Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với ngoại Kiều phương Tây 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.65 KB, 7 trang )

Một số chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với
ngoại Kiều phương Tây
3
Năm Chính Hoà thứ tám (1687), chúa Trịnh Căn đã ra một lệnh chỉ, trong đó
cấm người nước ngoài không được tụ tập và trú ngụ tại kinh thành. Nội dung của
đạo chỉ như sau:
“Điều một: Một đạo lệnh cấm ngặt người nước ngoài không được tụ họp ở Kinh
sư và trú ngụ ở đấy. Truyền lệnh cho viên đề lĩnh phải thẳng tay thi hành…
Điều bốn: Các người ở trên tàu (chỉ những ngoại kiều) khi đến đây phải ngụ ở
nhà của viên trấn thủ Hải Dương. Khi họ có công việc gì cần về Kinh sư sẽ có
người đưa đi. Sau khi xong việc, họ phải về nơi đã quy định, không được ở lại
Kinh sư.

Điều năm: Tất cả các lái đò, kẻ nào dấu diếm chở người nước ngoài sẽ bị trừng
trị.
Điều sáu: Những người nước ngoài đã được phong tước tử và đã được đăng ký
hộ tịch, không ở diện nói trên thì họ được cư trú lại Kinh sư”(6).
Sang đầu thế kỷ XVIII, với sự trị vì của hai vị chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm
thì tâm lý bài ngoại của chính quyền ngày càng tăng. Năm Vĩnh Trị thứ tám
(1712), chúa Trịnh Doanh đã ra một đạo dụ cấm đạo Thiên chúa mang nội dung
rất khắt khe: “Phàm ai có đồ đạc và sách vở về đạo Hoa lang thì cho phép nộp lại,
xã trưởng hoặc phường trưởng sở tại sẽ cho tiêu huỷ ngay cho mọi người đều biết.
Hạn một tháng, ai còn mê đắm, dấu diếm thì bắt lập tức giải quan lưu thủ hoặc
trấn thủ. Quan lưu thủ hoặc trấn thủ sẽ cắt tóc đỉnh đầu và thích bốn chữ “ học
Hoà lang đạo” để răn đe. Lại thu của bọn tội nhân 100 tiền sử* để thưởng cho
người đã tố cáo. Kẻ đầu sỏ còn trú ngụ ở Sơn Nam thì phải đưa về nước họ…
Không cứ người Tây dương, người Nhật bản hay người nước ta đều phải bắt về để
trừng trị”(8). Năm 1773, Trịnh Sâm lại hạ lệnh: “hạn định trong hai tháng, người
nào theo đạo Hòa lang phải thay đổi hết phong tục cũ, người nào trái lệnh sẽ bị trị
tội. Ai cố ý dung túng sẽ bị tội lây, ai tố cáo được sẽ tha lao dịch cho ba đời”(10).
Có thể giải thích được hiện tượng này vì từ cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ


XVIII, tình hình kinh tế - chính trị Đàng Ngoài đã rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng. Bên cạnh đó, hạn hán, mất mùa xảy ra liên tục. Các giải pháp mang
tính tình thế không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hiện tượng nông dân phải
xiêu tán khắp nơi lại càng làm cho tình hình thêm bất ổn. Những nhân tố trên làm
cho khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, trong đó có sự tham gia của giáo dân
người Việt và cả các giáo sĩ cũng như là thương nhân người Âu. Tháng 9-1671,
chúa Trịnh Tạc phải ra một lệnh chỉ “cấm thông đồng với người nước ngoài buôn
bán súng trộm”(7) cho bọn phản loạn. Điều này làm cho các chúa Trịnh từ đầu đã
có ý thức “phòng ngự” đối với người phương Tây thì đến lúc này đã đi đến quyết
định là chống lại họ bằng những chính sách cứng rắn hơn. Bắt đầu từ giữa thế kỷ
XVII đến hết thế kỷ XVIII, các lệnh chỉ cấm đạo đã được đưa ra thi hành vào
những năm: 1643, 1662, 1663, 1696, 1670, 1712, 1721, 1723, 1737, 1745, 1753,
1773. Trong đó các chúa Trịnh còn cho thực hiện hình thức mạnh nhất đó là xử
trảm các giáo sĩ vào các năm 1745 và 1773(3).
Với những chính sách xã hội về ngoại kiều phương Tây mà các chúa Trịnh đã
thực hiện trong hai thế kỷ XVII - XVIII như đã trình bày trên có thể đưa ra nhận
xét:
Thứ nhất, trong những thập niên đầu của thế kỷ XVII, các chúa Trịnh thời kỳ
đầu tỏ ra trọng thị với người phương Tây. Gần một trăm năm, từ khi có người
châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Đàng Ngoài đến trước năm 1643, đã không có
một sự kì thị nào đối với người Châu Âu, ngược lại chính quyền còn tạo mọi điều
kiện để cho mối quan hệ giữa hai bên được tốt đẹp. Những chính sách xã hội đối
với ngoại kiều người Âu thể hiện tính năng động của chính quyền Đàng Ngoài
trong việc điều hành đất nước.

