Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

giáo trình chính sách xã hội (chương 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.75 KB, 19 trang )

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. Khái niệm chính sách xã hội
Khái niệm “xã hội”
Cho đến nay còn nhiều người hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng “xã
hội” được hiểu như là tất cả những gì gắn với xã hội loài người nhằm phân biệt nó với các
hiện tượng tự nhiên.
“Cái xã hội” dùng trong khái niệm chính sách xã hội không đồng nghĩa với “cái xã hội”
là mục đích, động cơ, động lực của mọi hoạt động đời sống con người, mỗi nhóm và tập
đoàn người trong một xã hội xác định.
Khái niệm xã hội, trong nghĩa rộng, không chỉ dành riêng cho con người mà ám chỉ mọi
tổ chức của các sinh vật có tương quan lệ thuộc lẫn nhau. Cụ thể hơn, một xã hội là một tập
hợp những sinh vật (1) được tổ chức, có phân công lao động tồn tại qua thời gian, (2) sống
trên một lãnh thổ, trên một địa bàn (3) và chia xẻ những mục đích chung, cùng nhau thực
hiện những nhu cầu chủ yếu của đời sống như nhu cầu tái sản xuất, nhu cầu an ninh, các nhu
cầu tinh thần… Định nghĩa này phân biệt khái niệm xã hội với khái niệm dân số. Khái niệm
dân số không hàm ý một tổ chức xã hội, trong khi khái niệm xã hội nhấn mạnh những mối
quan hệ hổ tương giữa các thành viên trong xã hội. Định nghĩa như trên xã hội cũng không
đồng nghĩa với quốc gia, mặc dù trong thế giới hiện nay, khái niệm xã hội thường ám chỉ
một quốc gia, một nhà nước, bởi lẽ thông thường một thành viên của xã hội họ nghĩ rằng họ
là thành viên của một quốc gia nhất định. Nhưng không phải luôn luôn như vậy và trong
nhiều trường hợp không có sự đồng nhất giữa xã hội và nhà nước. Đó cũng chính là nguyên
nhân của nhiều cuôc nội chiến và nhiều cuộc xung đột xã hội như trường hợp của Palestine,
của những thổ dân châu Mỹ hay của bộ lạc Ibo ở Nigeria.
Xã hội con người khác xã hội của loài vật, bởi lẽ con người có khả năng thay đổi hình
thái và chức năng của xã hội để thích ứng với hòan cảnh, hay nói cách khác con người có
khả năng xây dựng cho mình một nền văn hóa. Văn hóa cho phép con người sống trong xã
hội không chỉ dựa trên sự phân công lao động, trên sự lệ thuộc hổ tương mà còn chia sẽ
những giá trị, những niềm tin chung. Cùng nhắm tới việc thực hiện một chức năng xã hội,
nhưng văn hóa cho phép con người, thuộc những nền văn hóa khác nhau, có những loại hình
quan hệ xã hội, tương tác xã hội khác nhau. Do đó một khi đã được sản sinh, văn hóa và xã


hội phát triển đan xen một cách rất phức tạp.
Theo Các mác và Ăng ghen, xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất.
Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người và người làm nền
tảng, xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, “là sản
1


phẩm của tác động qua lại giữa những con người. (Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập
21)
Vấn đề xã hội?
Thế nào là vấn đề xã hội? vấn đề này được xem xét dưới nhiều phương diện, góc độ
khác nhau trong các ngành, môn khoa học khác nhau.
Theo các nhà xã hội học thì có vấn đề xã hội khi những thành viên của một cộng đồng
(lớn hay nhỏ) nhận thấy có những dấu hiệu hoặc điều kiện gây ảnh hưởng, tác động hoặc đe
dọa đến chất lượng cuộc sống của họ và đòi hỏi phải có những biện pháp, giải pháp để
phòng ngừa, ngăn chặn giải quyết tình trạng đó theo hướng có lợi cho sự tồn tại và phát
triển của cộng đồng
Ở bình diện khác, có quan điểm cho rằng, theo Mác thì xã hội là sản phẩm của sự tác
động lẫn nhau giữa người với người và như vậy nó chính là đối tượng nghiên cứu của việc
nghiên cứu các vấn đề xã hội nói chung và chính sách xã hội nói riêng. Theo quan điểm này
thì vấn đề xã hội được hiểu rất rộng và khó xác lập.
Có quan niệm lại đặt các vấn đề xã hội bên cạnh các vấn đề khác như kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội… quan điểm này cũng mang tính tương đối mà thôi vì trong từng vấn đề cụ
thể đã chứa đựng trong đó cả khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa và cả khía cạnh xã hội. Ví
như vấn đề lao động việc làm nó hàm chứa cả vấn đề kinh tế và vấn đề xã hội.
Vậy:
“Vấn đề xã hội là những vấn đề phát sinh trong lòng xã hội liên quan đến con người,
liên quan đến sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, đến cơ hội tồn tại và phát triển, đến sự
hưởng thụ các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người”. Đó là các vấn đề có ảnh
hưởng tác động, thậm chí đe dọa sự phát triển bình thường của con người, của cộng đồng xã

hội, tác động xấu đến chất lượng sống của con người, của cộng đồng và do vậy đòi hỏi phải
có những giải pháp, biện pháp kiểm soát, phòng ngừa, ngăn chăn, điều chỉnh hoặc giải quyết
theo hướng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
“Vấn đề xã hội là những tình huống nảy sinh trong đời sống xã hội mà cách thức và
những biện pháp giải quyết của chủ thể (con người, nhóm xã hội) chưa đạt được kết quả
mong muốn, chẳng hạn như: nghèo đói, mại dâm, thất nghiệp, ma túy…”
Chính sách xã hội là gì? Đây là vấn đề gây không ít tranh cãi. Để làm rõ vấn đề này
trước tiên cần nghiên cứu và phân tích một số khái niệm liên quan như: “Chính sách” và
“Xã hội”
Chính sách là gì?
1. Khái niệm “chính sách”. Theo nhiều nhà nghiên cứu, “chính sách” là hình thức tác
động qua lại giữa các nhóm, tập đòan xã hội gắn trực tiếp hoặc gián tiếp với tổ chức, hoạt
2


