực thuộc Liên hợp quốc

24

2.4.2. Các thiết chế khu vực

26

2.4.3. Các tổ chức, chương trình quốc tế khác

27

2.5. Trách nhiệm quốc gia trong việc bảo đảm an ninh con ngƣời
trong lĩnh vực môi trƣờng
CHƢƠNG 3: AN NINH CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC MÔI
TRƢỜNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm an ninh con ngƣời
trong lĩnh vực môi trƣờng

28

3.1.1. Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành

32


3.1.2. Bảo đảm một số quyền liên quan đến các yếu tố của môi trường

33

3.2. Thực tiễn bảo đảm an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi
trƣờng tại Việt Nam
3.2.1. Các liên kết quốc tế và khu vực nhằm bảo đảm an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường
3.2.2. Các thiết chế bảo đảm an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường
3.3. Những thành tựu và vấn đề còn tồn tại trong việc bảo đảm an
ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi trƣờng tại Việt Nam
3.3.1. Những thành tựu trong việc bảo đảm an ninh con người trong
lĩnh vực môi trường tại Việt Nam
3.3.2. Những vấn đề còn tồn tại trong việc bảo đảm an ninh con người
trong lĩnh vực môi trường tại Việt Nam
3.3.3. Những thách thức đe dọa an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường tại Việt Nam
3.4. Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm tăng cƣờng bảo đảm an
ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi trƣờng tại Việt Nam
3.4.1. Phương hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam về an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường
3.4.2. Giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm an ninh con người trong
lĩnh vực môi trường tại Việt Nam hiện nay

36

KẾT LUẬN

50


24

32
32

36
38
39
39
41
42
44
44
46


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An ninh con người trong lĩnh vực môi trường hiện nay là một trong những
vấn đề quan trọng hàng đầu không chỉ đối với một quốc gia, một khu vực mà với
toàn thế giới. Trong bối cảnh cuộc sống của con người ngày càng bị đe dọa bởi
nhiều yếu tố bất an như biến đổi khí hậu, thiên tai, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm
môi trường… thì bảo đảm an ninh con người trong lĩnh vực môi trường lại càng trở
thành thách thức lớn đối với mọi quốc gia. Vấn đề an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường luôn được coi trọng khi mà môi trường đang ngày càng bị đe dọa
bởi rất nhiều yếu tố. Thực tế đã có rất nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để thảo
luận chính sách môi trường toàn cầu, khái niệm an ninh con người trong lĩnh vực
môi trường cũng dần được mở rộng một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Các Quốc
gia cũng nhận thức được rằng an ninh con người trong lĩnh vực môi trường là vấn

đề đặc biệt quan trọng ở mọi thời đại. Bởi chỉ khi giải quyết tốt vấn đề môi trường,
Quốc gia mới thực sự duy trì được cuộc sống ổn định, tạo lập sự phát triển, sáng
tạo của con người; tránh xa khỏi mối đe dọa, tình trạng đói nghèo và bạo động xã
hội.
Đối với Việt Nam, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường cũng được
coi là mục tiêu hàng đầu. Kể từ khi Việt Nam tiến hành nhiều chính sách cũng như
chương trình nhằm bảo vệ môi trường, đối phó với các mối đe dọa tới môi trường
như biến đổi khí hậu, thiên tai, quản lý tài nguyên,…; an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường đã được thiết lập ở cấp độ quốc gia và đạt được nhiều thành công.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và sự tham gia hội nhập của Việt Nam bên cạnh
việc tạo ra nhiều cơ hội còn đặt Việt Nam đứng trước không ít nguy cơ, thách thức
có khả năng gây mất ổn định an ninh con người trong lĩnh vực môi trường quốc
gia. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải kiên trì quan điểm, nhận thức và có những
giải pháp mang tính chủ động, tích cực để đảm bảo an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường một cách toàn diện và bền vững. Xuất phát từ tầm quan trọng của
môi trường đối với quá trình phát triển thể chất và tinh thần của con người cũng


như vai trò của an ninh con người trong lĩnh vực môi trường đối với quốc gia, em
xin lựa chọn đề tài: “An ninh con người trong lĩnh vực môi trường – Nhìn từ góc
độ pháp luật quốc tế và thực tiễn Việt Nam” làm nội dung Khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của Khóa luận là làm rõ tính chất, nội hàm của khái niệm an ninh
con người trong lĩnh vực môi trường thông qua việc luận giải cơ sở lý luận cũng
như thực tiễn của vấn đề này trong pháp luật và đời sống quốc tế hiện đại nói
chung và ở Việt Nam nói riêng.
Để đạt được mục đích đó, khóa luận có nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích bản chất và nội dung của vấn đề an ninh con người trong
lĩnh vực môi trường dưới góc độ pháp luật quốc tế.