Thứ hai, đáng chú ý là các chúa Trịnh đã không chú trọng tiếp thu một cách có
hệ thống những thành tựu khoa học kỹ thuật của phương Tây mà trên thực tế, duy
trì mối quan hệ tốt đẹp đó chỉ để tranh thủ được sự trợ giúp của người châu Âu
vào cuộc chiến tranh với Đàng Trong cũng như là tạo ra sự phát triển kinh tế công
- thương nghiệp Đàng Ngoài. Điều này lại thể hiện tính thực dụng trong chính

sách ngoại giao, nó là cơ sở cho sự “từ chối” khi mà những ảnh hưởng của người
phương Tây tỏ ra "nguy hiểm" đến nền thống trị đang bước vào giai đoạn khủng
hoảng chưa tìm ra lối thoát hữu hiệu, dẫn đến việc các chúa Trịnh đã cho ban hành
những lệnh chỉ cấm đạo, thậm chí là cấm cả người châu Âu cư trú ở Đàng Ngoài.
Từ việc chống lại tôn giáo một cách cực đoan dẫn đến từ chối tất cả những thành
tựu của nền văn minh mới, những chính sách có tính bài ngoại đó lại làm mất đi
điều kiện để người Việt có thể tiếp thu nền văn minh phương Tây, khiến cho Việt
Nam thời kỳ này không thể có một phong trào như “phong trào Hà Lan học” ở
Nhật Bản cùng thời, mặc dù người dân Đàng Ngoài vốn không có tâm lý bài
ngoại, nếu không muốn nói là sẵn sàng tiếp thu nền văn minh phương Tây. Rõ
ràng, các chúa Trịnh đã làm cho dân tộc ta bị bỏ lỡ một cơ hội chủ động hoà nhập
với làn sóng văn minh mới đang phát triển, mà thời kỳ này được coi là một giải
pháp nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Đàng Ngoài,
mở đường cho sự phát triển của đất nước để sang thế kỷ XIX, khi các nước tư bản
phương Tây đã trở thành những nước đế quốc thì Việt Nam phải chịu sự áp đặt
nghiệt ngã và lịch sử dân tộc bước vào một giai đoạn đen tối và quanh co nhất.
Những chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với ngoại kiều châu Âu trong các
thế kỷ XVII - XVIII để lại bài học về “mở cửa” và “hội nhập” của Việt Nam hiện
nay./.
Chú thích:
*Tiền sử: tức tiền quan. Mỗi tiền gần bằng 36 đồng Cổ tiền, mỗi quan kẽm Cổ
tiền là 200 đồng.
*Cash: Người Hà Lan ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII gọi Cổ tiền là Cash.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch
sử Thanh Hoá (1995), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò
lịch sử, Thanh Hoá, tr.231.
2. Bùi Hạnh Cẩn, Ý đồ và hoạt động của các giáo sĩ nước ngoài trên đất Việt
Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nghiên cứu lịch sử, số 2(198), tr.29, 40.
3. Charles Maybon, Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới Hà

Nội 2006, tr.72.
4. Jean Patiste Tavernier, Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài,
Nxb thế giới Hà Nội 2005, tr.26.
5. Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt
Nam, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội 2003, tr.532.
6. Nhà in Bình Minh, Lê triều chiếu lệnh thiện chính (bản dịch của Nguyễn Sĩ
Giáp), Sài Gòn 1961, tr.127, 177, 313, 341.
7. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký

toàn thư, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.265,285.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Việt sử thông giám cương mục, tập II,
Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, tr.400.
9. Uỷ bản nhân dân tỉnh Hải Dương (1994), Phố Hiến - kỷ yếu hội thảo khoa
học, Nxb Sở văn hoá thông tin thể thao Hải Dương, tr.134,147, 238.
10. Viện khoa học xã hội, Viện nghiên cứu Hán Nôm (1981), Đại Việt sử ký tục
biên, Hà Nội, tr.72, 358.
11. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII - XVIII và
đầu thế kỷ XIX, Nxb Sử học Hà Nội, tr.188, 172, 174.
12. Willam Dampier (2005), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688,
Nxb Thế giới Hà Nội, tr.70, 105, 106.

×