động của nhà nước, của các đảng phái, thiết chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực
hiện các lợi ích, các mục tiêu, nhiệm vụ của các nhóm, tập đòan xã hội ấy.
Chính sách thường được thể chế hóa trong các quyết định, hệ thống pháp luật, các quy
chuẩn hành vi và những quy định khác. (GS. Nguyễn Đình Tấn)
2. Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đề ra
để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.(TS. Lê Chi Mai)
3. Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc
nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm. (James Anderson. Hoạch
định chính sách công, Houghton Mifflin, 1990, tr.5.)
4. Chính sách là hoạt động chính trị, liên quan đến những mục tiêu cơ bản, một chuỗi
các hành động, một tập hợp các quy tắc và điều chỉnh. Có thể phân tích chính sách theo
nghĩa các giá trị, mục tiêu (targets), nguồn lực, phong cách và chiến lược.(PGS.TS. Bùi Thế
Cường- bài giảng Chính sách xã hội)
5. Chính sách là tập hợp biện pháp của một chủ thể quản lý, tạo ra sự đối xử khác nhau
giữa các nhóm trong một hệ thống xã hội, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển chung của

toàn hệ thống.”
Như vậy, khi nói đến chính sách, luôn có các yếu tố sau:
Một chủ thể tạo dựng và thực thi chính sách
Các nhóm xã hội khác nhau bị tác động bởi chính sách.
Một chính sách phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội
Mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống. (Vũ Cao Đàm - Đề cương bài giảng xã
hội học môi trường)
Khoa học chính sách là một ngành khoa học vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và
phương pháp để nghiên cứu hệ thống chính sách và quy trình chính sách, tìm ra thực chất,
nguyên nhân và kết quả của chính sách, cung cấp những kiến thức liên quan đến chính sách
nhằm mục đích cải tiến hệ thống chính sách và nâng cao chất lượng của chính sách. (TS. Lê
Chi Mai)
Từ những đĩnh nghĩa và phân tích khái niệm như trên về chính sách và xã hội ta có thể
đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. “cái xã hội” dùng trong chính sách xã hội là
“cái xã hội” theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất hiểu như mối
qua hệ của con người, của các cộng đồng người thể hiện trên nhiều mặt của đời sống xã hội
từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng . Điều này không có nghĩa là “ cái xã hội” theo nghĩa
hẹp là cái bao trùm, chứa đựng mọi quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng mà chính
xác hơn, nó chính là yếu tố con người, là khía cạnh nhân văn của tất cả những mối quan hệ
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng ấy. Như vậy cái xã hội theo nghĩa hẹp chính là mục tiêu,
là mục đích của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng của con người.
3


Quan hệ giữa “cái xã hội” theo nghĩa hẹp với cái “ kinh tế” “chính trị” “văn hóa” “tư tưởng”
những cái chung với những cái riêng. Người ta có thể tìm thấy cái xã hội này thông qua việc
phân tích.
Chính sách xã hội
1. V. Z. Ro – Go – vin cho rằng: “chính sách xã hội là lĩnh vực tri thức xã hội học,
nghiên cứu hệ thống về các qúa trình xã hội, quyết định hoạt động sống của con người trong

xã hội, xét theo khả năng tác động, quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem
xét csxh như là sự hoà quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự
báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận động thực tiễn các tri thức thu nhận được
nhằm mục đích quản lý các quá trình và quan hệ ấy. (V. Z. Ro – Go – vin - Chính sách xã
hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển: Mockba,1980, tr10- 11; bản dịch thông tin khoa
học xã hội).
2. Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện và điều
chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con người ở đây được xét
theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người kinh tế, hay con người kĩ
thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con
người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội
của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội…(Phạm Tất
Dong- Chính sách xã hội)
3. “Chính sách xã hội là gì? Hiểu ý nghĩa khái quát nhất,chính sách xã hội là hệ thống
các quan điểm, cơ chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền và Nhà nước đề ra tổ
chức thực hiện trong thực tiễn đời sống nhằm kiểm soát, điều tiết và giải quyết các vấn đề
xã hội đặt ra trước xã hội”( PGS.TS Phạm Hữu Nghị).
4. Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà Nước thành
một hệ thống quan điểm, chủ trương phương hướng và biện pháp để giải quyết những vấn
đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và phát
triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. (PGS.TS. Lê
Trung Nguyệt).
5. Chính sách trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là thành tựu của những sự
nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những câu hỏi của cuộc sống, ở dạng
hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã hội cần được xem xét như một lĩnh vực
khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận động của thực tiễn, khoa học nghiên cứu về chính
sách xã hội cần phải mạnh dạn trả lời những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh tế xã hội nước
ta hiện nay. (GS. Phạm Như Cương)

4



Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm chính sách
xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau đây:
1. Chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo. Ở nước ta là Đảng Cộng
sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội.
2. Nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thể
chế nào?
3. Các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt)
4. Những mục tiêu nhằm đạt tới.
Hay nói cách khác là cần trả lời bốn câu hỏi sau:
- Ai đặt ra chính sách xã hội?
Chính sách xã hội luôn luôn gắn với chế độ chính trị - xã hội. Các xã hội phong kiến và
tư bản đều có những chính sách xã hội phù hợp với bản chất của chúng. Mỗi chế độ xã hội
đều có kế thừa những chính sách xã hội của chế độ cũ ở một mức độ nhất định và phát triển
chúng, thậm chí thay đổi chúng hoàn toàn trong những điều kiện mới của lịch sử.
Ở nước ta, chủ thể đặt ra các chính sách xã hội là tổ chức chính trị lãnh đạo, Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sự tham gia của các tổ
chức hoạt động chính trị xã hội, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học - kỹ thuật.
Chủ thể đặt ra các chính sách xã hội có vai trò hết sức quan trọng, có tính chất quyết
định, đồng thời phải thể hiện tinh thần trách nhiệm và năng lực lãnh đạo rất cao vì Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, vì Nhà nước Việt Nam là Nhà nước “của dân, do
dân và vì dân”. Các chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng phải thể hiện đầy
đủ, nổi bật những bản chất đó.
- Đặt chính sách xã hội cho ai?
Đối tượng các chính sách xã hội không bị bó hẹp như trước đây mà mở rộng ra các tầng
lớp nhân dân trong xã hội (công nhân, thợ thủ công, nông dân, sinh viên, trí thức, các nhà
doanh nghiệp, trẻ em, người già, thanh niên, phụ nữ, các dân tộc (đa số và thiểu số) các tôn

giáo, người Việt định cư ở nước ngoài, những quân nhân, những bậc lão thành cách mạng,
những thương binh, liệt sỹ, bà mẹ anh hùng, những người tàn tật, cô đơn, thậm chí những
nạn nhân của các tệ nạn xã hội mại dâm, ma túy...)
- Nội dung của các chính sách xã hội là gì?
Chính sách xã hội bao quát nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn của xã hội, những lĩnh vực
hoạt động đó lại liên quan đến các đối tượng khác nhau của sự phân tầng xã hội.

