Chương 2
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NHÓM XÃ HỘI ĐẶC THÙ
1. Chính sách giáo dục đào tạo
1.1. Quan điểm về giáo dục đào tạo
1.1.1 Khái niệm giáo dục và đào tạo
- Giáo dục là sự dạy dỗ đối với con người, là nhu cầu của con người để thoát khỏi
trạng thái tự nhiên, biến "con người sinh vật" thành "con người xã hội", làm cho con
người trở thành thành viên hợp cách của xã hội. Giáo dục bao gồm sự dạy dỗ cả về
phương diện tinh thần lẫn vật chất, cả kiến thức, kỹ năng lẫn kinh nghiệm. Các hoạt
động giáo dục được thực hiện trong gia đình, ở nhà trường hay ngoài xã hội. Giáo dục
gắn liền với quá trình văn hoá hoá và xã hội hoá con người.
- Đào tạo là một phương diện của giáo dục, là một dạng hoạt động cụ thể của giáo
dục, là sự giáo dục chuyên sâu. Đó là quá trình học tập (thường gắn với n hà trường)
của con người để có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc trong một lĩnh vực nhất
định, ở một trình độ nhất định. Trong nhiều trường hợp, "giáo dục và đào tạo" được
gọi chung là giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm của giáo dục và đào tạo
- Giáo dục, đào tạo là những hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực nguồn tài nguyên quý nhất của mọi quốc gia. Giáo dục, đào tạo là nền tảng của quá
trình hình thành và phát triển nguồn nhân lực, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm thích hợp để hoạt động tạo ra của cải vật chất và tinh thần, tạo ra
dịch vụ hàng hoá và những tri thức mới cho xã hội. Do đó, kết quả của giáo dục, đào
tạo không phải là những sản phẩm vật chất cụ thể để tiêu dùng mà có tính chất vô hình,
tạo tiềm năng vô cùng to lớn cho sự phát triển của xã hội.
- Giáo dục, đào tạo là một linh vực đầu tư cho tương lai. đầu tư cho giáo dục đào
tạo không tạo ra thành quả để có thể hưởng thụ ngay, mà nó tạo ra lợi ích trong tương
lai. Như Hồ Chí Minh đã nói: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người".
- Giáo dục, đào tạo được thực hiện bằng nhiều hình thức rất đa dạng: Các tổ chức
chuyên trách của xã hội trực tiếp đảm nhận thông qua việc giảng dạy theo trường, lớp;
các thiết chế xã hội (gia đình, đoàn thể, tôn giáo, ...) và gián tiếp thông qua sách và các
phương tiên nghe, nhìn khác.
20
- Giáo dục và đào tạo mang lại lợi ích không chỉ cho những người được hưởng chi
phí về giáo dục, đào tạo, mà còn mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội (kinh tế xã hội
phát triển nhờ nâng cao dân trí, sử dụng kho học, công nghệ,...).
1.1.3. Mục tiêu của giáo dục - đào tạo
Mục tiêu giáo dục, nói một cách tổng quát và hình tượng là "trồng người", là hình
thành những con người có phẩm chất, trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội,
thích ứng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển con người, xã hội và thời đại. Cụ
thể là:
- Cung cấp cho con người một khối lượng kiến thức nhất định, những hiểu biết
chung về đất nước, con người, xã hội hoặc về một lĩnh vực nhất định (lịch sử, địa lý,
toán học, kinh tế học,...).
- Chuyển giao các giá trị văn hoá, các quy tắc ứng xử, các chuẩn mực của xã hội và
của con người cho các thế hệ nối tiếp sau. Các giá trị văn hoá ở đây bao gồm cả vật
chất lẫn tinh thần, cả những giá trị truyền thống của dân tộc, cộng đồng lẫn những giá
trị chung của toàn nhân loại.
- Giúp con người tiếp nhận các cơ chế kiểm soát và điều chỉnh hành vi đối với họ
trong cuộc sống xã hội.
- Giúp con người có kỹ năng trong những lĩnh vực nghề nghiệp nhất định để tham
gia vào quá trình lao động xã hội, phát huy tiềm năng của cá nhân để phát triển cá nhân
và đóng góp với sự phát triển chung của xã hội.