Thứ hai, nghiên cứu những quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến an
ninh con người trong lĩnh vực môi trường; tìm hiểu các thiết chế bảo đảm an ninh
con người trong lĩnh vực môi trường để từ đó làm rõ và có nhận thức đúng đắn về
vấn đề này trong tiến trình toàn cầu hóa.
Thứ ba, phân tích thực trạng pháp lý, thực tiễn thực hiện và những thách
thức đối với an ninh con người trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam. Đồng thời
đưa ra những kiến nghị nhằm bảo đảm an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường được thực hiện toàn diện và hiệu quả hơn ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về an ninh con người trong lĩnh vực môi trường dưới
góc độ pháp luật quốc tế hiện đại và vấn đề đảm bảo an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Khóa luận đưa ra các quan điểm đa chiều cũng như sự phát triển của khái
niệm an ninh con người trong lĩnh vực môi trường. Liệt kê và phân tích các quy
định của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường. Khóa luận cũng đề cập đến vấn đề bảo đảm an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường ở Việt Nam thông qua các chính sách, quy định pháp luật cũng


như thiết chế quốc gia, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo
đảm an ninh con người trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề quyền con người, an ninh con người nói
chung và an ninh con người trong lĩnh vực môi trường nói riêng. Khóa luận được
xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
phân tích, tổng hợp, quy nạp, đối chiếu, … để làm sáng tỏ vấn đề an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường trong pháp luật quốc tế cũng như đưa ra những
đánh giá khách quan về lý luận, thực tiễn và giải pháp để đảm bảo an ninh con

người trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường
Chương 2: Pháp luật quốc tế về an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường
Chương 3: An ninh con người trong lĩnh vực môi trường tại Việt Nam


CHƢƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ AN NINH CON NGƢỜI
TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG
1.1. Khái niệm an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi trƣờng
1.1.1. Định nghĩa
Theo Báo cáo phát triển con người năm 1994, “thế giới này chẳng thể hòa bình
nếu mỗi cá nhân con người không có được an ninh trong cuộc sống hàng ngày của
họ.” [3, tr.70] Như vậy, an ninh con người chính là điểm nối quan trọng giữa an ninh
truyền thống và an ninh phi truyền thống bởi xét cho cùng, con người chính là thực
thể trung tâm trên các cập độ quốc gia, khu vực và quốc tế [16].
Cách tiếp cận của UNDP trong Báo cáo phát triển con người năm 1994 đã đề
cập một cách tương đối toàn diện khái niệm an ninh con người. Theo đó, an ninh con
người được hiểu là sự an toàn của con người trước những mối đe dọa thường xuyên
như nạn đói, bệnh tật, sự đàn áp; đồng thời con người phải được bảo vệ khỏi những
chấn động hay những biến đổi bất ngờ và nguy hiểm có thể xảy ra gây tác động xấu
đến cuộc sống hàng ngày. [38, tr. 64]
Khái niệm trên cho thấy, an ninh con người đề cập trên nhiều lĩnh vực và an
ninh con người trong lĩnh vực môi trường là một trong những lĩnh vực đó.
Môi trường ở đây được hiểu là môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự
nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người,

có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên
nhiên. [16]
Các yếu tố tự nhiên trong môi trường như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại
ngoài ý muốn của con người cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh
sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Yếu tố vật
chất nhân tạo bao gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh
thái và các hình thái vật chất khác.[45, tr.2] Từ chỗ sử dụng và khai thác môi trường
tự nhiên với tính chất hoàn toàn tự phát, vì lợi ích kinh tế đơn thuần, tạo ra khủng
hoảng cục bộ về môi trường ở nhiều quốc gia, dẫn đến suy giảm môi trường toàn cầu,
con người đã dần nhận thức được hậu quả của khủng hoảng môi trường đe dọa tới sự
1


phát triển của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Từ đó, vấn đề an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường được đặt ra.
Khái niệm “an ninh con người trong lĩnh vực môi trường” không bao hàm môi
trường xã hội. Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Ðó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, thỏa ước... ở các cấp khác nhau như: Liên
hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia
đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, doan nghiệp và tổ chức đoàn thể,...
Với cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa; an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường là những bảo đảm bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia để con người
không bị đe dọa trước những mối đe dọa từ môi trường tự nhiên, từ đó tạo lập một
cuộc sống an toàn, phát triển.
1.1.2. Đặc điểm
Là một lĩnh vực của an ninh con người, an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường cũng có những đặc điểm chung của an ninh con người. Cụ thể:
Thứ nhất, trung tâm của an ninh con người trong lĩnh vực môi trường là con
người. Con người ở đây được hiểu là cá nhân, cộng đồng, dân tộc cũng như toàn bộ
dân cư hiện diện trên lãnh thổ một quốc gia. Cụ thể hơn, an ninh con người trong lĩnh

vực môi trường quan tâm tới việc làm thế nào để con người có thể được sống trong
một môi trường trong lành với các chức năng cơ bản như: có được nơi ở, được cung
cấp năng lượng và nguyên liệu, được cung cấp thông tin khoa học và cung cấp các
tiện nghi môi trường,…
Thứ hai, khái niệm an ninh con người đề cập tới rất nhiều nguy cơ tiềm tàng có
khả năng tác động xấu đến đời sống của mỗi con người cũng như toàn xã hội. Theo
Báo cáo của UNDP, trong lĩnh vực môi trường, nguy cơ đó chính là ô nhiễm môi
trường và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Do đó, an ninh con người chỉ có thể được
đảm bảo trên nền tảng của sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và trong môi
trường hợp tác, hòa bình, ổn định toàn cầu.
Thứ ba, an ninh con người vừa phản ánh mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
vừa đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác để đảm bảo an ninh con người. Có thể thấy, với
2