5


Xem xét một cách tổng thể, có thể phác ra những nội dung cơ bản sau đây của chính
sách xã hội:
1. Tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về dân số, gia đình,
bảo vệ sức khỏe con người, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi, giải trí cho các tầng lớp
nhân dân, khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội.
2. Góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền tảng vững chắc của xã hội với các
chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường (sinh thái và xã hội), sự phát triển của văn hóa, giáo
dục, khoa học, nghệ thuật, hệ thống các tổ chức dịch vụ nhằm mục đích phục vụ cuộc sống
tốt đẹp của con người
3. Giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo và đào tạo lại người lao động dễ tiếp
thu công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại và không ngừng nâng cao năng xuất lao động.
4. Tạo điều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản
phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức
sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo đức, pháp lý của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa.
5. Tạo nên sự hình thành mô hình lối sống xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm chủ yếu
là sự phát triển toàn diện của các cá nhân kết hợp hài hòa với sự phát triển của cộng đồng
trong sự bảo vệ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc không ngừng được bồi
dưỡng, nâng cao dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Chính sách xã hội nhằm mục đích gì?
Việc trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội - chính trị của từng
nước. Đối với Việt Nam, câu trả lời đã hết sức rõ ràng. Cách đây 48 năm, trong bài nói
chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính sách của
Đảng và Chính phủ hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân rét Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì
vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống
của nhân dân”
Như vậy có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các biện pháp của
nhà nước, của các đảng phái và tổ chức chính trị khác nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và
tinh thần của nhân dân phù hợp với trình độ phát triển của đất nước về kinh tế, văn hoá, xã
hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại: Chính sách xã hội là các quan điểm, chủ trương được thể chế hoá để tác động
vào các quan hệ xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng
xã hội, tiến bộ và phát triển con người.
6


1.2. Quá trình nhận thức và quan điểm của Đảng về chính sách xã hội:
1.2.1. Quá trình nhận thức và thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam:
Ở Việt Nam do những hoàn cảnh xã hội đặc biệt, chính sách xã hội được nhận thức và
thực hiện theo những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Có thể chia ra thành ba giai đoạn lớn để phân tích:
Giai đoạn 1: Từ sau cách mạng tháng tám thành công đến khi cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc hòan thành với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ thắng lợi và thống nhất đất
nước.
Giai đoạn 2 : Từ sau năm 1975 đến khi Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi
mới.
Giai đoạn 3: Từ năm 1986 đến nay

Hai giai đoạn đầu gọi chung là thời kỳ trước Đại hội VI của Đảng (12- 1986), do những
hạn chế và nhận thức của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, chính sách xã hội chưa được
nhận thức đầy đủ. Còn tồn tại quan niệm chính sách xã hội chỉ là chính sách dành cho
những đối tượng xã hội đặc biệt thiếu khả năng lao động hoặc cần ưu đãi. Nhiều người coi
chính sách xã hội chỉ là chính sách cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã hội. Nhiều
vấn đề ở tầm vĩ mô nhu dân số, việc làm, thiết kế những phương án phát triển kinh tế chưa
tính tóan đầy đủ đến những vấn đề xã hội và môi trường xã hội cần thiết cho con người. Đôi
khi chính sách kinh tế tách rời khỏi chính sách xã hội, còn chính sách xã hội đôi khi vượt
quá trình độ phát triển của nền kinh tế. Chủ nghĩa binh quân không chỉ trong phân phối thu
nhâp nói chung, mà trong cả việc thực hiện chính sách xã hội. Nhiều nhu cầu xã hội của cá
nhân đáng được thỏa mãn nhưng lại bị đồng hóa trong tập thể, cộng đồng. Những sắc thái
riêng biệt của cá nhân ít được quan tâm. Chính sách xã hội, rõ ràng chưa được nhận thức và
thực hiện đầy đủ với tất cả những yêu cầu của nó.
Từ sau đổi mới (đại hội VI), chính sách xã hội được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan
tâm, thực hiện ngày một tốt hơn. Vấn đề xã hội đã được tính đến nhiều hơn trong phương án
phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách xã hội được nhận thức với tất cả tính tòan diện, phong
phú của nó trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhân tố con người và những sắc thái cá nhân đã
được coi trọng. Đại hội đã coi chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, là động lực to lớn phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc…Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội... Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng
và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Từ nhận thức:
7


“Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng

những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, Đại hội VI của Đảng đã
nhấn mạnh: Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu
phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong
nhận thức về chính sách xã hội của Đảng. Chủ nghĩa bình quân cũng được khắc phục. Mở
cửa tạo điều kiện để Việt Nam huy động tiềm lực quốc tế cho việc giải quyết nhiều vấn đề
xã hội do lịch sử chiến tranh để lại cũng như những vấn đề mới xuất hiện do ảnh hưởng của
kinh tế thị trường.
Định hướng chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 (theo Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI)
Các chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 cần sớm được cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện thông qua các nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hằng
năm và các chương trình mục tiêu quốc gia theo đúng tinh thần Nghị quyết Ðại hội XI của
Ðảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.
Riêng đối với chính sách người có công và chính sách an sinh xã hội thực hiện theo quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp sau:
1 - Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và
bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội.
2 - Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời
kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào
dân tộc thiểu số.
3 - Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã
hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền
vững, công bằng.
4 - Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo
trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích
các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Ðồng thời tạo điều kiện để người dân
nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
5 - Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng

và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Mục tiêu tổng quát:
Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, phấn đấu đến năm
2015 cơ bản bảo đảm gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống
trung bình của dân cư trên địa bàn. Ðến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân,
8


bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền
thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và
hạnh phúc của nhân dân.
1.2.2. Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội:
Quan điểm nhân văn
Các chính sách của Đảng và Nhà nước ta, xét đến cùng đều nhằm mục đích phục vụ con
người nên quan điểm nhân văn phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các chính sách xã hội. ở Việt
Nam, từ rất sớm, trải qua hàng ngàn năm phải luôn luôn đoàn kết để đấu tranh chống ngoại
xâm và chống thiên tai, đã hình thành một truyền thống nhân ái sâu sắc trở thành tình cảm,
đạo đức và phong tục văn hóa tốt đẹp. Tư tưởng nhân văn được ghi lại trong những thành
ngữ dân gian. Nó trở thành quan điểm xử thế của nhân dân, quan điểm yêu quý con người
“thương người như thể thương thân”, “người là vàng, của là ngãi”, “một mặt người bằng
mười mặt của”, “người là hoa của đất”...
Truyền thống nhân ái đó đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển
trong chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
Trong hiện thực lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định, do nhận thức và thực
hiện sai lầm mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước, chưa thể nói rằng chủ nghĩa nhân văn cộng
sản đã được thực hiện tốt trên đất nước ta, nhưng cũng không thể phủ nhận thực tế là ngay
sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo đã ban hành hàng loạt chính sách xã hội đối với công nhân, nông dân, trí thức, giáo
dục, y tế, văn hóa, các tôn giáo và các dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có

nghĩa. Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao
nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
được?”.
Trong Cương lĩnh xây dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã
nhấn mạnh thêm:
“Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”.
Nội dung nói trên chính là sự thể hiện tư tưởng nhân văn của Đảng và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đó là tư tưởng cơ bản có tính chất quyết định đối với mọi chính sách xã hội được
hoạch định trong thời gian trước mắt cũng như trong chiến lược lâu dài. Cùng với quan
9


điểm nhân văn, còn có một số quan điểm cơ bản khác cần được quán triệt trong việc xây
dựng các chính sách xã hội.
Quan điểm gắn lý luận với thực tiễn
Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” ngày 28-031992 nhận xét: “Lý luận chưa đi sâu, đi sát cuộc sống, chưa ra khỏi tình trạng lạc hậu, chưa
đáp ứng những đòi hỏi của thực tế đổi mới. Công tác lý luận chưa phục vụ tốt việc cụ thể
hóa và phát triển đường lối, hoạch định các chính sách”.
Nghị quyết nhấn mạnh một trong những phương châm lớn cần nắm vững là phải “gắn
chặt lý luận với thực tiễn, giữa yêu cầu trước mắt với nhiệm vụ lâu dài, giữa nghiên cứu cơ
bản với nghiên cứu ứng dụng”. Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng đặc biệt có ý nghĩa
trong việc gắn kết các chương trình nghiên cứu các chính sách xã hội cụ thể với nghiên cứu
lý luận xã hội học.
Trong những năm qua, từ thực tiễn của việc khảo sát thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý
luận trong việc thực hiện chương trình khoa học cấp Nhà nước về “Đổi mới chính sách xã

hội và cơ chế quản lý việc thực hiện các chính sách xã hội”, chúng tôi nhận thức sâu sắc
chính sách xã hội phải là thành tựu của những sự nghiên cứu nghiêm túc khoa học xã hội,
trước hết là xã hội học nhằm góp phần giải quyết những vấn đề xã hội nóng bỏng đang đặt
ra từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay.
Để chính sách xã hội có hiệu quả, có khả năng đi vào cuộc sống, cần có sự kết hợp chặt
chẽ hữu cơ giữa những cơ quan nghiên cứu lý luận, những tổ chức Đảng và Nhà nước có
trách nhiệm hoạch định chính sách và những nhà hoạt động thực tiễn có nhiệm vụ xây dựng
các cơ chế thích hợp đưa các chính sách đó vào cuộc sống.
Như vậy, giữa những cơ quan có chức năng khác nhau có một mối liên hệ gắn bó chung:
đó là thực tiễn xã hội.
Hơn ở đâu hết, đây là chỗ cần phải thể hiện đầy đủ phương châm mà Đại hội lần thứ VI
của Đảng đã vạch ra: nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, phân tích sự thật.
Muốn thế, chỉ có tổng kết tốt thực tiễn mới phát triển được lý luận (hiểu theo nghĩa đúng
đắn nhất của nó là có tính sáng tạo).
Nói như vậy thì dễ, nhưng làm được điều đó thì cực kỳ khó. Thực tiễn quá trình đổi mới
của đất nước ta đang diễn ra rất sôi động, đa dạng, không ai có thể cho rằng đã nắm bắt
được đầy đủ thực tiễn đó, chưa nói đến việc còn khó khăn hơn là hiểu biết thực chất nội
dung vận động của nó và dự đoán sự phát triển của nó ra sao? Mối đe dọa lớn nhất đối với
mọi chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng là tính khả thi kém hoặc không có
tính khả thi. Điều đó bắt nguồn phần lớn từ thiếu quan điểm thực tiễn và thiếu hiểu biết lý
luận xã hội học về những vấn đề xã hội được đặt ra xem xét và tìm biện pháp giải quyết.

10


Quan điểm lịch sử
Mỗi chính sách xã hội đều là một sản phảm của đường lối chính trị trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Khi lịch sử đã sang trang và những nhiệm vụ mới đặt ra cần có những
chính sách xã hội mới phù hợp. Về lý thuyết là như vậy, nhưng không phải bao giờ nhận
thức con người cũng theo kịp những biến đổi xã hội, và nhất là khi đã có nhận thức mới