1.1.4. Hình thức giáo dục - đào tạo
Các hình thức giáo dục hết sức phong phú. Ngoài các thiết chế giáo dục - đào tạo
chính thức của xã hội (hệ thống các loại trường, cơ sở giáo dục - đào tạo), quá trình
giáo dục diễn ra ở khắp mọi nơi và trong suốt cả đời người. Chức năng giáo dục là một
trong những chức năng cơ bản không chỉ của nhà trường, mà còn của gia đình, tổ chức
đoàn thể, tổ chức tôn giáo. Các thiết chế không chính thức này trên thực tế đóng góp
phần đặc biệt to lớn trong giáo dục con người.
Giáo dục và đào tạo, không chỉ là yêu cầu hợp cách hoá các thành viên của xã hội
mà còn là nhu cầu, động lực của mỗi cá nhân con người. Chính từ nhu cầu này mà con
người luôn có xu hướng biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, do vậy mà
hoạt động giáo dục có thể diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ: Một hành vi ứng xử với
những người xung quanh sao cho đúng với thuần phong mỹ tục không nhất thiết phải
học ở nhà trường, ngược lại những thứ này thường được tiếp thu từ trong gia đình,
nhóm họ hàng hay bạn bè. Đối với kỹ thuật làm một món ăn nào đó có thể xem một
lần trên vô tuyến truyền hình hay đọc qua sách hướng dẫn. Kinh nghiệm trị bệnh đau
đầu có thể tiếp thu ngẫu nhiên ở quán nước trong lúc vui bạn bè.
21
Sự giáo dục đúng đắn, có phương pháp trên cơ sở thích ứng với khả năng và đáp
ứng nhu cầu cá nhân sẽ là điều kiện tốt quyết định nhân cách, tương lai và số phận của
cá nhân. Ngược lại, sự giáo dục sai lầm sẽ dẫn con người vào những chỗ u tối, nhu
nhược, đi ngược lại các giá trị nhân bản.
1.2. Nội dung chủ yếu của chính sách giáo dục và đào tạo
1.2.1. Khái niệm về chính sách giáo dục và đào tạo
Chính sách giáo dục, đào tạo là một trong những chính sách xã hội cơ bản nằm
trong hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính sách giáo dục và
đào tạo là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động giáo dục và đào tạo
nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước về lĩnh vực này.
Có thể hiểu chính sách giáo dục và đào tạo là một hệ thống các quan điểm, các mục
tiêu của Nhà nước về giáo dục, đào tạo, cùng các phương hướng, giải pháp nhằm thực
hiện các mục tiêu đó trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển đất nước.
1.2.2. Vai trò của chính sách giáo dục, đào tạo
Đối tượng của giáo dục, đào tạo là con người - vốn quý nhất, nguồn nội lực cốt lõi
đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Có thể nói, giáo dục, đào tạo là mối quan
tâm hàng đầu của mỗi quốc gia nhằm tạo ra một nguồn nhân lực có trí tuệ cao, có tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, đáp ứng ở mức cao nhất những yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nếu như trước đây sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là nguyên nhân chủ
yếu làm chậm tốc độ phát triển kinh tế thì trong thời đại ngày nay, phần quan trọng của
tăng trưởng gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động, Nếu như trước đây, nền
kinh tế của mỗi quốc gia chủ yếu dựa vào lao động và tự nhiên thì ngày nay chủ yếu
dựa vào thông tin và trí tuệ. Kỷ nguyên phát triển mới coi đầu tư phát triển nguồn nhân
lực là quan trọng hơn các loại đầu tư khác. Vì vậy các quốc gia trên thế giới đều có sự
thay đổi trong chiến lược phát triển của mình theo huướng chú trọng nhiều hơn đến
giáo dục và đào tạo.