xu thế toàn cầu hóa hiện nay, với sự thu hẹp dần khoảng cách giữa các quốc gia trên
thế giới, thì những nguy cơ lớn có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh con
người không còn là những vấn đề riêng biệt của từng con người, từng quốc gia nữa
mà trở thành vấn đề chung toàn cầu. Bất kì mối đe dọa đối với an ninh con người ở
một nơi nào đó trên thế giới thì cũng sẽ tác động ít hay nhiều đến con người khắp mọi
nơi. Mặt khác, các quốc gia phải hợp tác để hạn chế và chống lại mối đe dọa đối với
an ninh con người.
Thứ tư, khái niệm an ninh con người trong lĩnh vực môi trường mang tính chủ
động và tích cực. Nói một cách cụ thể, đặc điểm này có thể hiểu là nếu các quốc gia
đảm bảo an ninh con người, bảo đảm trật tự xã hội, an ninh quốc gia, coi đó như một
chiến lược phát triển lâu dài thì khi có những biến cố xảy ra như thiên tai, ô nhiễm,
… quốc gia sẽ chủ động trong việc giải quyết các vấn đề này một cách có hiệu quả
hơn.
Thứ năm, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường là nhân tố phát triển
con người. Khi đảm bảo được an ninh con người trong lĩnh vực môi trường, con

người được sống trong môi trường trong lành thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
con người một cách toàn diện và bền vững.
Từ định nghĩa và các đặc điểm trên, an ninh con người trong lĩnh vực môi
trường hướng đến và chứa đựng ba yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, sự sẵn có môi trường. Sự sẵn có môi trường nghĩa là đảm bảo có đủ
điều kiện môi trường chất lượng phù hợp và có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu tối
thiểu về các chức năng con người trong xã hội.
Thứ hai, khả năng tiếp cận các yếu tố cấu thành môi trường của con người như
nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, .... Việc tiếp cận các yếu tố cấu
thành của an ninh con người trong lĩnh vực môi trường liên quan đến nhu cầu của các
cá nhân tiếp cận được với nguồn tài nguyên và các tài sản sở hữu khác.
Ba là, sự ổn định môi trường. Khía cạnh ổn định môi trường hàm ý một dân tộc
hoặc một hộ gia đình hoặc một cá nhân lúc nào cũng phải tiếp cận được với các điều
kiện môi trường phù hợp.
3


1.1.3. Các yếu tố cấu thành
Từ định nghĩa về môi trường tự nhiên, có thể nhận thấy an ninh con người
trong lĩnh vực môi trường bao gồm nhiều yếu tố cấu thành. Các yếu tố này được
hình thành và có quan hệ biện chứng với nhau. An ninh con người trong lĩnh vực
môi trường bao gồm: An ninh không khí (không khí sạch, không ô nhiễm), an ninh
tài nguyên thiên nhiên (bảo đảm có đủ tài nguyên để khai thác và sử dụng), an ninh
tài nguyên nước (không bị thiếu nước, nguồn nước sạch, an toàn) và an ninh sinh
thái (đảm bảo đa dạng sinh học). An ninh con người trong lĩnh vực môi trường được
xác lập dựa trên các yếu tố trên, và mỗi quốc gia để đảm bảo an ninh con người
trong lĩnh vực môi trường, thì phải đồng thời đảm bảo các yếu tố đó.
 An ninh không khí
An ninh không khí là sự đảm bảo không khí trong sạch, không có sự thay đổi
lớn trong thành phần của không khí làm giảm tầm nhìn xa, gây biến đổi khí hậu, gây

bệnh cho con người.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới mất an ninh không khí: tác nhân tự nhiên, hoạt
động công nghiệp, giao thông vận tải và cả quá trình sinh hoạt hàng ngày. Trong đó,
hoạt động công nghiệp là một trong những nguồn gây ô nhiễm không khí lớn của con
người. Bên cạnh đó, hoạt động công nghiệp cũng gây độc hại tới không khí. Tùy
thuộc vào quy trình công nghệ, quy mô sản xuất và nhiên liệu sử dụng thì lượng chất
độc hại và loại chất độc hại sẽ khác nhau.
Khi an ninh không khí không được đảm bảo, biến đổi khí hậu sẽ diễn ra và gây
ảnh hưởng tới nhiều vấn đề khác. Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, kéo
theo đó là những điều tồi tệ như: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực,
những đợt nóng, bão tố và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và
chiến tranh, mất đi sự đa dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái.
 An ninh tài nguyên thiên nhiên
An ninh tài nguyên thiên nhiên được hiểu là sự đảm bảo của mỗi quốc gia về
nguồn tài nguyên thiên nhiên đủ để khai thác sử dụng và không bị ô nhiễm.
4