cũng không dễ gì làm chuyển động nhanh chóng cả một xã hội đã quen nếp tư duy và nếp
sống theo lối cũ. Cuộc hội thảo khoa học thực tiễn về đổi mới kinh tế xã hội năm 1994 ở
Nghệ An do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phối hợp với Tỉnh uỷ tổ
chức cho thấy rõ cuộc đấu tranh chống tư tưởng bảo thủ và đưa tư duy mới vào cuộc sống
khó khăn biết bao. Những nhận thức cũ, những thói quen cũ có sức ì dai dẳng và có thể trở
thành vật cản cho sự nghiệp đổi mới, nhất là khi chúng chi phối tư tưởng của những tổ chức
và những người có trách nhiệm lãnh đạo và hoạch định chính sách xã hội.
Trái lại, nhận thức mới cũng có khả năng đi quá đà, muốn đốt cháy giai đoạn và như vậy
lại rơi vào chủ quan, duy ý chí, phê phán quá mức, thậm chí phủ nhận sạch trơn những
chính sách xã hội đã một thời phát huy tác dụng.
Biết tôn trọng lịch sử một cách đúng đắn vẫn là một quan điểm cần tuân theo trong việc
nghiên cứu các chính sách xã hội.
Quan điểm phát triển
Mục tiêu cao nhất của mọi chính sách xã hội đều nhằm phát triển xã hội, đem lại đời
sống tốt đẹp cho con người.
Trong khoảng ba thập kỷ gần đây, Xã hội học phát triển là một trong những chuyên
ngành xã hội học được đề cập đến nhiều nhất. Hầu như không có vấn đề nào không được
gắn với phát triển: dân số và phát triển, tài nguyên, môi trường và phát triển, con người và
phát triển, gia đình và phát triển… Tương ứng với các lĩnh vực nghiên cứu đó, là sự phát
triển lý luận và các chính sách xã hội được nêu lên làm cho nội dung nghiên cứu rất phong
phú, đa dạng.
Ở Việt Nam, công cuộc phát triển phải gắn liền với giữ vững độc lập và chủ quyền, phải
duy trì và phát triển được bản sắc văn hóa và bản sắc dân tộc (hai nhân tố này gắn bó rất
hữu cơ với nhau). Không có phát triển nếu không có bình đẳng và công bằng xã hội, không
có sự tham gia hoạt động chính trị và xã hội của các tầng lớp nhân dân, dân chủ hóa sâu sắc
đời sống xã hội cả về kinh tế và xã hội, không có phát triển nếu không có sự quan tâm và đề
cao trách nhiệm bảo vệ môi trường (bao gồm cả môi trường sinh thái và môi trường xã hội).
Tất nhiên, quá trình phát triển đó không một lúc nào xa rời mục tiêu xây dựng một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


11


Quan điểm hệ thống, đồng bộ
Các hoạt động của con người và xã hội là một mạng lưới những quan hệ phức tạp đan
xen chằng chịt vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không hề có sự biệt lập tuyệt đối.
Chính sách xã hội phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học về thực trạng của
cơ cấu xã hội, thực trạng những mối quan hệ giữa con người với con người, giữa các nhóm
và cộng đồng xã hội. Chính sách xã hội phải dựa trên cơ sở nghiên cứu toàn diện tất cả
những gì có liên quan trực tiếp đến con người, từ địa vị xã hội, điều kiện và nội dung hoạt
động trong cuộc sống đến việc hình thành các nhu cầu, tâm lý, lợi ích, nguyện vọng của mỗi
cá nhân, mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội.
Việc thực hiện chính sách xã hội phải là kết quả giải quyết đồng bộ hàng loạt những vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, của các tổ chức quần chúng, kết hợp các biện pháp
giáo dục tư tưởng, các thể chế pháp luật, các chuẩn mực đạo đức.
Do đó, các chính sách xã hội không thể tách khỏi chính sách kinh tế, chính sách văn hóa
và tư tưởng, chính sách phát triển khoa học kỹ thuật, không thể tách khỏi đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước cùng hệ thống chính trị xã hội.
Ví như, chính sách bảo đảm xã hội có mối quan hệ khăng khít với các chính sách lao
động, giải quyết việc làm, tiền lương, tiền công, dân số, y tế, giáo dục, đào tạo nghề... Hoặc
như muốn giải bài toán hạn chế gia tăng dân số ở nước ta, tạo điều kiện cho sự phát triển
cân bằng và bền vững thì không thể không liên quan đến hàng loạt chính sách xã hội khác,
như triển khai chương trình xoá nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học để nâng cao dân trí,
chăm lo công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng đời sống văn
hóa, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống.
Trên quan điểm hệ thống, đồng bộ có thể tránh được cách hoạch định và thực hiện chính
sách xã hội một cách phiến diện, một chiều, đồng thời có cơ sở để đi sâu phân tích những
mặt cụ thể, riêng biệt của các chính sách xã hội khác nhau. Tính hệ thống, đồng bộ càng cao
thì chất lượng chính sách xã hội càng được đảm bảo.
Quan điểm xã hội hóa, thể chế hóa, dân chủ hóa các chính sách xã hội

Các chính sách xã hội phải phát huy cao nhất của từng cá nhân, cộng đồng và toàn xã
hội. Do đó, cần phải xã hội hóa các chính sách xã hội.
Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” vận dụng vào việc thực hiện các chính
sách xã hội cho thấy hiệu quả to lớn rõ rệt, như nhiều cá nhân và tổ chức xã hội đã nhận
nuôi dưỡng trọn đời hàng vạn Bà mẹ anh hùng. Phong trào xây dựng nhà tình nghĩa bắt đầu
từ thành phố Hồ Chí Minh đã lan rộng ra khắp nước.
Các chính sách lao động tạo việc làm, giáo dục, y tế, bảo đảm xã hội, chống các tệ nạn
xã hội đều cần được xã hội hóa dưới sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước nhằm phát huy cao
độ hiệu lực của phương châm đó, đồng thời ngăn chặn kịp thời những nhận thức và chủ
12


trương lệch lạc bày đặt ra những lệ phí vô lý ở một số ngành và địa phương không được
nhân dân đồng tình.
Khi Đảng ta khẳng định nguyên tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật mà các
chính sách xã hội là những công cụ để Nhà nước quản lý xã hội thì lô gích tất yếu là các
chính sách xã hội căn bản phải được thể chế hóa bằng pháp luật.
Khi chức năng quản lý xã hội của Nhà nước ngày càng được chú trọng thì việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường hiệu lực quản lý các chính sách xã hội là rất quan
trọng. Sự tồn tại của một hệ thống pháp luật mạnh và có hiệu lực là một trong những yếu tố
quyết định hiệu quả của việc nhà nước quản lý các chính sách xã hội. Mọi chính sách xã hội
của Nhà nước muốn được hoạch định và thực hiện tốt phải được thể chế hóa bằng pháp luật.
Dó đó, việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật về các vấn đề chính sách xã
hội phải là mối quan tâm thường xuyên của các chủ thể lãnh đạo chính trị và quản lý xã hội,
cai trị đất nước.
Dân chủ hóa việc hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội cũng là một quan điểm
quan trọng cần quán triệt. Do tác động của các chính sách xã hội rất nhanh, nhạy, trực tiếp
đối với đời sống của các tầng lớp nhân dân, nên phải hết sức lắng nghe, coi trọng ý kiến của
nhân dân.
Người công dân phải hiểu biết và phát huy trách nhiệm đối với các chính sách xã hội với

