Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

PHÁT HUY NỘI LỰC, COI TRỌNG THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA GẮN VỚI TRANH THỦ HỢP LÝ, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGOẠI LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.92 KB, 37 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU
-----------------------------------------------------------------------------

PHÁT HUY NỘI LỰC, COI TRỌNG THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
GẮN VỚI TRANH THỦ HỢP LÝ, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ
NGOẠI LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
MỤC LỤC
A. QUAN ĐIỂM VỀ CÁC NGUỒN NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC .......................2
1. Phát huy nội lực là chính, coi trọng thị trường nội địa ....................................2
2. Tranh thủ ngoại lực ..........................................................................................7
B. KHÁI QUÁT THỰC TIỄN VỀ PHÁT HUY NỘI LỰC, KẾT HỢP GIỮA
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA ...................................................................................... 11
1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực, kết hợp
giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển đất nước .......................................... 11
2. Khái quát tình hình thực hiện chủ trương, chính sách về phát huy nội lực, kết
hợp giữa nội lực và ngoại lực trong thời gian qua ............................................ 14
3. Những đòi hỏi mới và khả năng mới từ thực tế về phát huy nội lực, kết hợp
nội lực và ngoại lực ........................................................................................... 26
C. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT
HUY NỘI LỰC, TRANH THỦ NGOẠI LỰC VÀ KẾT HỢP GIỮA NỘI LỰC
VÀ NGOẠI LỰC.................................................................................................. 29
1. Phát huy nội lực............................................................................................. 29
2. Tranh thủ ngoại lực ....................................................................................... 33
3. Kết hợp giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 37

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

1




A. QUAN ĐIỂM VỀ CÁC NGUỒN NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC

1. Phát huy nội lực là chính, coi trọng thị trường nội địa
1.1. Các nguồn nội lực chủ yếu
Các nguồn lực trong nước có thể được huy động cho phát triển kinh tế - xã
hội là hết sức đa dạng, phong phú. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, cần đặc biệt quan tâm
đến việc phát huy những nguồn nội lực chủ yếu sau đây:
- Một, nguồn lực con người mà trung tâm là nguồn lực lao động: Việt Nam
là nước có dân số đông, tốc độ tăng dân số khá lớn, tạo ra lực lượng lao động dồi
dào và trẻ, nhu cầu về việc làm ngày càng tăng, giá lao động lại rẻ, đây đang là lợi
thế so sánh quan trọng của nguồn lực con người nước ta. Mặt khác, con người
Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, chịu khó, có tư chất thông minh và
sáng tạo, có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh. Nói chung, người Việt
Nam có ý thức dân tộc cao, biết tự trọng dân tộc; có ý thức chính trị, nhạy cảm
chính trị; có phương thức ứng xử mềm mỏng, không cực đoan, thái quá; có lối
sống nhân ái, trọng đạo lý; có ý chí, bình tĩnh vượt qua những cam go thử thách,
những dao động tâm lý tư tưởng; tích cực ủng hộ đổi mới, mở cửa đề hội nhập và
phát triển… Đây là thế mạnh của con người Việt Nam, là thế mạnh của nguồn lực
con người Việt Nam, là sức mạnh của đất nước, là nguồn nội sinh quý giá không
thể thay thế được của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, nguồn lực con người nói chung và lực lượng lao động nói riêng
của Việt Nam vẫn còn những hạn chế cơ bản. Dân số nước ta tuy đông nhưng
chất lượng sống thấp; lực lượng lao động dồi dào song chất lượng rất hạn chế,
nhất là về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hóa
lao động công nghiệp, đặc biệt là tư tưởng và tâm lý của người sản xuất nhỏ vẫn
còn tồn tại phổ biến ở người lao động. Thêm vào đó, việc khai thác và sử dụng số
lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả; đồng thời có

sự mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ đào tạo và phân bố lao động giữa các ngành,
các vùng. Những hạn chế nêu trên đã làm yếu đi đáng kể chất lượng nguồn lực
con người của nước ta hiện nay.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

2


- Hai, nguồn lực đất đai và tài nguyên thiên nhiên: Diện tích nước ta không
lớn, song chúng ta vẫn còn gần 5 triệu ha đất trống, đồi núi trọc chưa được sử
dụng. Đất canh tác của nước ta nhìn chung là màu mỡ, thích hợp với nhiều loại
cây trồng có giá trị thương mại cao. Đất phi nông nghiệp còn tiềm năng vốn hóa
lớn, nếu phát huy có hiệu quả sẽ tạo lượng vốn lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đất đai, nước ta được xếp vào loại nước giàu tài nguyên ngư nghiệp, với
khoảng 1 triệu ha mặt nước nội địa, 1 triệu ha mặt nước lợ - mặn, trên 3.200 km
bờ biển với diện tích lãnh hải khoảng 1 triệu km2 cùng nhiều loại thủy sản, hải
sản phong phú, có giá trị kinh tế cao. Nước ta cũng được đánh giá là nước có tài
nguyên khoáng sản phong phú. Cho đến nay cả nước đã xác định được 5.000
điểm quặng với 60 loại khoáng sản khác nhau, trong đó có một số khoáng sản có
trữ lượng lớn, có thể phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như:
than, sắt, bôxít, apatít, dầu mỏ, khí đốt…
Tuy nhiên, nguồn lực đất đai và tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng có
những hạn chế cơ bản. Đất nông nghiệp bị chia thành các thửa có diện tích nhỏ,
phân tán, manh mún, không thích hợp cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Hơn
nữa, diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp đáng kể do chuyển đổi sang mục
đích sử dụng phi nông nghiệp. Đất phi nông nghiệp chưa phát huy hiệu quả đích
thực, bị sử dụng lãng phí, quỹ đất dành cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông,
các tiện ích công cộng ở những đô thị lớn rất hạn chế. Diện tích rừng của nước ta
giảm nhanh chóng và rừng nghèo chiếm tỷ lệ lớn. Hiện nay, diện tích rừng và trữ

lượng gỗ bình quân đầu người của Việt Nam được xếp vào loại thấp nhất thế giới.
Các nguồn tài nguyên biển và khoáng sản của đất nước hoặc chưa được khai thác
hoặc bị khai thác bừa bãi, quá mức, dẫn đến cạn kiệt…
- Ba, nguồn lực vốn tài chính: Trong những năm qua, nền kinh tế tăng
trưởng liên tục với tốc độ khá cao, nên các nguồn lực vốn tài chính trong nước
không ngừng tăng lên. Nguồn thu ngân sách nhà nước tăng lên đều đặn, từ mức
90.749 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 399.000 nghìn tỷ đồng năm 2008 (gấp gần
4,4 lần), do vậy có nguồn để gia tăng các khoản chi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn thu ngân sách nhà nước sẽ còn gia tăng mạnh nếu hệ thống thuế hoạt động
có hiệu quả cao. Khu vực doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty lớn sau nhiều năm phát triển kinh tế thị trường đã tích lũy
được lượng vốn tài chính khá lớn, có đủ tiềm lực và khả năng đảm nhiệm đầu tư
các dự án lớn của đất nước. Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