Tài nguyên thiên nhiên gồm các dạng năng lượng vật chất tồn tại khách quan
với ý muốn con người có giá trị tự thân con người có thể sử dụng trong hiện tại và
tương lai, phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của loài người.Tài nguyên thiên nhiên
bao gồm 2 loại: Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật, …) là tài nguyên có thể
tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tài
nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau
quá trình sử dụng.
Hai loại tài nguyên thiên nhiên có giá trị và ảnh hưởng lớn đến con người là
khoảng sản và đất. Việc khai thác khoáng sản tạo điều kiện cho việc hình thành
nguồn năng lượng sử dụng cho nhân loại. Theo văn phòng Tổ chức kiểm soát năng
lượng Anh (EWG), dưới lòng đất hiện còn khoảng 1.255 tỉ thùng dầu, đủ để cho con
người sử dụng trong 42 năm. Với tốc độ khai thác như hiện nay, thế giới chỉ sản xuất

được 39 triệu thùng/ngày vào năm 2030, so với 81 triệu thùng/ngày như hiện nay và
trong vòng 50-60 năm nữa, nguồn dầu lửa dưới lòng đất sẽ hoàn toàn cạn kiệt. Đối
với tài nguyên đất, từ tổng diện tích 14.777 triệu ha trên toàn thế giới, có tới 1.527
triệu ha đất đóng băng và 13.251 triệu ha đất không phủ băng.
Tài nguyên thiên nhiên của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do quá
trình khai thác không có kế hoạch tái tạo của con người.
 An ninh tài nguyên nƣớc
An ninh tài nguyên nước được hiểu là sự đảm bảo của mỗi quốc gia về nguồn
cung cấp nước cho người dân.
Nước có ý nghĩa sống còn đối với cuộc sống con người. Bảo đảm an ninh
nguồn nước là vấn đề cực kỳ quan trọng của mọi quốc gia. Suy giảm tài nguyên nước
và mất an ninh nguồn nước là nguy cơ không thể xem thường. [15]
Nguồn nước được sử dụng trong sinh hoạt, hoạt động nông nghiệp cũng như
công nghiệp. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng cao. Các ngành công
nghiệp lấy đi 22% nước toàn thế giới.
Bên cạnh đó, là vấn đề đảm bảo nguồn nước sạch. Theo báo cáo của UNICEF
trên thế giới có 2,5 tỷ người đang khát nước sạch, chiếm hơn 1/3 dân số toàn cầu.
5


Đây là một con số đáng báo động vì chỉ 2 năm trước đây, con số này chỉ dừng ở 1 tỷ
người.
Theo dự báo của OECD, nhu cầu về nước vào năm 2050 sẽ tăng lên 55%. Đại
hội đồng UN từng công nhận việc tiếp cận với nước sạch và sống vệ sinh là một
quyền của con người.
 An ninh sinh thái
Có nhiều cách định nghĩa về an ninh sinh thái1, nhưng nhìn chung có thể hiểu,
an ninh sinh thái là sự đảm bảo trạng thái ổn định của cân bằng sinh thái. Khi đó các
thành phần sinh thái ở điều kiện cân bằng tương đối và cấu trúc toàn hệ không bị
thay đổi.

Các thành phần của hệ sinh thái luôn luôn bị tác động do các yếu tố môi
trường. Tuy nhiên các hệ sinh thái tự nhiên luôn có khả năng tự điều chỉnh nhờ vào
khả năng thích nghi của các sinh vật. Trạng thái cân bằng như vậy được gọi là trạng
thái cân bằng động, nghĩa là mặc dù số lượng, chất lượng các thành phần của hệ thay
đổi nhưng cấu trúc, cơ chế hoạt động và tương tác giữa các thành phần đó vẫn được
giữ nguyên.
1.2. Mối quan hệ giữa an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi trƣờng với
quyền con ngƣời, an ninh con ngƣời và an ninh quốc gia
1.2.1. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường với
quyền con người
Quyền con người là phẩm giá, năng lực, nhu cầu và lợi ích hợp pháp của con
người được thể chế, bảo vệ bởi luật quốc gia và luật quốc tế [44, tr. 135]. Theo đó,
quyền con người được xác định trên hai bình diện giá trị: đạo đức và pháp lý.
1

Định nghĩa điển hình về an ninh sinh thái theo quan niệm mới do IIASA đưa ra là [37]: An ninh sinh thái có nghĩa là
không có những đe doạ đối với con người về cuộc sống, sức khỏe, sự thoải mái, các quyền lợi cơ bản, các nguồn đảm
bảo cho cuộc sống, các tài nguyên cần thiết, hậu quả về xã hội và các khả năng thích nghi với các thay đổi môi trường,
v.v., bao gồm an ninh sinh thái tự nhiên, an ninh kinh tế và an ninh xã hội, …
Hội đồng bảo an của Liên bang Nga định nghĩa về an ninh sinh thái như sau [10, tr.55]: An ninh sinh thái là sự bảo vệ
môi trường tự nhiên và những quyền lợi sống còn của các công dân, xã hội và quốc gia chống lại các tác động từ bên
trong và bên ngoài, các quá trình và xu thế xấu sinh ra do sự phát triển làm đe doạ sức khỏe con người, đa dạng sinh
học, các chức năng chịu đựng của các hệ sinh thái, và sự sống còn của nhân loại. An ninh sinh thái là một phần tổng
thể của an ninh quốc gia Nga.