hai tư cách: vừa là đối tượng của chính sách xã hội, vừa là người được dự bàn việc xây dựng
chính sách xã hội là kiểm tra việc thực hiện.
Bài học lớn nhất rút ra từ việc hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội là các chủ
trương, chính sách đưa ra phải hợp lòng dân, được dân đồng tình ủng hộ và tích cực giám
sát, kiểm tra việc thực hiện. Đây là sự thể hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Nên chăng, cần thêm vào phương châm đó một vế nữa: dân được hưởng.
Phương châm này cũng cần được thể chế hóa để đi vào cuộc sống thông qua một cơ chế mở
rộng dân chủ có hiệu lực.
1.3. Vai trò của chính sách xã hội
1. Chính sách xã hội với nhiệm vụ khám phá ra các quy luật, các điều kiện và các mối
quan hệ qua lại giữa các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế giữa nhu cầu và
lợi ích của những nhóm xã hội trong một cơ cấu xã hội cụ thể. Từ đó chính sách xã hội có
thể phát hiện ra tính quy luật của xã hội, tính quy luật của chính trị và sự vận động của hệ
thống chính trị trong xã hội. Tính quy luật của đời sống tinh thần xã hội, nó phản ảnh đời
sống văn hóa và các quan hệ văn hóa xã hội khác. Tất cả các tính quy luật này đều phản ảnh
nội dung của chính sách và đóng vai trò quy định nội dung, phương hướng của chính sách
xã hội, nên việc nhận thức nó là điều hết sức quan trọng của chính sách xã hội.
2. Vai trò phân tích, dự báo, đề xuất các biện pháp cho công tác quản lý xã hội. Một
chính sách xã hội khoa học gắn liền với thực tiễn xã hội sẽ giúp cho các nhà quản lý, lãnh
13


đạo phân tích, dự báo những vấn đề xã hội trong một tương lai gần, hoặc xa, làm cơ sở để
lượng giá và đề xuất chính sách xã hội.
3. Vai trò thực tiễn: Chính sách xã hội phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với thực tiễn và
xâm nhập vào thực tiễn một cách thích hợp, nó sẽ làm cho xã hội luôn ở trạng thái ổn định,
góp phần hoàn chỉnh cơ cấu xã hội, đẩy mạnh tính tích cực của các thành viên trong xã hội,
sử dụng tốt tiềm năng lao động của đất nước. Sự hoàn thiện chính sách xã hội phụ thuộc vào
sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhưng chính sách xã hội không hoàn tòan phụ
thuộc một cách máy móc mà có tính độc lập tương đối.

Tóm lại, chính sách xã hội thực hiện những vai trò xã hội khác nhau, và nó thực hiện
theo kiểu “vai trò kép” tùy theo quan điểm xem xét nó: bảo đảm liên kết xã hội đồng thời
phân tầng xã hội và kiểm soát xã hội. Vai trò quản lý xã hội chung đồng thời vai trò chính
trị phản ánh lợi ích giai cấp hoặc nhóm.

1.4. Đặc trưng của chính sách xã hội
Chính sách xã hội có những đặc trưng để phân biệt với chính sách khác như chính sách
chính trị, chính sách kinh tế, tư tưởng,.... Xét trên phương diện quản lý, những đặc trưng đó
là:
- Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến con người, bao trùm mọi mặt
của cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để hoàn
thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội.
- Chính sách xã hội mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu cơ bản của nó là
hiệu quả xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người
được sống trong nhân ái, bình đẳng và công bằng. Công bằng xã hội là nội dung cơ bản của
chính sách xã hội. Nhà nước sử dụng chính sách xã hội như một công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội, xây dựng các chuẩn mực xã hội, định hướng giá trị xã hội mới, huớng vào
cái thiện, cái tốt, hạn chế và đẩy lùi cái xấu, cái ác,...
- Chính sách xã hội của Nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo những điều kiện,
cơ hội như nhau để mọi người phát triển và hoà nhập vào cộng đồng. Trong thực tế, nhiều
người có hoàn cảnh, điều kiện khó khăn, bất lợi, bị thiệt thòi do đó cần sự trợ giúp của Nhà
nước và cộng đồng. Sự đầu tư của Nhà nước, sự trợ giúp của cộng đồng không phải là sự
bao cấp hay cứu tế xã hội theo kiểu ban ơn, mà là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đầu tư
cho phát triển.
- Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm
bảo công bằng xã hội. Để thực hiện chính sách xã hội, đạt đúng các mục tiêu, đối tượng và
hiệu quả phải có những điều kiện đảm bảo ở mức cần thiết để chính sách đi vào cuộc sống.
Chính sách xã hội phải được kế hoạch hoá bằng các chương trình, dự án có mục tiêu; hình
thành các quỹ xã hội; phát huy vai trò và sức mạnh của cộng đồng, của các cơ sở và tổ chức
14



xã hội; phát triển hệ thống sự nghiệp hoặc dịch vụ xã hội; tăng cường lực lượng cán sự xã
hội.
- Chính sách xã hội còn có đặc trưng quan trọng là tính kế thừa lịch sử. Một chính sách
xã hội đi vào được lòng người, sát với dân là một chính sách mang bản sắc dân tộc Việt
Nam, kế thừa và phát huy được tryền thống đạo đức, nhân văn sâu sắc của dân tộc ta. Đặc
biệt là long yêu nước, cần cù chịu khó, tính cộng đồng cao, đùm bọc lẫn nhau, uống nước
nhớ nguồn…
- Khoa học chính sách xã hội là ngành học lấy hành động làm định hướng, thể hiện sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Khoa học chính sách không phải là một ngành khoa
học lý luận thuần túy hoặc nghiên cứu cơ bản mà là một ngành khoa học có tính ứng dụng
mạnh. Khoa học chính sách lấy giá trị làm định hướng. Có thể nói, khoa học chính sách là
sự nghiên cứu lý luận nói chung, mà việc lựa chọn lại lấy giá trị làm cơ sở. Do đó, khoa học
chính sách không chỉ mang tính chất miêu tả, tức là nghiên cứu những lý luận liên quan đến
tính chất, nguyên nhân và kết quả của chính sách công mà nó còn có tính quy phạm, tức là
nó chú trọng đến giá trị của chính sách. Cụ thể là khoa học chính sách hướng vào việc lựa
chọn và đánh giá các giá trị mà chính sách có thể mang lại. Việc lựa chọn một giá trị nào đó
không chỉ thuần túy là sự xem xét và phán đóan về mặt kỹ thuật mà còn cần có sụ suy đóan
luân lý. Do đó, mối quan hệ giữa chính sách xã hội và vấn đề đạo đức hay luân lý chiếm
một vị trí quan trọng trong khoa học chính sách.