3


nhanh, có thể huy động các nguồn vốn đa dạng, là nơi chứa đựng nguồn lực vốn
quan trọng. Đặc biệt, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân được đánh giá là rất dồi dào,
được tích trữ hoặc đầu cơ dưới nhiều hình thức khác nhau như vàng, đô la, bất
động sản hoặc gửi ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới thì
nguồn lực vốn tài chính của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Nguồn thu ngân sách nhà
nước chưa đủ chi (năm 2008, thâm hụt ngân sách nhà nước là 75,28 nghìn tỷ
đồng, chiếm 4,95% GDP). Khu vực doanh nghiệp trong nước thường xuyên thiếu
vốn, trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân không dễ được huy động cho đầu
tư, kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau.
- Bốn, nguồn lực khoa học và công nghệ: Đội ngũ cán bộ khoa học của
nước ta tăng nhanh, số cán bộ nghiên cứu trên 1.000 dân của nước ta cao hơn

nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đội ngũ cán bộ khoa học của nước ta
về cơ bản có thể tiếp thu được những công nghệ tiên tiến của thế giới để phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội nước nhà, từng bước phát huy được năng lực
nghiên cứu, giải quyết được những đòi hỏi của nền kinh tế về đổi mới công nghệ
sản xuất. Các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của nước ta
phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như cơ sở vật chất, gồm các trường đại học,
các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các cơ sở nghiên cứu của các doanh
nghiệp, của tập thể, cá nhân…
Tuy nhiên, nguồn lực khoa học và công nghệ của nước ta còn nhiều hạn
chế: trình độ công nghệ nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực; tiềm lực
khoa học và công nghệ của nước ta chưa lớn mạnh; đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ của nước ta còn thiếu và bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề, phân bố lực
lượng, gần đây hiện tượng chảy máu chất xám có xu hướng tăng; cơ sở vật chất
phục vụ cho hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu kém và lạc hậu. Số đề tài
nghiên cứu khoa học đã được nghiệm thu nhiều, nhưng tỷ lệ ứng dụng vào cuộc
sống còn rất thấp, nhiều sản phẩm khoa học và công nghệ không được thương
mại hóa, không được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ…
- Năm, nguồn lực văn hóa vật thể và phi vật thể: Đây được coi là nguồn lực
lớn và hết sức quý giá. Chúng ta có các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, có
hàng nghìn di tích cấp quốc gia, có hàng trăm lễ hội truyền thống, lễ hộ văn hóa,
sinh hoạt văn hóa… Dân tộc ta có nhiều truyền thống tốt đẹp, nhân dân ta có lòng
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

4


yêu nước, năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý của Chính phủ được thử thách
qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là những yếu tố đặc biệt quan trọng đóng
góp cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, không ít nguồn lực văn hóa đã bị mai một, mất dần bản sắc tốt

đẹp vốn có, một số không được phát huy hoặc bị thương mại hóa quá mức, làm
mất giá trị giáo dục tinh thần cho người dân Việt Nam. Nói cách khác, các nguồn
lực này chưa được phát huy thỏa đáng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
1.2. Phát huy nội lực
Các nguồn nội lực đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước. Yêu cầu hiện nay cũng như những năm tới
là phải huy động tối đa, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
này. Chúng ta cần huy động triệt để hơn các nguồn lực tự nhiên phục vụ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đặc biệt là đất đai, hầm mỏ, rừng, biển. Đồng
thời, chúng ta phải có chính sách đúng để có thể huy động được cao nhất các
nguồn lực của dân, của các thành phần kinh tế, nhất là nguồn vốn và nguồn nhân
lực. Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế mở
mang các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ đó thu hút và giải quyết
việc làm cho toàn bộ nguồn nhân lực của đất nước; phải làm cho mọi người dân
hễ có tiền là đưa vào đầu tư phát triển kinh tế chứ không phải cất giấu, tích trữ
hoặc tiêu xài lãng phí. Đây là việc khó, song chúng ta hoàn toàn có thể làm được
nếu chúng ta có chính sách phù hợp.
Một yêu cầu đặc biệt quan trọng của phát huy nội lực là phải có sự phân bổ
hợp lý các nguồn lực, tức là phải vừa đảm bảo cho nền kinh tế phát triển toàn diện
các ngành, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, song lại vừa có ưu tiên
thỏa đáng cho những ngành, lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng đối với
cả nước, có khả năng tạo ra sự phát triển đột phá cho nền kinh tế. Phân bổ các
nguồn lực phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều có thể tiếp cận các
nguồn lực một cách bình đẳng, trên cơ sở đó từng thành phần có thể đóng góp hết
khả năng của mình cho sự phát triển chung của đất nước. Phân bổ các nguồn lực
cần có sự hợp lý giữa các vùng, tức là vừa tạo ra được những vùng kinh tế trọng
điểm, có sức mạnh kinh tế lớn, có thể thu hút, lôi kéo, hỗ trợ các vùng khác phát
triển, lại vừa quan tâm đúng mức đến các vùng kém phát triển, vùng núi cao,
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


5


vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo, bảo đảm sự phát triển tương đối đồng
đều giữa các vùng trong cả nước. Phân bổ các nguồn lực cần hợp lý giữa lĩnh vực
kinh tế và lĩnh vực xã hội, sao cho kinh tế và xã hội thường xuyên tạo điều kiện
cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển một cách bền vững.
Về sử dụng các nguồn nội lực, trước hết phải sử dụng một cách đầy đủ, có
nghĩa là, một mặt có những nguồn lực nào có thể làm cho nền kinh tế nước nhà
phát triển thì chúng ta cố gắng sử dụng hết, mặt khác phải cố gắng sử dụng tối đa
từng nguồn lực. Cùng với sử dụng đầy đủ, cần sử dụng tiết kiệm các nguồn lực,
đặt tiết kiệm là quốc sách hàng đầu trong nhiều năm nữa. Một yêu cầu đặc biệt
quan trọng là cần sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực. Vấn đề hiệu quả cần
được đặt ra một cách nghiêm túc hơn và làm quyết liệt hơn. Tư tưởng sử dụng
hiệu quả các nguồn lực phải được quán triệt sâu sắc đến từng cơ quan của Đảng
và Nhà nước ở mọi cấp, từng doanh nghiệp và từng người dân. Chỉ khi nào chúng
ta chắt chiu đối với từng nguồn lực và sử dụng hiệu quả nó, chúng ta mới có thể
đạt được sự phát triển nhanh, sớm theo kịp các nước trong khu vực và trên thế
giới.
1.3. Tầm quan trọng và yêu cầu của thị trường nội địa
Thị trường nội địa với hơn 86 triệu dân có thu nhập bình quân đầu người
khoảng 17 triệu đồng/năm là một thị trường lớn và đang tiếp tục phát triển nhanh
chóng. Trong những năm qua, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (quy mô thị
trường nội địa) tăng nhanh hơn mức tăng trưởng GDP. Cụ thể, theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, trong 10 năm (1997- 2007), tổng mức bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ theo giá thực tế đã tăng 352,01% (năm 2007 gấp 4,52 lần năm 1997,
731.810 tỷ đồng/161.900 tỷ đồng), trong khi đó GDP chỉ tăng 264,77% (năm
2007 gấp 3,65 lần năm 1997, 1.144.015 tỷ đồng/313.623 tỷ đồng). Điều này
chứng tỏ thị trường nội địa thực sự là “đầu kéo” của nền kinh tế, đóng góp phần

quan trọng vào tăng trưởng.
Với sức hấp dẫn của thị trường nội địa Việt Nam, các doanh nghiệp nước
ngoài, trong đó có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia, đã và đang rất quan tâm khai
thác, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện mở cửa dịch vụ phân
phối theo cam kết trong khuôn khổ hội nhập này. Trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp Việt Nam lại chưa quan tâm đúng mức đến việc chiếm lĩnh khu vực thị
trường nội địa. Lâu nay, trên nhiều lĩnh vực, hình bóng các doanh nghiệp trong
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