6


Báo cáo thường niên về phát triển con người của UNDP năm 1994 định nghĩa
an ninh con người là sự cấu thành của hai điều kiện: An toàn không bị đe dọa bởi đói

nghèo, bệnh tật và sự đàn áp, và được bảo vệ khi gặp những rủi ro bất thường trong
cuộc sống, kể cả trong gia đình, trong công việc hay ngoài xã hội.
Từ định nghĩa kể trên của UNDP, có thể thấy an ninh con người nói chung, an
ninh con người trong lĩnh vực môi trường nói riêng và quyền con người có mối quan
hệ mật thiết, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, việc bảo đảm an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường cũng chính là bảo đảm các quyền con người tương
ứng. Ngược lại, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người tương ứng cũng chính là
nhằm thực hiện, bảo đảm an ninh con người trong lĩnh vực đó. Thêm vào đó, cả an
ninh con người và quyền con người đều hướng vào việc thúc đẩy các nguyên tắc dân
chủ và sự phát triển về thể chế trong các xã hội như là những điều kiện để bảo đảm an
ninh và các quyền của con người một cách bền vững.[44]
An ninh con người nhằm mục đích bảo vệ quyền con người như ngăn ngừa các
xung đột bằng cách đề cập tới những nguyên nhân sâu xa của tình trạng mất an ninh
và dễ bị tổn thương. An ninh con người thiết lập giá trị toàn cầu dựa trên quyền con
người. Vì vậy, an ninh con người đặt ra trách nhiệm cho mọi người tìm kiếm các giải
pháp cho việc đảm bảo quyền con người trên cơ sở pháp luật. Các vi phạm về quyền
con người cho thấy sự đe dọa tới an ninh con người và do đó chúng được sử dụng
như những chỉ số trong các cơ chế cảnh báo sớm để ngăn ngừa xung đột. Cụ thể, an
ninh con người trong lĩnh vực môi trường hướng tới việc bảo vệ quyền con người đối
với môi trường: quyền có nước, quyền sử dụng nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ nguồn
gen, …Ngược lại, các quy định về quyền con người đối với môi trường được coi là
nền tảng của vấn đề an ninh con người trong lĩnh vực môi trường.
1.2.2. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường và an
ninh con người
An ninh con người trong lĩnh vực môi trường có vị trí và vai trò trọng yếu và
không thể tách rời trong hệ thống các vấn đề của an ninh con người. Bảo đảm an ninh
con người trong lĩnh vực môi trường chính là bảo đảm quyền cơ bản của con người
7



và góp phần xây dựng hệ thống an ninh con người toàn diện, ổn định. Khi an ninh
con người trong lĩnh vực môi trường được đảm bảo, môi trường trong lành, tạo điều
kiện cho con người thực hiện các công việc, cũng như có điều kiện để con người
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. An ninh con người trong lĩnh vực môi trường
đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của con người. Bởi về bản chất, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
chính là việc đảm bảo cho con người có môi trường sống phù hợp, và được hưởng
những điều kiện thuận lợi. Chỉ khi có môi trường sống trong lành thì con người mới
có điều kiện về cả thể chất và tinh thần để phát triển một cách toàn diện về sức khỏe,
trí tuệ cũng như khả năng sáng tạo.
Bên cạnh đó, một quốc gia được coi là phát triển, người dân có mức sống cao,
thì yếu tố môi trường phải đặt lên hàng đầu. Khi duy trì được môi trường ổn định,
quốc gia mới có thể giữ được trật tự xã hội, kiềm chế được đói nghèo, khủng hoảng,
bạo loạn; từ đó có điều kiện để phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng quốc gia
bền vững về cả kinh tế và chính trị. Khái quát lại, an ninh con người trong lĩnh vực
môi trường có vị trí và vai trò trọng yếu và không thể tách rời khỏi hệ thống cấu
thành an ninh con người. Vì vậy, trong bất cứ thời điểm nào, các quốc gia và toàn thế
giới phải xác định được một trong những nhiệm vụ đảm bảo an ninh con người là an
ninh con người trong lĩnh vực môi trường.
1.2.3. Mối quan hệ giữa an ninh con người trong lĩnh vực môi trường và an
ninh quốc gia
An ninh quốc gia là "sự yên ổn, bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa,xã hội
và biên giới, lãnh thổ của một quốc gia" [31, tr. 42]. Định nghĩa trên đã bao quát
được các lĩnh vực cấu thành của an ninh quốc gia cả ở bên trong và bên ngoài, cả chủ
quan và khách quan, trên cả phương diện đối nội và đối ngoại. Điều đó cho thấy quốc
gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi mà an ninh quốc gia được bảo đảm. [16]
An ninh con người trong lĩnh vực môi trường đòi hỏi duy trì mối quan hệ giữa
con người và các sinh vật với môi trường sống trên trái đất sao cho lành mạnh ổn
định, bảo đảm cho con người và các sinh vật có thể tồn tại và tiến hoá bình thường
8