1.5. Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế
Để hoạch định chính sách xã hội phải nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách phát triển
kinh tế và chính sách xã hội, tức là làm rõ các vấn đề: Tính chất xã hội, mục tiêu xã hội
trong chính sách kinh tế; những điều kiện đảm bảo, những khả năng của nền kinh tế có thể
đầu tư cho chính sách xã hội; sự kết hợp các mục tiêu kinh tế - xã hội trong hoạch định các
chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Thực chất của việc làm này là làm rõ mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Công bằng xã hội là hạt nhân của chính sách xã hội, là mục đích, mục tiêu của chính

sách xã hội từng bước phải đạt tới và cũng chính là một trong những định hướng cơ bản của
CNXH. Công bằng xã hội là thái độ xử lý hợp lý các quan hệ xã hội, nhất là sự công bằng
trong phân phối của cải xã hội, điều hoà các lợi ích giữa các nhóm, các tầng lớp xã hội.
Khi nghiên cứu chính sách xã hội, một mặt phải xem xét tính độc lập tương đối, những
đặc trưng khác biệt của nó để có sự tập trung chú ý, giải quyết thoả đáng các yêu cầu của
thực tế trong hoạch định chính sách xã hội, mặt khác phải khai thác tính thống nhất giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội để đạt mục tiêu phát triển chung.
Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội có những biểu hiện sau đây:
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tuy có mục tiêu riêng, mục tiêu tự thân của nó,
song lại có mục tiêu chung là nhằm phát triển xã hội.
15


- Cương lĩnh xây dựng đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã ghi: "Chính sách
xã hội đúng đắn vì lợi ích con người là động lực to lớn, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Điều đó nói lên chính sách xã hội là yếu tố của
sự phát triển và nằm trong yếu tố phát triển, vì vậy đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư
cho phát triển. Một chính sách kinh tế đúng đắn sẽ tạo ra điều kiện, tiền đề vật chất để giải
quyết những vấn đề xã hội; ngược lại, giải quyết tốt các vấn đề xã hội bằng những chính
sách phù hợp sẽ tạo ra sự ổn định xã hội làm cơ sở phát triển kinh tế. Đó là biểu hiện cụ thể
của mối quan hệ hữu cơ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội, mặc dù các
chương trình phát triển kinh tế được lồng ghép, kết hợp để giải quyết các vấn đề xã hội rất
cơ bản như vấn đề việc làm, chống đói nghèo, tệ nạn xã hội, ...Vì vậy phải có chương trình,
chính sách xã hội riêng để giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể, cấp bách nẩy sinh trong
những thời điểm nhất định. Chính sách xã hội, chương trình xã hội phải được thực hiện
đồng thời với chính sách kinh tế để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. Tuy nhiên, các
vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề xã hội gay cấn, thường phát sinh, có nguyên nhân hay
nguồn gốc sâu xa từ kinh tế. Do đó, các chính sách và chương trình xã hội này phải được
thực hiện bằng các giải pháp kinh tế, phải tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội và theo quan

điểm phát triển, không làm theo kiểu hành chính, bao cấp, mang tính cứu tế xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế cũng không tự nó dẫn tới tiến bộ xã hội, mặc dù nó có thể thúc đẩy
xã hội phát triển. Điều này thấy rất rõ ở một số nước theo mô hình kinh tế thị trường tự do.
Chạy theo lợi nhuận tối đa, người ta bất chấp các hậu quả xã hội của nó, cùng với tăng
trưởng kinh tế là sự gia tăng các loại vũ khí giết người, ma tuý, mại dâm và nhiều tệ nạn xã
hội.
Nói đến tiến bộ xã hội là nói đến chất lượng của sự phát triển xã hội và tính hợp quy luật
của sự phát triển đó. Điều này tuỳ thuộc vào việc lựa chọn mô hình phát triển của mỗi quốc
gia. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường XHCN - một nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý
của Nhà nước - nhằm mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
"Xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" là định hướng XHCN, là nội dung cơ bản của tiến
bộ xã hội, còn kinh tế thị trường là phương tiện để đạt tới tiến bộ xã hội. Nhưng, những
chính sách xã hội được xây dựng không tính đến khả năng của nền kinh tế, không quan tâm
đến lợi ích kinh tế thì không những khó đi vào cuộc sống mà sẽ trở thành yếu tố cản trở sự
tăng trưởng kinh tế.
- Nghiên cứu sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội giúp ta có cơ sở
để tìm ra giới hạn hợp lý giữa chúng, trong đó, chủ yếu là phân tích các dấu hiệu, các yếu tố
có tác động tích cực hoặc tiêu cực của các chính sách kinh tế để có biện pháp kiểm soát,
khống chế về quy mô, tính chất hay cường độ, tránh gây hậu quả xấu về mặt xã hội. Hậu