6


nước trên thị trường nội địa vẫn khá nhạt nhòa. Sức cạnh tranh – không nhất thiết
về chất lượng – hơn hẳn về nhiều mặt của hàng ngoại, cộng thêm tâm lý xem
thường hàng nội địa đi vào định kiến của không ít người tiêu dùng, càng khiến
các sản phẩm nội bị chất thêm lực cản khi muốn vượt lên chính mình.
Bởi vậy, mở rộng thị trường nội địa, tăng cường nội tiêu (trong cả sản xuất
và tiêu dùng) không chỉ là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh thị trường xuất khẩu
bị thu hẹp, mà phải là hướng phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thị trường nội địa còn là điểm tựa để các doanh nghiệp nước ta vươn lên trong
cạnh tranh, nơi các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế hơn so với thị trường nước
ngoài. Phải quán triệt quan điểm: thị trường trong nước là cơ sở, thị trường nước
ngoài là quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần có
chính sách thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh, bền vững
trong cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
2. Tranh thủ ngoại lực
2.1. Các nguồn ngoại lực
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, các nguồn ngoại lực có thể được huy động cho phát triển đất nước là hết sức

phong phú, đa dạng. Trong đó có một số nguồn lực có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, đã và đang có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta, đó là các nguồn lực về vốn, tri thức và khoa học – công nghệ.
Nguồn vốn được đánh giá là quan trọng nhất, trong đó nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm phần lớn. Trong giai đoạn 2000-2006, tỷ trọng
vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội luôn dao động trong khoảng 14-18%,
tuy nhiên trong hai năm vừa qua con số này đã gia tăng đột biến, tương ứng là
24,3% và 31,4% trong các năm 2007 và 2008. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tỷ
trọng vốn FDI vẫn chiếm 22% trong tổng số 322,6 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư toàn
xã hội. Rõ ràng nguồn vốn này đã bổ sung hữu hiệu cho các nguồn vốn trong
nước trong bối cảnh nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong thời gian tới, nhiều dự
báo cho rằng vốn FDI tục tăng do Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà
đầu tư nước ngoài.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

7


Bên cạnh FDI, các nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) cũng đổ
vào Việt Nam ngày càng nhiều, cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam. Nếu như tính đến cuối năm 2006, số vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam đạt khoảng 2 tỷ USD, thì đến cuối
năm 2007 con số này đã tăng lên gần 4 tỷ USD và cuối năm 2008 đạt tới 7,4 tỷ
USD. Xu hướng dòng vốn này đổ vào Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng. Nguồn FII
giúp cho nền kinh tế tăng tỷ lệ đầu tư mà không cần dựa hoàn toàn vào nguồn tiết
kiệm trong nước; các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận với nguồn
tiết kiệm nước ngoài, tận dụng nguồn vốn này để đầu tư, giảm bớt áp lực vốn
trong quá trình mở rộng sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí vay vốn. Nguồn vốn

này cũng góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, phát
triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường ở
Việt Nam nói chung.
Nguồn vốn quan trọng tiếp theo từ bên ngoài là nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Nguồn vốn này trong những năm qua liên tục gia tăng và góp
một phần quan trọng vào tổng đầu tư toàn xã hội. Tính trong giai đoạn 3 năm
(2006-2008), tổng vốn ODA đã ký đạt 11,07 tỷ USD, trong đó lượng vốn đã giải
ngân đạt 6,213 tỷ USD, chiếm 12-13% tổng đầu tư toàn xã hội. Vốn ODA đã
đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là phát
triển kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển năng lượng và công nghiệp,
phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ… Điều quan trọng là
cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vẫn tiếp tục thể hiện sự cam kết cao và sự ủng
hộ mạnh mẽ trong việc hỗ trợ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
(năm 2009, tổng giá trị vốn ODA cam kết đạt 5,914 tỷ USD). Có nghĩa là nguồn
vốn ODA tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong những năm tới.
Một nguồn lực tài chính quan trọng nữa cần phải kể đến là nguồn kiều hối
gửi về nước hàng năm. Hiện có khoảng 3 triệu Việt kiều đang sinh sống ở khoảng
40 nước, chủ yếu là các nước có nền kinh tế phát triển, có thu nhập cao và hầu hết
bà con các thế hệ vẫn giữ được truyền thống yêu quê hương, đất nước. Lượng
kiều hối gửi về nước trong những năm qua không ngừng tăng nhanh: năm 2005
đạt gần 4 tỷ USD, năm 2006 tăng lên 5,2 tỷ USD, và các năm 2007, 2008 tăng lên
tương ứng là 6,7 và 8 tỷ USD. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam hiện
nằm trong top 10 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới. Nguồn kiều hối không chỉ

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

8


góp phần làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai, mà còn trở thành nguồn vốn quan

trọng cho phát triển đất nước nếu chúng ta có các chính sách huy động đúng đắn.
Đi kèm với các nguồn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam còn có các
nguồn lực quan trọng khác, bao gồm tri thức và khoa học – công nghệ. Hiện nay,
có số liệu cho rằng có tới 90% các hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam là ở các doanh nghiệp FDI. Vì vậy, có thể nói rằng hoạt động
đầu tư nước ngoài đã du nhập vào Việt Nam những công nghệ hiện đại, giúp nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh công nghệ, còn có những
nguồn lực quý báu khác được chuyển giao vào Việt Nam như tri thức, kỹ năng
quản lý tiên tiến, tác phong lao động công nghiệp,… góp phần quan trọng vào
việc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
Hiện nay, trong số hơn 3 triệu Việt kiều đang sinh sống ở khắp các châu
lục có khoảng hơn 300 nghìn nhà khoa học, trong đó có nhiều người luôn sẵn
sàng phục vụ đất nước. Đây là nguồn tri thức, khoa học và công nghệ vô cùng
quý giá, có thể được huy động cho công cuộc phát triển đất nước.
2.2. Tranh thủ ngoại lực
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, cải thiện môi trường đầu tư, kết hợp hài
hòa giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại là cách để khơi thông nguồn
ngoại lực từ bên ngoài, góp phần nhân lên sức mạnh của nguồn nội lực phục vụ
cho chiến lược phát triển đất nước.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện
nay, nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới gặp nhiều khó khăn, trong khi
đó chúng ta có những lợi thế cơ bản, cần tranh thủ cơ hội này để tăng cường thu
hút các nguồn ngoại lực. Tuy nhiên, trong quá trình thu hút các nguồn ngoại lực,
cần có định hướng đúng, có nghĩa là các nguồn ngoại lực có đóng góp hữu hiệu
nhất cho công cuộc phát triển đất nước. Chẳng hạn, trong lĩnh vực FDI, trong thời
gian tới cần quan tâm nhiều đến những đối tác có tiềm lực về vốn và công nghệ
(Bảng 1).