theo quy luật thích ứng sinh tồn và sàng lọc tự nhiên, môi trường sống không bị phá
huỷ, đầu độc, gây tai hoạ cho các giống loài mà nó dung dưỡng.
Khác với an ninh quốc gia là những vấn đề của từng đất nước, của mỗi cộng
đồng dân tộc, nhiều lắm là của một khối liên minh quân sự, an ninh con người trong
lĩnh vực môi trường còn là vấn đề của cả loài người trong mối quan hệ vừa nhân quả
vừa cộng hưởng, trong đó trạng thái mất an ninh thường do những tác nhân vừa gián
tiếp vừa trực tiếp, vừa rất xa mà cũng rất gần, một quốc gia không dễ một mình giải
quyết. an ninh con người trong lĩnh vực môi trường góp phần hình thành nên quan
điểm tổng thể trong nhận thức và hành động của các quốc gia cũng như cộng đồng
quốc tế đối với những vấn đề toàn cầu. Những vấn đề toàn cầu bản thân nó không
giới hạn biên giới, lãnh thổ của các quốc gia và vì vậy nó cũng không loại trừ quốc
gia nào. Thực chất, các vấn đề toàn cầu xét ở một phương diện nào đó nó cũng là cú
hích để các quốc gia tập trung phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội trên
quan điểm phát triển và việc tập trung xử lý các vấn đề toàn cầu là nhịp cầu để các
quốc gia xích lại gần nhau, giảm bớt những căng thẳng xung đột. Đồng thời, an ninh
con người sẽ thúc đẩy hơn nữa các nỗ lực hợp tác quốc tế của các quốc gia. Bản thân
sự tồn tại của mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế đã đòi hỏi có sự hợp tác quốc tế
và đó là sự hợp tác trên tinh thần thiện chí và tích cực. Những vấn đề toàn cầu bản
thân nó không giới hạn biên giới, lãnh thổ của các quốc gia và vì vậy nó cũng không
loại trừ quốc gia nào.
Như vậy, mỗi tổ chức quốc tế đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đó đều
là các trung tâm phối hợp hợp tác và hành động của các quốc gia và ngược lại những
quyết định của các tổ chức quốc tế ở một chừng mực nào đó cũng tạo ra sự ràng buộc
cho các quốc gia và thúc đẩy các quốc gia trong việc nỗ lực thực hiện các cam kết
quốc tế liên quan đến vấn đề an ninh con người. Bảo đảm những thành quả đạt được
hôm nay không bị mất đi trong các cuộc khủng hoảng tương lai.[26]

9



1.3. Các nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh con ngƣời trong lĩnh vực môi
trƣờng
Hiện nay, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường hiện đang bị đe dọa
nghiêm trọng. Môi trường sống ngày càng ô nhiễm nặng, từ không khí, nguồn nước
đến đất đai. Các chất độc hại thải ra trong sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất, dịch
vụ của con người là nhân tố chủ yếu gây nên thảm cảnh đó. Các nguy cơ ảnh hưởng
đến an ninh con người trong lĩnh vực môi trường có thể chia làm hai loại: do thiên
nhiên tạo ra hoặc do chính con người.
1.3.1. Tác nhân tự nhiên
Trước hết, tác nhân tự nhiên (thiên tai) đe dọa trực tiếp đến an ninh con người
trong lĩnh vực môi trường. Thiên tai là những biến đổi của thiên nhiên làm thiệt hại
đến con người và sản xuất. Để giảm nhẹ hạn chế những thiệt hại do thiên tai gây ra,
con người tìm cách phòng tránh chủ yếu bằng việc tăng cường khả năng dự đoán, dự
báo, chung sống thích nghi, quy hoạch, thiết kế công trình thích ứng, ứng cứu khi
thiên tai xảy ra… Song nguyên nhân xảy ra thiên tai ở một mức độ nào đó vẫn có
nguồn gốc do con người gây nên, ví dụ: chặt phá, khai thác rừng bữa bãi trên diện
rộng đã làm tăng nguy cơ hạn hán, lũ lụt…
Mối đe dọa do thiên nhiên tạo ra bao gồm: bão, lụt, hạn hán, động đất, sóng
thần. Ước tính số người tại châu Á chết và mất tích trong thảm họa sóng thần tháng
12-2004 là hơn 200.000 người; chỉ riêng In-đô-nê-xi-a bị thiệt hại khoảng 164.000
người [1]. Ngày 22/11/ 2013, các quan chức Philippines thông báo số liệu chính thức
về nạn nhân thiệt mạng trong siêu bão Haiyan là hơn 5.200 người, thể hiện sức hủy
diệt khủng khiếp của một trong những cơn bão mạnh nhất lịch sử. Vấn đề an ninh con
người trong lĩnh vực môi trường nghiêm trọng tới mức UNDP đã dành toàn bộ Báo
cáo phát triển con người năm 2007/2008 để bàn về chủ đề này. Báo cáo khẳng định
rằng: có một điều tương đối rõ ràng là con người đang gặp phải ngày càng nhiều các
trận bão lớn, lụt lội và hạn hán; chúng đang hủy hoại cơ hội của con người và làm gia