16


quả do sai lầm trong chính sách xã hội thường để lại trong thời gian lâu dài hơn nhiều so với
những hậu quả do những chính sách kinh tế để lại.
Mối quan hệ hợp lý giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải được xác định
trong định hướng chính sách ở tầm vĩ mô và trong phương án xây dựng chính sách cụ thể.
Có 3 phương thức lựa chọn chủ yếu: Chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế; chính sách
xã hội đi trước chính sách kinh tế và chính sách xã hội đi đồng thời, song song với chính

sách kinh tế.
Theo phương thức đầu dễ sa vào quan điểm chạy theo kinh tế thị trường tự do đơn thuần,
coi nhẹ vấn đề xã hội; theo phương thức thứ hai dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí và chính
sách đề ra không có khả năng thực hiện gây mất lòng tin, làm giảm hiệu lực quản lý của
Nhà nước. Phương án thứ 3, "kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội" là tư tưởng cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Từ sự lựa chọn các phương thức trên, phương hướng kết hợp giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội là:
- Kết hợp ngay trong mục tiêu và phương hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH;
- Kết hợp trong quy hoạch tổng thể, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế - xã hội 5 năm;
- Kết hợp trong việc xây dựng và thể chế hoá, luật hoá các chính sách xã hội;
- Kết hợp trong kế hoạch và cân đối ngân sách hàng năm, trong đó xác định rõ tỷ lệ và
quy mô đầu tư cho chính sách xã hội, có sự lựa chọn những vấn đề ưu tiên;
- Kết hợp trong việc lồng ghép các chương trình, dự án kinh tế với các chương trình, dự
án xã hội.
Trong quá trình kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở tầm vĩ mô cần chú ý
các vấn đề có tính nguyên tắc sau:
- Trong hoạch định chính sách, cùng với việc tuân thủ các quy luật của nền kinh tế hàng
hoá để tăng trưởng kinh tế, phải lường trước những mặt khiếm khuyết có thể xảy ra về mặt
xã hội để chủ động điều chỉnh;
- Xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế và xã hội. Trong kinh tế, Nhà
nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế,
mà chỉ hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể kinh
tế có thể chủ động trong các hoạt sản xuất, kimh doanh của họ. Nhưng đối với các vấn đề xã
hội, Nhà nước phải tăng cường đến mức tối đa sự can thiệp của mình đề giải quyết bằng
những chương trình, chính sách với những mục tiêu cụ thể, đặc biệt là đối với những vấn đề
xã hội gay cấn như việc làm, chống đói nghèo, bài trừ tệ nạn xã hội,...
17



- Coi trọng việc xã hội hoá, cả trong nhận thức và hành động về mối quan hệ giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội; phải quán triệt ở các ngành, các cấp và mọi người, nhất là
đối với các cơ quan, tổ chức và cán bộ hoạch định, thực hiện chính sách.
- Trong việc kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, cần biết chọn ra
những chính sách xã hội gốc, cơ bản (ví dụ, chính sách việc làm, chính sách giáo dục, đào
tạo,...), xác định những vấn đề xã hội cấp bách cần ưu tiên giải quyết trước (ví dụ, vấn đề
đói nghèo, vấn đề tệ nạn xã hội,...).
Tóm lại, chính sách xã hội và chính sách kinh tế lập thành một hệ thống thống nhất. Sự
thống nhất đó được xác định ở một giới hạn hợp lý giữa chúng, ở đó sự kết hợp tối ưu giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển và tiến
bộ xã hội. Sự kết hợp đó dựa trên nguyên tắc: Chính sách kinh tế phải tìm được động lực
trong xã hội và đảm bảo ổn định xã hội; ngược lại, chính sách xã hội phải thúc đẩy kinh tế
phát triển và phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép.

1.6. Các chính sách với nhóm xã hội đặc thù:
Theo dấu hiệu nghề nghiệp, có CSXH với một số nghề nghiệp khác, thợ mỏ, giáo viên,
bác sĩ, nghề có độc hại,...
Theo lứa tuổi, có CSXH với người già, trẻ em, thanh niên.
Theo giới tính, có CSXH với phụ nữ.
Theo dân tộc, có CSXH với đồng bào các dân tộc thiểu số, ngoại kiều.
Theo tôn giáo, có CSXH với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Tin lành, Phật giáo, Cao
đài, Hoà hảo.
Theo trình độ văn hoá, có CSXH với người có học vấn cao, tài năng khoa học, hoặc học
vấn thấp, mù chữ.

1.7. Phân loại các chính sách xã hội:
Để hiểu rõ hệ thống các chính sách xã hội ta nên hiểu rõ sự phân loại hệ thống các chính
sách kinh tế - xã hội.

a. Căn cứ theo lĩnh vực tác động, các chính sách kinh tế - xã hội được chia thành các
nhóm chính sau:
Các chính sách kinh tế: là những chính sách điều tiết các mối quan hệ kinh tế nhằm tạo
ra động lực cho sự phát triển xã hội. Bao gồm các chính sách như: chính sách tài chính; tiền
tệ, tín dụng; chính sách cạnh tranh; chính sách phát triển cơ cấu kinh tế …
Các chính sách xã hội: Là các chính sách điều tiết các mối quan hệ xã hội làm cho xã
hội phát triển theo hướng công bằng và văn minh. Bao gồm các chính sách lao động việc
làm, dân số kế hoạch hóa gia đình….
Các chính sách văn hóa : là những chính sách nhằm phát triển nền văn hóa với tư cách
là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển của xã hội. Bao gồm giáo dục và đào
tạo, phát triển khoa học, công nghệ, văn hóa thông tin…
Chính sách đối ngoại
Chính sách an ninh, quốc phòng
18


b. Theo phạm vi ảnh hưởng của chính sách
Chính sách vĩ mô: là chính sách xây dựng nhằm vận hành nền kinh tế quốc dân , tác
động đến tổng thể của nền kinh tế xã hội, ảnh hưởng tác động đế lợi ích toàn dân, có hiệu
lực thi hành trên cả nước. Ví như chính sách tài chính, phân phối, tiền tệ…
Chính sách trung mô: là những chính sách có quy mô tác động lên những bộ phận hay
phân hệ của xã hội. Ví như chính sách điều tiết cơ cấu của một ngành kinh tế, chính sách
phát triển thành phần kinh tế hay phát triển vùng…
Chính sách vi mô: là những chính sách tác động lên những chủ thể kinh tế - xã hội cụ
thể ví như chính sách tài chính doanh nghiệp hay xóa đói giảm nghèo, thi tuyển công
chức…
c. Theo thời gian phát huy hiệu lực thì có chính sách dài hạn, trung hạn (từ 3 đến 7 năm) và
ngắn hạn.
d. Theo cấp độ của chính sách gồm có chính sách quốc gia do quốc hội ra quyết định, chính
sách của chính phủ, chính sách của địa phương (HĐND - UBND)

Như vậy để quản lý xã hội, nhà nước cầ xây dựng một loạt các chính sách khác nhau
nhưng chúng phải nằm trong một chỉnh thể thống nhất bao trùm tất cả lĩnh vực hoạt động
của xã hội hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn minh.

19



×