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


9


Bảng 1. Một số đối tác thu hút FDI mục tiêu
Ngành mục tiêu
Công nghệ thông tin
Điện tử
Hoá chất

Các đối tác mục tiêu
Mỹ, Nhật Bản, EU, Singapore, Ấn Độ
Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc
Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc

Dầu khí

Mỹ, EU, Nga

Chế biến thực phẩm

Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc

Dệt may, Da giầy
Xây dựng hạ tầng KCN

Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore
Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc

Tài chính, ngân hàng
Bảo hiểm


EU, Mỹ, Trung Quốc
EU, Mỹ, Trung Quốc

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bên cạnh việc định hướng đúng trong thu hút các nguồn ngoại lực, cần sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực này, đặc biệt là nguồn ODA. Tính hiệu quả của
nguồn vốn FDI là do doanh nghiệp và thị trường quyết định, còn nguồn ODA
phần lớn là vốn đi vay, nếu sử dụng không có hiệu quả sẽ tạo gánh nặng nợ phải
trả cho các thế hệ mai sau.
2.3. Quan hệ giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi “Nội lực là quyết định, ngoại lực
là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”
là đúng đắn.
Gần đây, có một số ý kiến cho rằng cần xem xét lại quan điểm về mối quan
hệ giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực, rằng cách đúng nhất đối với Việt
Nam hiện nay là huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế, không phân biệt
đó là nội lực hay ngoại lực. Tuy nhiên, kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu với những ảnh hưởng nặng nề, nhất là đối với những
nước lệ thuộc nhiều vào các nguồn lực bên ngoài, khiến cho nhiều nước phải nhìn
nhận lại tầm quan trọng của các nguồn nội lực, đặc biệt là thị trường nội địa. Xu
thế “hướng nội”, thể hiện dưới những hình thức khác nhau, đã và đang xuất hiện
ở nhiều nước. Có thể nói rằng các nguồn nội lực vẫn đóng vai trò quyết định.
Nguồn ngoại lực đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên, muốn khai thác, tiếp
thu ngoại lực, thì nội lực phải mạnh. Nói cách khác, nếu không chuẩn bị tốt bên
trong, thì ngoại lực dù có mạnh, có nhiều đến đâu, cũng không phát huy được tác
dụng, chưa nói là có thể tác động ngược lại.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

10



Một yêu cầu hết sức quan trọng nữa trong giải quyết mối quan hệ giữa phát
huy nội lực và tranh thủ ngoại lực là phải nội sinh hoá ngoại lực và hiện đại hoá
nội lực, có thể hiểu là việc tiếp thu và chuyển hoá ngoại lực thành nội lực, làm
cho nội lực được phát huy, ngày càng được tăng cường và phát triển. Muốn vậy,
đầu tư phát triển con người, chăm lo giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng nhân cách,
nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển nhân lực, khoa học và công nghệ, giữ gìn và
phát huy truyền thống dân tộc,… chính là điều kiện để đảm bảo nội sinh hoá
ngoại lực và hiện đại hoá nội lực, phát triển đất nước.
B. KHÁI QUÁT THỰC TIỄN VỀ PHÁT HUY NỘI LỰC, KẾT HỢP GIỮA NỘI
LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM THỜI
GIAN QUA

1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực,
kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển đất nước
“Phát huy nội lực” là một chủ trương lớn của Đảng ta trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ trương này đã được khẳng định trong các
văn kiện quan trọng của Đảng và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của
Nhà nước. Nội dung có tính xuyên suốt là Đảng và Nhà nước ta luôn coi các
nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định, các nguồn lực bên ngoài đóng vai
trò quan trọng, và sự kết hợp giữa hai loại nguồn lực này có ý nghĩa hết sức to lớn
đối với sự phát triển đất nước.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: “Giữ vững độc lập tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài”1.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Tập trung tháo gỡ
mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ
các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.

Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết
với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”2.
Tại Đại hội Đảng lần thứ X, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX, khi kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, XNB
Chính trị Quốc gia, tr. 84.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, XNB
Chính trị Quốc gia, tr. 165-166.
11
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới, đã rút ra một trong những bài học lớn là: “Phát
huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân
tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại
lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để
phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Cụ thể hóa những chủ trương nêu trên, trong những năm qua Nhà nước ta
đã ban hành và thực hiện nhiều văn bản pháp luật nhằm khơi dậy các nguồn lực
trong nước (bao gồm: nguồn lực con người, nguồn lực đất đai và tài nguyên,
nguồn lực vốn tài chính, nguồn lực khoa học và công nghệ, nguồn lực văn hóa,
sức mạnh trí tuệ, sức mạnh của nhân tố lãnh đạo...) cho công cuộc phát triển đất
nước. Xét khái quát, các văn bản pháp luật tập trung vào những nội dung chủ yếu

sau đây:
- Thứ nhất, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và
phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, các loại hình kinh tế
hợp tác, các hộ kinh doanh cá thể; đồng thời tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.
- Thứ hai, phát triển đồng bộ và tạo sự vận hành thông suốt các loại thị
trường, bao gồm: thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường tài chính; thị trường bất
động sản; thị trường lao động; thị trường khoa học và công nghệ...
- Thứ ba, chính sách thuế được đổi mới và từng bước hoàn thiện theo
nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi,
khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh. Chính sách phân phối tài chính
được đổi mới theo hướng kết hợp nguồn lực nhà nước với các nguồn lực khác
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính sách tài chính
đối với doanh nghiệp nhà nước đã từng bước xóa bỏ tình trạng bao cấp đối với
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
- Thứ tư, chính sách tiền tệ và tín dụng được thực hiện linh hoạt, theo
nguyên tắc thị trường nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và bảo
đảm an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đã kết hợp tương đối
tốt chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô, khuyến
khích doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Thứ năm, đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình xây dựng, thông qua
và phê duyệt, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

12


theo hướng phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh và nguồn lực của đất nước, của
mỗi vùng và mỗi địa phương.
- Thứ sáu, thu hút mạnh các nguồn lực từ bên ngoài, gồm nguồn lực của

các nhà đầu tư nước ngoài và nguồn vốn ODA. Đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo
điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các
vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Đa dạng hóa hình
thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn
ODA, tập trung vốn cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật và vùng có điều kiện
kinh tế, xã hội khó khăn.
- Thứ bẩy, thực hiện chính sách chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập ngày càng
toàn diện và sâu rộng mà bước ngoặt quan trọng là việc Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), góp phần huy động các nguồn ngoại lực và
kết hợp có hiệu quả giữa các nguồn nội lực và ngoại lực phục vụ mục tiêu phát
triển đất nước.
Trong thời gian gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ, các cấp, các ngành lại càng đề cao các
nguồn nội lực. Trong đó, việc khai thác mạnh thị trường nội địa được coi là giải
pháp quan trọng để nền kinh tế vượt qua khó khăn, thách thức. Do thị trường xuất
khẩu bị thu hẹp đáng kể, các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tiêu thụ hàng hóa, cho nên việc đẩy mạnh khai thác thị trường tiêu thụ
trong nước giúp giải tỏa những khó khăn này. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là cơ
hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành tái cấu trúc thị trường, mở rộng
thị trường trong nước, giảm bớt phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Trong thông
điệp đầu năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “Mở
rộng thị trường nội địa, tăng cường nội tiêu (với cả sản xuất và tiêu dùng) không
chỉ là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, mà phải
là hướng phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường nội địa
còn là điểm tựa để các doanh nghiệp nước ta vươn lên trong cạnh tranh, nơi các
doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế hơn so với thị trường nước ngoài. Phải quán
triệt quan điểm: thị trường trong nước là cơ sở, thị trường nước ngoài là quan

trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần có chính sách

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

13


thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong cả thị
trường nội địa và thị trường quốc tế”3.
Xác định tầm quan trọng của thị trường nội địa là một căn cứ trọng yếu để
Chính phủ đưa ra các chương trình kích cầu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong
nước duy trì sản xuất, kinh doanh. Các Bộ, ngành cũng đang gấp rút hoàn thiện
chương trình kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước,
mở rộng và khai thác thị trường nội địa. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng
thay đổi chiến lược sản xuất, kinh doanh nhằm tiếp cận với thị trường nội địa.
Trước thách thức và cơ hội phát triển đất nước trước mắt cũng như lâu dài,
có thể nói rằng phương châm cơ bản của chúng ta vẫn là: Ra sức phát huy nội lực,
tranh thủ ngoại lực, coi nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là quan trọng kết
hợp nội lực và ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên.
2. Khái quát tình hình thực hiện chủ trương, chính sách về phát huy
nội lực, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong thời gian qua
2.1. Những thành tựu nổi bật
2.1.1. Phát huy nguồn lực con người
Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn nhân lực dồi dào, là lợi thế quan
trọng trong quá trình phát triển đất nước. Nhờ thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, nên lực lượng lao động được thu hút tham gia vào các hoạt động
kinh tế ngày càng tăng, năng suất lao động có được cải thiện và cơ cấu lao động
chuyển dịch tích cực (xem các Bảng 2, 3 và 4).
Bảng 2. Lực lượng lao động tham gia các hoạt động kinh tế, 2000-2008


3

Năm

LLLĐ tham gia
HĐKT (1.000 người)

Tỷ lệ LLLĐ/dân số (%)

2000

37.609,6

48,44

2001

38.562,7

49,00

2002

39.507,7

49,55

2003

40.573,8


50,15

2004

41.586,3

50,70

2005

42.526,9

51,17

Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng: “Phát huy sức mạnh tổng
hợp, nỗ lực phấn đấu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã
hội”, Báo điện tử Vietnamnet.vn, ngày 02/01/2009.
14
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


2006

43.338,9

51,51

2007


44.173,8

51,86

2008

44.915,8

52,10

Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả.
Số liệu của Bảng 2 cho thấy lực lượng lao động tham gia các hoạt động
kinh tế của Việt Nam tăng lên liên tục, tính theo cả số lượng tuyệt đối và tỷ lệ
tương đối so với tổng dân số.
Bảng 3. Năng suất lao động xã hội, 2000-2008
Năm

Năng suất LĐXH
(Triệu đồng/người)

Tốc độ tăng NSLĐ (%)

2000

11,7

-

2005


19,7

-

2006

22,5

14,2

2007

25,9

15,1

2008

32,9

27,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả.
Số liệu của Bảng 3 cho thấy năng suất lao động xã hội tăng liên tục, đặc
biệt là năm 2008 tốc độ tăng năng suất lao động đạt tới 27%.
Bảng 4. Cơ cấu lao động làm việc theo ngành kinh tế, 2000-2008
Đơn vị tính: %
Năm

Nông – lâm nghiệp

và thủy sản

Công nghiệp và
xây dựng

Dịch vụ

2000

65,09

13,11

21,80

2005

57,10

18,20

24,70

2006

55,37

19,23

25,40


2007

53,90

19,97

26,13

2008

52,62

20,83

26,55

Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả.
Sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu lao động theo ngành kinh tế được thể
hiện rất rõ tại Bảng 4, khi tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành nông – lâm
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

15


nghiệp và thủy sản giảm liên tục, trong khi tỷ trọng lao động làm việc trong các
ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ đã tăng lên tương ứng.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực nêu trên, lực lượng lao động Việt
Nam cũng đạt trình độ chuyên môn, kỹ thuật ngày càng cao hơn, tác phong lao
động công nghiệp thể hiện rõ nét hơn, và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường

lao động trong tình hình mới.
2.1.2. Phát huy nguồn lực đất đai và tài nguyên thiên nhiên
Theo Hiến pháp Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước giao
đất cho người dân để sử dụng ổn định, lâu dài với các quyền: chuyển nhượng,
thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho tặng và góp vốn để liên doanh, liên
kết. Cùng với sự đổi mới pháp luật về đất đai và chính sách quản lý đất đai, hệ
thống chính sách tài chính về đất đai cũng được hình thành và tưng bước hoàn
thiện. Nhờ vậy, đất đai ở nước ta dần dần đã trở lại vị trí đích thực của nó. Giá trị
của đất không ngừng tăng lên, sự biến động của các loại đất ngày càng theo xu
hướng tiến bộ, hiện đại, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển.
Bảng 5. Tình hình biến động các loại đất, 1990-2008
Đơn vị tính: ha
Loại đất

1990

2000

2003

2008

Tổng diện tích tự nhiên

33.163.271

32.294.061

32.931.400


33.115.000

I. Đất nông nghiệp

6.993.241

9.345.346

9.531.800

9.420.300

1. Đất cây hàng năm

5.338.241

6.129.518

5.958.400

6.309.600

2. Đất cây lâu năm

1.045.161

2.181.943

2.314.000


3.110.700

II. Đất lâm nghiệp

9.395.194

11.575.429

12.402.200

14.816.600

1. Rừng tự nhiên

8.723.278

9.774.483

10.224.600

-

671.916

1.800.544

2.107.700

-


972.190

1.532.843

1.669.600

1.553.700

1. Đất xây dựng

91.452

126.491

161.700

-

2. Đất giao thông

231.106

437.965

481.600

-

3. Đất thủy lợi


340.812

557.010

583.200

-

817.752

443.178

460.400

620.400

14.924.894

10.027.265

8.867.400

4.732.100

2. Rừng trồng
III. Đất chuyên dùng

IV. Đất ở
V. Đất chưa sử dụng


Nguồn: Bộ NN&PTNT và Tổng cục Thống kê.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

16


Số liệu Bảng 5 cho thấy diện tích của các loại đất có mục đích sử dụng đều
tăng lên. Việc huy động nguồn lực đất đai được thực hiện theo một số hình thức
chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, người dân tìm mọi cách để đầu tư khai hoang, mở rộng thêm
diện tích đất nông, lâm nghiệp, diện tích mặt nước, đẩy mạnh các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, tạo việc làm và thu nhập.
- Thứ hai, người nông dân đã dần từ bỏ phương thức canh tác theo kiểu
quảng canh, bóc lột độ màu mỡ của đất đai, để tăng cường thâm canh, áp dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong canh tác, nâng cao độ màu mỡ của đất đai và
nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi.
- Thứ ba, trong những năm gần đây, ở nhiều địa phương trên cả nước, đã có
sự dịch chuyển mạnh đất đai từ mục đích sử dụng nông nghiệp sang mục đích sử
dụng phi nông nghiệp, nhất là khu công nghiệp và khu đô thị, nhằm đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa của đất nước.
Ngoài nguồn lực về đất đai, các nguồn tài nguyên khác như tài nguyên
rừng, tài nguyên biển, các loại khoáng sản cũng được quan tâm khai thác, đóng
góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.1.3. Phát huy nguồn lực vốn tài chính
Nhờ thực hiện các chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển đầu tư,
kinh doanh, nhất là kể từ khi thực hiện Luật Doanh nghiệp 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2005) và Luật Đầu tư 2005, nên nguồn lực về vốn được huy động cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội không ngừng tăng lên, từ 34,2% GDP năm 2000 lên
41,3% năm 2008. Trong đó, nguồn vốn trong nước tăng khá nhanh và chiếm phần
lớn trong tổng vốn đầu tư, bình quân trên 80% (xem các Bảng 6 và 7).