10


tăng bất bình đẳng. Thế giới đang tiến sát tới thời điểm không thể tránh được thảm
họa sinh thái [46].
1.3.2. Tác nhân xã hội
Sự gia tăng dân số nhanh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của an ninh
con người trong lĩnh vực môi trường. Dân số tăng nhanh là nguyên nhân sâu xa và
chủ yếu của việc làm suy giảm môi trường sinh thái. Nhịp độ khai thác tài nguyên
thiên nhiên tăng lên nhanh hơn nhịp độ tăng dân số. Năng lượng phải tăng 10% để
tương xứng với 2% tăng lên của dân số. Các tài nguyên không thể phục hồi đang cạn
dần, chẳng hạn theo ước tính của các chuyên gia UN, giọt dầu cuối cùng của các mỏ
dầu đang hoạt động trên trái đất sẽ được hút lên vào năm 2045 đến năm 2050.
Đồng thời, loài người đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ phổ biến là thiếu
các nguồn nước sạch2. Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia tăng trong
khi nhu cầu tiêu dùng nước sạch cũng ngày càng tăng do sự gia tăng dân số và nhu
cầu phát triển kinh tế.
Nhiều người hơn cũng sản sinh ra nhiều chất thải hơn và gây thêm căng thẳng
cho khả năng đồng hóa của trái đất. Các nước có tỷ lệ phát triển dân số cao đã biến
đổi đất đai thành đất nông nghiệp nhanh, gây thêm sức ép đối với đất đai và môi
trường sống tự nhiên. Tại một số nước, đặc biệt là ở nông thôn châu Phi, dân số tăng
nhanh đến mức là việc quản lý đất đai theo lối cổ truyền không thể nào ngăn cản
được sự thoái hóa của đất đai, cạn kiệt tài nguyên nước và mất mát về nơi cư trú tự
nhiên. Đối với đa dạng sinh học, những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều
loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3%
các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên
ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự
tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra.
2


Báo cáo Phát triển Tài nguyên nước 2014 do Liên hợp quốc kết hợp với UNESCO cho thấy: 20% mạch nước ngầm
đã bị khai thác cạn kiệt. Khoảng 2,3 tỉ người sẽ sống trong những khu vực khó tránh khỏi nguy cơ thiếu nước trầm
trọng, đặc biệt là Bắc Mỹ, Trung Phi và Nam Phi.

11


Bên cạnh đó, tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa của các quốc gia trên thế giới
ngày càng tăng với việc sử dụng một khối lượng lớn các thiên nhiên hóa thạch kèm
theo sự phát thải một khối lượng lớn các khí nhà kính là nguyên nhân chủ yếu gây
nên sự biến đổi khí hậu toàn cầu, làm thủng tầng ozon, gây ra mưa axit…
Các tác động có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo gây ra sự biến động số
lượng loài, làm tăng hoặc giảm số lượng cá thể của một loài sinh vật nào đó một cách
quá mức, vượt quá khả năng tự điều chỉnh sẽ phá vỡ sự cân bằng loài làm ảnh hưởng
đến “chuỗi thức ăn” trong tự nhiên dẫn đến tai biến sinh học.
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Trong thời gian vừa qua, vấn đề an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
được xem trọng không chỉ ở góc nhìn quốc gia mà còn ở cộng đồng quốc tế. Thực
tiễn cho thấy, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường cần phải được đề cao trên
cả phương diện quốc tế và quốc gia bởi vì mục tiêu mà an ninh con người hướng tới
chính là bảo đảm và làm phong phú các giá trị quyền của con người. An ninh con
người trong lĩnh vực môi trường bao gồm: an ninh không khí, an ninh tài nguyên
thiên nhiên, an ninh tài nguyên nước và an ninh sinh thái. Đây là những vấn đề hiện
đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi những hoạt động của con người. Chính vì vậy, bảo
đảm an ninh con người trong lĩnh vực môi trường là một nhu cầu chính đáng đối với
từng cá nhân, từ đó phát triển con người một cách toàn diện.

12



CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH CON NGƢỜI
TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƢỜNG
Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã đặt nền móng cho việc thiết lập một
cơ chế pháp lý quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của các vấn đề hòa bình,
an ninh, môi trường, quyền con người trên thế giới.
Bộ luật quốc tế về quyền con người3 và các điều ước quốc tế khác như: Công
ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản tự nhiên của thế giới (1972), Công ước quốc tế
về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (1973), Công ước Vienna về
bảo vệ tầng Ozone (1985) và Nghị định thư Motreal về các chất làm suy giảm tầng
Ozone (1987), Tuyên bố Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (1992), Công ước
khung về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (1992), Công ước về đa dạng sinh học
(1992),… cũng là nguồn quan trọng của luật quốc tế về an ninh con người trong lĩnh
vực môi trường hiện nay. Trong khóa luận này, việc nghiên cứu, phân tích các quy
định của luật quốc tế về an ninh con người trong lĩnh vực môi trường dựa trên các
văn bản pháp lý cơ bản trên. Tuy nhiên, các Tuyên bố, các Bình luận và Khuyến nghị
của tổ chức quốc tế liên chính phủ và các thiết chế được thành lập theo các điều ước
quốc tế về quyền con người cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung các quy định
của luật quốc tế về an ninh con người trong lĩnh vực môi trường.
Các quyền của con người đối với môi trường có mối quan hệ tương hỗ với các
quyền khác của con người cũng như việc đảm bảo an ninh con người nói chung. Vì
vậy, quy định của pháp luật quốc tế về an ninh con người trong lĩnh vực môi trường
sẽ bao gồm nhiều quyền đối với việc thụ hưởng các yếu tố môi trường.
2.1. Bảo đảm quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành
Quyền được sống trong môi trường trong lành là một trong những quyền cơ
bản của con người. Ở bình diện quốc tế, quyền được sống trong môi trường trong
lành đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện, công ước quốc tế, như: Tuyên ngôn thế
3

Bộ luật quốc tế về quyền con người bao gồm:
+ Tuyên ngôn về quyền con người 1948.

+ Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, 1966.
+ Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966.
+ Nghị định thư tùy chọn (thứ nhất) của ICCPR.
+ Nghị định thư tùy chọn (thứ hai) của ICCPR về việc xóa bỏ hình phạt tử hình.

13


giới về nhân quyền (1948), Nghị quyết của Đại hội đồng UN về Sự phát triển kinh tế
và bảo vệ thiên nhiên(1962), Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự; Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội (1966), Tuyên bố Johannesburg
(2002) về phát triển bền vững và Hội nghị về Chống Biến đổi khí hậu (2009) tại
Copenhagen,… Trong đó Tuyên bố Liên Hợp quốc về môi trường con người năm
1972 lần đầu tiên chỉ rõ: “con người có quyền cơ bản được sống trong một môi
trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có
trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”
Tiếp theo đó, Nguyên tắc 1 trong Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về
Môi trường và phát triển (Rio de Janeiro - 1992) cũng khẳng định: “Con người là
trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền
được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”.
Quyền con người được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc trụ cột,
là quyền tự nhiên của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, liên quan trực
tiếp đến chất lượng cuộc sống. Quyền được sống trong môi trường trong lành có ảnh
hưởng đến các quyền khác của con người trong lĩnh vực môi trường như: quyền có
nước, quyền sử dụng nước sạch, …
Quyền của con người được sống trong một môi trường trong lành được hiểu là
quyền được sống trong một môi trường với chất lượng cho phép, cuộc sống được
đảm bảo về mặt vệ sinh môi trường, được hài hòa với tự nhiên. Hay nói cách khác, là
quyền được sống trong một vùng không bị ô nhiễm, không bị suy thoái môi trường.
Hiện nay, sức khỏe con người đang bị ảnh hưởng ngày càng lớn do sự xuống

cấp nghiêm trọng của môi trường và hệ sinh thái. Ô nhiễm môi trường và hủy hoại
môi trường tự nhiên đã trực tiếp tác động đến việc hưởng thụ quyền con người. Do
vậy, cộng đồng thế giới thừa nhận môi trường chính là vấn đề của quyền con người
[28] và an ninh con người. Cơ chế đảm bảo để con người không bị đe dọa do những
tác động xấu của môi trường và nhằm thực hiện quyền “con người được sống trong
môi trường trong lành” bao gồm: hệ thống các cơ quan, chương trình dành cho môi
trường; các chính sách tài chính cho lĩnh vực môi trường; tiêu chuẩn về môi trường;
và các biện pháp đảm bảo từ quốc gia.
14


Cụ thể, hệ thống các cơ quan, chương trình quản lý môi trường mà lớn nhất là
UN cùng các cơ quan, chương trình trực thuộc UN như: WHO, UNEP, … đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định cơ chế, chính sách, chương
trình về việc bảo vệ môi trường; chỉ đạo và phối hợp thực hiện chiến lược, kế hoạch
và nhiệm vụ bảo vệ môi trường;... Bên cạnh đó, còn có các cơ quan, chương trình
quốc tế phi chính phủ khác.
Thứ hai, chương trình tài chính ở mỗi quốc gia dành cho môi trường là khác
nhau. Chi phí của nhà nước và doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường phải thường
xuyên tăng (thực tế cho thấy, để phát triển bền vững, mức chi cho nghiên cứu khoa
học- kỹ thuật- công nghệ, giáo dục và đào tạo, cải thiện môi trường của mỗi nước
thường phải đạt tối thiểu 1,5 - 2% GDP hàng năm; riêng chi cho bảo vệ môi trường ở
các nước phát triển là 0,8-1,7% GDP). Nguồn vốn của các định chế tài chính- tín
dụng môi trường này được hình thành từ các nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước,
quyên góp, ủng hộ tự nguyện, vốn viện trợ, vay thương mại, huy động từ xổ số, tín
phiếu môi trường, đặc biệt là từ các loại thuế và lệ phí môi trường.
Thứ ba, môi trường trong lành được dựa trên tiêu chí từ tiêu chuẩn về môi
trường. Cơ cấu của hệ thống tiêu chuẩn môi trường bao gồm các nhóm chính sau: tiêu
chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước
thải; tiêu chuẩn không khí, bao gồm khói bụi, khí thải (các chất thải); tiêu chuẩn liên

quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp; tiêu
chuẩn về bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ; tiêu chuẩn liên quan đến bảo
vệ các nguồn gen, động thực vật, đa dạng sinh học; tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hoá.
2.2. Bảo đảm các quyền liên quan đến các yếu tố từ môi trƣờng
Dưới góc độ luật quốc tế, an ninh con người trong lĩnh vực môi trường không
chỉ là sự bảo đảm cho con người được sống trong môi trường trong lành mà còn là
những bảo đảm cho con người có quyền được sử dụng các nguồn lợi từ môi trường
và không bị đe dọa do sự suy giảm hay biến mất của các nguồn tài nguyên đó.
2.2.1. Bảo đảm quyền tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên

15


×