Ở Việt Nam, với ý nghĩa giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, việc hoạch định
và thực hiện chính sách giáo dục đúng đắn, cùng với các chính sách xã hội khác là tiền
đề quyết định cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chính sách giáo dục và đào tạo góp
phần vào việc nâng cao dân trí, xây dựng và phát triển con người có văn hoá (đức và
tài), qua đó thực hiện mục tiêu trước mắt "xoá đói giảm nghèo" (vì một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến đói nghèo là do con người không có học, không có
nghề nghiệp) cũng như góp phần thực hiện mục tiêu cơ bản là sự tiến bộ, công bằng,
văn minh cho con người trong xã hội. Đây là một trong những chính sách thể hiện rất
rõ quan điểm nhân văn và định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
22
1.2.3. Định hướng giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước
Văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VIII đã xác định: Cùng với khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy
hiệu quả. Phương hướng chung của giáo dục và đào tạo trong 5 năm tới là phát triển
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện cho
nhân dân, đặc biệt là thanh niên, có việc làm, khắc phục các tiêu cực, yếu kém trong
giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục.
Đến năm 2000, bảo đảm đại bộ phận trẻ em 5 tuổi được hưởng chương trình giáo
dục mầm non; thanh toán nạn mù chữ ở những người trong độ tuổi từ 15 đến 35, thu
hẹp diện người mù chữ ở độ tuổi khác; cơ bản hoàn thành phổ cập tiểu học trong cả
nước, trước hết là đối với trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14; phổ cập trung học cơ sở ở
những thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung và những nơi mà điều kiện cho phép.
Có chính sách bảo đảm cho con em các gia đình trong diện chính sách, gia đình nghèo
được đi học, động viên và giúp đỡ những học sinh giỏi có nhiều triển vọng. Mở cuộc
vận động rộng rãi trong toàn dân kiên quyết xoá mù chữ và chống nạn thất học.
Xây dựng hệ thống trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Coi
trọng việc dạy ngoại ngữ và tin học từ cấp phổ thông. Mở thêm các trường phổ thông
nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số. Coi trọng giáo dục gia đình.
Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên
cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Củng cố và nâng
cao chất lượng giáo dục phổ thông. Phát triển các hình thức giáo dục từ xa. Mở rộng
các trường lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề. Trong khi xây dựng hệ thống
trường công, có chính scáh giúp đỡ, hướng dẫn phát triển và quản lý tốt các trường,
lớp bán công, dân lập, tư thục. Khuyến khích dạy nghề tại doanh nghiệp. Phát triển đào
tạo sau đại học; tăng số lượng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài và tại các
trung tâm đào tạo quốc tế ở trong nước. Khuyến khích du học tự túc. Giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng. Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh
vực khoa học, công nghệ, văn hoá, văn nghệ, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, ...Nhanh
chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên của hệ thống hành chính các cấp. Đào
tạo đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp giỏi. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ
10% hiện nay lên khoảng 22 - 25%. Nâng cao kiến thức văn hoá, nghề nghiệp cho phụ
nữ, bồi dưỡng lực lượng cán bộ nữ.
Xác định rõ hơn mục tiêu, thiết kế nội dung, chương trình, đổi mới phương pháp
giáo dục, đào tạo, lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo
dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
23
Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc; ý chí
vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiếnvà phương tiện hiện đại vào quá trình đào tạo; phát triển mạnh
quá trình tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp. Ngăn chặn và xử lý nghiêm
những tiêu cực trong giảng dạy, học tập, thi cử và cấp văn bằng chứng chỉ.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giaó viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng với tinh thần ưu
đãi và tôn trọng nghề dạy học.
Tổng kết cải cách giáo dục; xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống luật pháp và chính sách của Nhà nước về giáo dục, đào tạo. Tăng cường quản lý
nhà nước đối với các loại hình trường lớp giáo dục, đào tạo.
Nâng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo, động viên đúng mức sự
đóng góp của mỗi nhà, mỗi người đồng thời thu hút nguồn đầu tư từ các cộng đồng,
các giới trong và ngoài nước cho giáo dục, đào tạo. đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
giáo dục, đào tạo. Phát huy trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền, các
doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
Kỳ họp thứ 4, Quốc Hội khoá 10 đã thông qua Luật giáo dục. Đây là một bước tiến
mới trong việc xây dựng chính sách về giáo dục của Nhà nước, hoàn thiện thêm một
bước hệ thống luật pháp của Nhà nước về lĩnh vực này.