Bảng 6. Tổng vốn đầu tư xã hội, 2000-2008
Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng
Năm

Tổng số

Kinh tế
nhà nước

Kinh tế
ngoài
nhà nước

Khu vực
có vốn
ĐTNN

Tỷ trọng
tổng vốn
đầu tư trên
GDP (%)

2000

151,2

89,4

34,6


27,2

34,2

2001

170,5

102,0

38,5

30,0

35,4

2002

200,1

114,7

50,6

34,8

37,4

2003


239,3

126,6

74,4

38,3

39,0

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

17


2004

290,9

139,8

109,8

41,3

40,7

2005

343,1


161,6

130,4

51,1

40,9

2006

404,7

185,1

154,0

65,6

41,5

2007

532,1

198,0

204,7

129,4


46,5

2008

610,9

174,4

244,1

192,4

41,3

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Số liệu của Bảng 6 cho thấy trong 5 năm qua (2004-2008), tỷ trọng tổng
vốn đầu tư trên GDP luôn đạt trên 40%, trong đó năm 2007 đạt tỷ trọng rất cao
tới 46,5%.
Bảng 7. Cơ cấu vốn đầu tư xã hội, 2000-2008
Đơn vị tính: %
Năm

Tổng số

Kinh tế
nhà nước

Kinh tế
ngoài

nhà nước

Khu vực
có vốn
ĐTNN

2000

100

59,1

22,9

18,0

2001

100

59,8

22,6

17,6

2002

100


57,3

25,3

17,4

2003

100

52,9

31,1

16,0

2004

100

48,1

37,7

14,2

2005

100


47,1

38,0

14,9

2006

100

45,7

38,1

16,2

2007

100

37,2

38,5

24,3

2008

100


28,6

40,0

31,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Số liệu của các Bảng 6 và 7 cho thấy rằng, tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà
nước đã giảm liên tục, trong khi đó tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong
nước tăng lên rất nhanh và hiện chiếm tỷ trọng cao nhất (năm 2008 chiếm 40%).
Điều đáng nói là nguồn vốn trong dân hiện nay được đánh giá là còn rất dồi dào,
nên tiềm năng huy động cho đầu tư còn lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài được duy trì ổn định và tăng mạnh trong hai năm 2007 và 2008- là những
năm nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát, khủng
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18


hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Điều này phần nào cho thấy có sự
bổ sung hữu hiệu giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Nguồn vốn trong nước gia tăng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo điều
kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và
nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển
khoa học và công nghệ, đặc biệt là phát triển kết cấu hạ tầng.
2.1.4. Phát huy nguồn lực khoa học và công nghệ
Trong những năm đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách đổi mới liên quan đến lĩnh vực khoa học và công
nghệ, tập trung vào một số nội dung chính như: đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao
vai trò của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước; đổi mới chính sách tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ;
xây dựng và từng bước hoàn thiện khung khổ luật pháp cho hoạt động khoa học
và công nghệ… Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học và công nghệ
được phát triển về số lượng, nâng cao về trình độ; đầu tư cho khoa học và công
nghệ được tăng cường, trong đó có sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế. Kết quả là hoạt động khoa học và công nghệ đã có những
đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện ở một số mặt chủ yếu
sau đây:
- Khoa học xã hội đã góp phần phát triển tư duy lý luận, cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới đất nước, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là phục vụ cho việc soạn thảo các
văn kiện của Đảng, tổng kết thực tiễn, góp phần quan trọng phát triển tư duy kinh
tế thị trường.
- Khoa học tự nhiên đã chú trọng định hướng vào phát triển công nghệ và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, có nhiều công trình
nghiên cứu đóng góp vào sự phát triển khoa học, được ứng dụng trong thực tiễn,
tạo điều kiện cho việc tiếp thu và làm chủ công nghệ nước ngoài.
- Khoa học công nghệ đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân: trên 60% diện tích trồng ngô và 90% diện tích trồng lúa đã được sử
dụng giống có chất lượng cao, năng suất lúa tăng lên đáng kể, ước tính trên 1/3
giá trị gia tăng trong nông nghiệp là do đóng góp của khoa học và công nghệ.
Trong công nghiệp, năng lực công nghệ quốc gia đã có tiến bộ, bắt đầu có
được khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ công nghệ. Lĩnh vực giao thông
vận tải, xây dựng có một số mặt đã tiếp cận được trình độ khu vực và thế giới.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

19


Ngành thông tin và truyền thông đã đi thẳng vào công nghệ số, công nghệ cáp

quang, thông tin vệ tinh, tạo nên bước tiến mạnh trong hiện đại hóa mạng thông
tin và truyền thông tương hợp với thế giới. Nhiều lĩnh vực khác như y học, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin… cũng có những đóng góp đáng kể của khoa
học và công nghệ. Khoa học và công nghệ đã góp phần cùng với giáo dục và đào
tạo nâng cao dân trí, đưa số lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên tăng từ 1,3
triệu người năm 2000 lên 2,8 triệu người năm 2008.
2.1.5. Phát huy nguồn lực phi vật thể
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều
nỗ lực trong việc phát huy các nguồn lực phi vật thể phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể là:
- Chúng ta đã rất coi trọng việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn
dân tộc, tinh thần đấu tranh ngoan cường chống ngoại xâm, thiên tai địch họa,
tinh thần quyết tâm phát triển kinh tế, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước
trở nên giàu có. Giáo dục sâu rộng trong nhân dân, đặc biệt là trong thanh niên,
nhằm tạo ra trong toàn xã hội khí thế sôi nổi phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước.
- Chúng ta đã tăng cường đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử và văn hóa thuộc
mọi miền của đất nước, nghiên cứu, phục hồi các di sản văn hóa phi vật thể, từ dó
đưa các di sản này phục vụ việc giáo dục nhân cách, đạo lý cho thanh thiếu niên
Việt Nam, cũng như phục vụ các hoạt động kinh tế (tham quan, du lịch…).
- Đảng và Nhà nước đã trợ giúp các địa phương và nhân dân khôi phục các
lễ hội truyền thống của từng vùng, từng dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, từ đó giáo dục ý thức cộng đồng, ý thức cội nguồn, những nét đẹp văn
hóa của cha ông cho thế hệ ngày nay, giúp họ tự tin hơn, vững vàng hơn trong
học tập, lao động xây dựng đất nước, cũng như trong giao tiếp, ứng xử với bạn bè
khắp năm châu. Các lễ hội truyền thống, giàu bản sắc dân tộc góp phần hấp dẫn
thu hút khách du lịch thập phương đến với Việt Nam.
- Thông qua nhiều hình thức phong phú như tuyên dương các nhà nông
giỏi, tôn vinh các nhà kinh doanh giỏi, tôn vinh các sản phẩm thương hiệu Việt
chất lượng cao,… chúng ta đã dần dần khơi dậy được trong nhiều người mong

muốn làm kinh tế giỏi.
- Chúng ta đã cố gắng chỉnh đốn và đổi mới Đảng, từ tư duy đến tổ chức,
cán bộ, đổi mới bộ máy nhà nước, để cho Đảng và Nhà nước ta gần dân hơn, có
trình độ và năng lực cao hơn.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

20


2.1.6. Khai thác thị trường nội địa
Thị trường nội địa Việt Nam với số dân hơn 86 triệu người được đánh giá
là một thị trường rộng lớn và giàu tiềm năng. Trong những năm qua, mức thu
nhập và chi tiêu của người dân tăng khá nhanh, khiến cho thị trường trong nước
ngày càng trở nên hấp dẫn. Tính trong giai đoạn từ năm 1999 đến 2006, mức thu
nhập bình quân đầu người đã tăng 2,16 lần và mức chi tiêu cho đời sống bình
quân đầu người tăng 2,08 lần (Bảng 8).
Bảng 8. Thu nhập và chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người
một tháng, 1999-2006
Đơn vị tính: Nghìn đồng
1999

2002

2004

2006

Thu nhập bình quân đầu người
một tháng


295

356

484

636

Chi tiêu cho đời sống bình quân
đầu người một tháng

221

269

360

460

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của cả nước đã
không ngừng tăng nhanh trong những năm qua, từ 220,4 nghìn tỷ đồng năm 2000
lên 977,2 nghìn tỷ đồng năm 2008 (Bảng 9).
Bảng 9. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng,
2000-2008
Năm

Tổng mức

Cơ cấu theo thành phần kinh tế (%)


(Nghìn tỷ
đồng)

Kinh tế
nhà nước

2000

220,4

17,8

80,6

1,6

2005

480,3

12,9

83,3

3,8

2006

596,2


12,7

83,6

3,7

2007

745,7

10,7

85,6

3,7

2008

977,2

9,8

86,8

3,4

Kinh tế ngoài Kinh tế có vốn
nhà nước
ĐTNN


Nguồn: Tổng cục Thống kê.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

21


Số liệu của Bảng 9 cho thấy rằng, ngoài sự gia tăng tổng mức bán lẻ và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng, cơ cấu lưu chuyển hàng hóa theo các chủ thể tham
gia thị trường có sự thay đổi đáng kể. Cơ cấu lưu chuyển hàng hoá và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng của thành phần kinh tế nhà nước tuy giảm, nhưng các doanh
nghiệp thương mại nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong lưu chuyển bán buôn
và xuất nhập khẩu. Đối với thị trường nông thôn và miền núi thì thương nghiệp
nhà nước vẫn là lực lượng chủ lực thực hiện các chính sách xã hội về lưu thông
hàng hoá như đã cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu thuộc diện chính sách cho
đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa và tổ chức mua một số nông sản cho nông
dân ở vùng đặc biệt khó khăn... Điều đáng chú ý là cơ cấu của thành phần kinh tế
ngoài nhà nước gia tăng liên tục và chiếm phần lớn trong tổng mức lưu chuyển,
cho thấy nỗ lực của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này trong việc
khai thác thị trường nội địa.
Thời gian gần đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị sụt giảm mạnh mẽ, nhiều
doanh nghiệp đã chuyển sang đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa như một sự
thay thế cho thị trường xuất khẩu. Do vậy, mặc dù có nhiều khó khăn song tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm 2009
vẫn đạt 547,5 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2008.
2.2. Những sai sót, yếu kém và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, còn không ít những mặt sai sót, yếu
kém liên quan đến việc thực hiện chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm phát
huy nội lực, kết hợp nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Có thể điểm qua một số mặt sai sót, yếu kém chủ yếu sau đây:
- Một, về phát huy nguồn lực con người: Nguồn lực lao động chưa được sử
dụng tốt, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị chưa giảm, lao động ở khu vực
nông thôn thiếu việc làm còn lớn. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm,
đến nay vẫn còn hơn 70% lao động ở khu vực nông thôn và hơn 60% lao động
làm nông nghiệp. Tình trạng mất cân đối về trình độ trong lực lượng lao động của
Việt Nam hiện nay là nghiêm trọng, với thực tế là chúng ta có thừa những người
làm giám đốc, nhà quản lý, nhưng lại rất thiếu đội ngũ công nhân chuyên nghiệp
lành nghề. Điều đáng lo ngại hơn là trong quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, Việt Nam không quản lý và điều chỉnh được sự chuyển dịch cơ cấu lao
động. Trong những năm qua, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007,
đã bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng thiếu về nhân lực khi Việt Nam thu hút một
lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, rõ nét là trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

22


nguồn nhân lực cao. Điều này cho thấy cung nhân lực của Việt Nam mới chỉ đáp
ứng về mặt lượng chứ chưa đáp ứng về mặt chất. Nguồn lao động rẻ, dồi dào
nhưng trình độ thấp trở thành bất lợi khi chúng ta hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới. Lực lượng lao động Việt Nam vẫn còn một số nhược
điểm mang tính cố hữu chưa khắc phục được, đó là tâm lý, lối sống của người sản
xuất nhỏ, khả năng hợp tác yếu, tính đố kỵ trong công việc… Chính những nhược
điểm này làm giảm sút sự hấp dẫn của cả con người lẫn nền kinh tế đất nước.
Thực tế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong
những nguyên nhân quan trọng là công tác đào tạo bất cập, chưa theo kịp với nhu
cầu thị trường. Mặc dù trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã dành
ngân sách rất lớn cho giáo dục và đào tạo (trên 12% tổng chi ngân sách nhà
nước), nhưng số lượng lao động đã qua đào tạo còn thấp và chất lượng lao động

chưa đáp ứng được nhu cầu. Các thể chế, chính sách về phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết vấn đề lao động và việc làm hiện nay vẫn còn nhiều điểm bất hợp
lý. Thị trường lao động phát triển thiếu lành mạnh, vững chắc, còn bị chia cắt,
chưa làm tốt chức năng điều phối nguồn nhân lực.
- Hai, về phát huy nguồn lực đất đai và tài nguyên thiên nhiên: Đất nông
nghiệp được giao mang tính bình quân, phân tán, manh mún, vì vậy rất khó hình
thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, khó nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Công tác quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi cả nước, cũng như từng vùng, từng
địa phương chưa tốt, chưa phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước, việc
sử dụng đất sai mục đích, lãng phí diễn ra khá nghiêm trọng. Trong những năm
gần đây, tình trạng thu hồi đất nông nghiệp để chuyển thành đất đô thị và công
nghiệp một cách ồ ạt đã gây ra không ít bức xúc trong xã hội (tính bình quân,
trong giai đoạn 2001-2008, mỗi năm chuyển đổi trên 70 nghìn ha). Chúng ta xác
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu, song
việc quản lý đất đai của Nhà nước rất yếu kém, khiến cho Nhà nước thất thu hàng
chục nghìn tỷ đồng từ các hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thị
trường bất động sản kém phát triển, khiến nhiều diện tích đất không biến thành
các nguồn lực cho phát triển. Một hạn chế lớn nữa là hiệu quả sử dụng đất ở nước
ta còn thấp, thí dụ: 1 ha đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay bình quân mới tạo ra
được khoảng 1.200- 1.500 USD, trong khi đó con số này ở Đài Loan là khoảng
10.000 USD…
Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khác như tài nguyên rừng, tài nguyên biển, các loại khoáng sản… cũng diễn ra
tùy tiện, lộn xộn, gây lãng phí, thất thoát và cạn kiện nhiều nguồn lực, ảnh hưởng
xấu đến môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội của đất nước.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