1.3. Xây dựng và thực hiện chính sách giáo dục, đào tạo
1.3.1. Phân tích môi trường bên trong
Môi trường bên trong đối với giáo dục, đào tạo không chỉ là nguồn ngân sách hay
cơ sở vật chất - kỹ thuật dành cho lĩnh vực này mà là trình độ, khả năng cung cấp các
dịch vụ giáo dục, đào tạo; là quan điểm của xã hội, dân tộc về vấn đề này; là những
động lực và các hình thức khuyến khích, động viên con người tham gia vào các hoạt
động giáo dục, đào tạo. Môi trường bên trong không chỉ là những mặt mạnh, những lợi
thế mà còn là những hạn chế của hiện tại và xu hướng của các dạng hoạt động giáo dục
trong tương lai.
- Những mặt mạnh cần được tính đến khi xây dựng chính sách giáo dục, đào tạo là:
Thứ nhất, Việt Nam là một dân tộc có truyền thống tôn sự trọng đạo. Con người
Việt Nam tự hào là những người ham học và học giỏi. Trong truyền thống đó, không
phân biệt sang - hèn, giầu - nghèo, người nào học giỏi, thi đỗ đều được xã hội thừa
nhận, được mọi người kính trọng và được Nhà nước trọng dụng, bổ làm quan. Truyền
thống đó được các thế hệ nối tiếp nhau gìn giữ và phát huy cho đến hôm nay.
24
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến giáo dục, đào tạo. Tiêu
biểu về sự quan tâm này là Bác Hồ. Trong thư giử thiếu niên, nhi đồng nhân dịp Tết
Trung Thu; trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng; trong thư gửi các nhà giáo
nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam và trong nhiều văn bản khác đã thể hiện sự quan
tâm của Bác đền sự nghiệp "trồng người". Bác đã từng nhắc nhở, động viên thế hệ trẻ
Việt Nam say mê học tập để có thể sánh vai với cường quốc năm châu. Trong những
năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ gian khổ, Đảng và Nhà nước ta đã cử nhiều cán
bộ, sinh viên, học sinh ra nước ngoài học tập; mở thêm các trường dạy ở trong nước;
có chế độ ưu tiên ngành sư phạm, sử dụng những người được đào tạo. Và, gần đây,
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 2, khoá VIII về giáo dục và
đào tạo; Luật Giáo dục được Quốc Hội thông qua 11/1998 lại càng thể hiện hơn sự
quan tâm lớn và thiết thực của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề giáo dục, đào tạo.
Nhiều tổ chức quốc tế và bạn bè thế giới cũng đã nhận xét: Việt Nam có một thành
tích đầy ấn tượng về giáo dục, ngay cả khi so sánh với nhiều nền kinh tế khác có mức
thu nhập cao hơn. Rõ ràng là Chính phủ Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng
và thực thi chính sách giáo dục, đào tạo, đặc biệt là trong việc trang bị những kiến thức
giáo dục cơ bản cho đại bộ phận dân chúng (93% người lớn thoát mù chữ; Chính phủ
cấp 55% tổng chi phí cho giáo dục; nhân dân đóng góp 45%).
Bên cạnh thế mạnh, trong lĩnh vực này cũng có một số khó khăn, hạn chế cần tính
đến :
- Một là, khó khăn lớn nhất hiện nay là nước ta còn nghèo, có nhiều hạn chế về
nguồn lực. Nguồn lực ở đây bao hàm cả cơ sở vật chất, phương tiện và lực lượng giáo
viên cùng với hệ thống chương trình, giáo trình. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố
gắng dành ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo năm sau tăng hơn năm trước
(1985 - 5%; 1995 - 10%; 2000 - 15%) nhưng vẫn không thể đáp ứng đủ yêu cầu (số
lượng và chất lượng trường học, phòng học không bảo đảm; thiết bị dạy học thiếu và
lạc hậu, giáo viên thiếu, lương giáo viên thấp,...)