23



- Ba, về phát huy nguồn lực vốn tài chính: Hiện có tình trạng bất hợp lý
nghiêm trọng trong việc khai thác sức mạnh tài chính quốc gia. Một lượng vốn rất
lớn trong dân cư chưa được sử dụng còn bị “đóng băng” trong bất động sản hoặc
nằm ứ đọng trong các ngân hàng như một phương thức để dành hay đầu cơ, trong
khi lẽ ra nguồn vốn này phải được đầu tư vào các dự án mở rộng sản xuất hoặc
dịch vụ tạo nhiều việc làm để giải quyết tình trạng thất nghiệp khá cao ở cả khu
vực nông thôn và thành thị hiện nay.
Tình trạng sử dụng vốn trong nền kinh tế nhìn chung còn kém hiệu quả.
Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước còn phân tán, dàn
trải, thất thoát lớn, gây thiệt hại cho Nhà nước và lợi ích toàn xã hội. Vốn đầu tư
của khu vực tư nhân đã tăng đáng kể nhưng vẫn còn nhiều tiềm lực chưa được
khai thác, nhiều chủ doanh nghiệp vẫn còn e ngại, chưa mạnh dạn đầu tư. Nguồn
vốn đầu tư nước ngoài đăng ký lớn nhưng việc giải ngân còn hạn chế, gặp nhiều
khó khăn.
Cần phải nói tới một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực tế trên. Hệ thống
pháp luật về đầu tư, kinh doanh còn thiếu thống nhất, đồng bộ, thủ tục hành chính
còn rườm rà, chưa tạo môi trường thực sự thông thoáng, hấp dẫn cho doanh
nghiệp và người dân bỏ vốn đầu tư, kinh doanh. Hiệu lực thực thi pháp luật chưa
cao khiến cho nguồn vốn lớn từ ngân sách và tín dụng nhà nước chưa thực sự tạo
thành “cú hích” mạnh trong việc thu hút các nguồn vốn khác để hình thành cơ cấu
đầu tư hợp lý, có hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những “nút thắt
cổ chai” của nền kinh tế từ lâu chưa được giải tỏa, nhất là sự yếu kém của kết cấu
hạ tầng và nguồn nhân lực, cũng gây cản trở đến việc huy động các nguồn vốn
cho đầu tư, kinh doanh. Trong khi đó, hệ thống tài chính, ngân hàng vẫn chưa
phát triển để có thể huy động toàn bộ các nguồn lực trong dân cho phát triển.
Chính sách tài chính, trong đó có chính sách thuế, chưa có tác dụng khuyến khích
sản xuất, kinh doanh. Chính sách thuế của Việt Nam khá hiện đại nhưng bộ máy
điều hành nền tài chính lại quá tạc hậu. Tỷ suất thuế đối với các doanh nghiệp quá
cao, thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh doanh khác, nền kinh doanh trốn
thuế. Với sự tiếp tay của một số cán bộ trong chính ngành thuế, có thể nói hiện

nay nền kinh doanh trốn thuế đã ở trình độ chuyên nghiệp trong khi trình độ của
các cơ quan quản lý về thuế của nhà nước còn ở mức nghiệp dư, do vậy nền kinh
tế và kết quả kinh doanh thường bị bóp méo.
- Bốn, về phát huy nguồn lực khoa học và công nghệ: Nhìn chung, khoa
học và công nghệ nước ta còn yếu so với trình độ chung trong khu vực, khoảng
cách với các nước chưa được rút ngắn. Các hoạt động khoa học và công nghệ
chưa thực sự gắn kết hữu cơ với nhu cầu và hoạt động các ngành kinh tế - xã hội;
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

24


giữa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội còn thiếu sự liên
kết chặt chẽ; trình độ công nghệ nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực;
tiềm lực khoa học và công nghệ của nước ta chưa lớn mạnh; đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ của nước ta còn thiếu và bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề, phân
bố lực lượng; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động khoa học và công nghệ còn
yếu kém và lạc hậu… Những yếu kém trên đã cản trở sự đóng góp của khoa học
và công nghệ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này do
nhiều nguyên nhân, trong đó việc đổi mới cơ chế quản lý, phát huy động lực lợi
ích kinh tế trong khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơ
chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, chưa phát huy mạnh mẽ khả năng sáng
tạo của tổ chức và cán bộ khoa học và công nghệ. Các cơ quan nghiên cứu khoa
học chưa được sắp xếp một cách hợp lý, còn phân tán, thiếu phối hợp với nhau,
do đó hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ chưa cao. Đầu tư cho khoa học
và công nghệ còn thấp, nhất là so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ
chế tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ chưa phù hợp. Cấp phát tài
chính còn mang tính bình quân theo đầu đề tài, mà không căn cứ theo nhu cầu
đích thực và tính chất quan trọng cũng như tính hữu ích của từng đề tài. Còn hành

chính hóa việc cấp phát kinh phí, chưa đa dạng hóa các hình thức cấp phát, cơ chế
thanh quyết toán chưa phù hợp,… là những rào cản đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học.
Thị trường khoa học và công nghệ còn chậm phát triển, các sản phẩm khoa
học và công nghệ chưa có thị trường, chưa được coi là hàng hóa trao đổi bình
thường theo quy luật cung – cầu, quy luật giá trị. Cơ chế tài chính chưa đủ ràng
buộc và khuyến khích các doanh nghiệp phải ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, chưa đảm bảo gắn kết các loại lợi ích. Chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ hiệu lực còn thấp, thủ tục đăng ký bảo hộ rườm rà, xử lý vi phạm không
nghiêm, chưa tạo được lòng tin cho người chủ sở hữu trí tuệ. Điều kiện làm việc
của cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều khó khăn, kết quả lao động sáng tạo
khoa học và công nghệ chưa được đánh giá và thù lao thỏa đáng, chế độ đãi ngộ
chưa thực sự khuyến khích, nhất là đối với những người có tài.
Các chính sách để huy động các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước
đầu tư cho khoa học và công nghệ chưa đồng bộ và chưa phát huy tác dụng, chưa
tạo được một không khí khoa học và công nghệ sôi động. Việc quản lý và sử
dụng các đầu tư cho khoa học và công nghệ hiệu quả còn thấp.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

25


×