- Hai là, trong sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhiều hoạt động giáo dục, đào
tạo đã bị thương mại hoá và có nhiều hiện tượng tiêu cực nẩy sinh trong giảng dạy, học
tập, thi cử và cấp phát văn bằng, chứng chỉ.
- Ba là, cải cách giáo dục còn chậm và kém hiệu quả, một phần vì thiếu đầu tư,
những người thực hiện cụ thể còn thiếu năng lực và kinh nghiệm, áp dụng vội vàng
nhiều mô hình giáo dục, đào tạo của nước ngoài thiếu chọn lọc và không tính hết đến
những điều kiện cụ thể của Việt Nam.
25
1.3.2. Phân tích môi trường bên ngoài
- Khả năng cung cấp các dịch vụ đào tạo của thế giới và trong khu vực là hết sức
phong phú, đa dạng và không kém phần phức tạp. Thị trường càng phong phú và rộng
lớn càng có nhiều phương án để lựa chọn, nhưng cũng gây khó khăn cho việc lựa chọn
đó. Cái khó là chọn cho đúng và trúng những nơi, những lĩnh vực có khả năng tốt nhất,
bảo đảm sự an toàn cao nhất để gửi cán bộ, sinh viên đi học.
- Xu hướng giáo dục trên thế giới rất đa dạng và chứa đựng cả những điều hay, lẽ
dở, không thiếu những ý đồ xấu, phản động nhân danh hoạt động nhân đạo, hoạt động
giáo dục, đào tạo làm bàn đạp tấn công vào con người nhằm mục tiêu chính trị, nhồi
nhét những tư tưởng phản động, tuyên truyền lối sống không lành mạnh, không phù
hợp với các giá trị văn hoá của dân tộc và những chuẩn mực chung của con người.
Cũng không thiếu những hoạt động nhân danh giáo dục, đào tạo để kiếm tìm lợi
nhuận, bất chấp nội dung và chất lượng giáo dục.
- Trong thời đại thông tin, với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ,
với chính sách "mở cửa", cộng với lợi thế của nước đi sau, Việt Nam có nhiều cơ hội
để phát triển chính sách giáo dục, đào tạo của mình.
Sự hiểu biết căn kẽ khả năng, chất lượng và khuynh hướng, quan điểm đào tạo của
các cơ sở đào tạo của thế giới có tầm quan trọng đặc biệt để tăng cường gửi người đi
học nước ở ngoài, tiếp thu kinh nghiệm, phương pháp và tinh hoa của nhân loại để làm
giầu mạnh đất nước. Có một nhà Xã hội học nổi tiếng của Nhật đã cảnh báo các nước
đang phát triển rằng không thể dùng tiền mua công nghệ của nước ngoài để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phải bằng văn hoá của dân tộc, thông qua nền văn hoá
âýy mới có thể biến công nghệ tiên tiến của nước ngoài thành cái của mình, thành cái
bên trong của nước mình.
1.3.3. Lựa chọn mục tiêu giáo dục - đào tạo
Mục tiêu chung, mang tính tổng quát của giáo dục đã được nêu ở trên. Tuy nhiên,
trong từng giai đoạn nhất định, với những khả năng và điều kiện nhất định, Nhà nước
phải có những mục tiêu cụ thể. Nghị quyết Hội nghị trung ương 2 về giáo dục và đào
tạo đã xác định cụ thể các mục tiêu giáo dục đào tạo, trong giai đoạn hiện nay, bao
gồm các mục tiêu về các bậc học, về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào
tạo, về cơ sở vật chất, về hợp tác quốc tế, về quản lý nhà nước và cơ sở pháp lý để điều
tiết các hoạt ddộng giáo dục, đào tạo.
1.3.4. Xác định hệ thống các quan điểm chỉ đạo
Đây là vấn đề hết sức quan trọng, bởi không thông suốt về mặt tư tưởng, không
thống nhất về tư tưởng thì dù có điều kiện thuận lợi đến đâu, dù có kế hoạch chi tiết và
cụ thể đến đâu cũng rất khó thực hiện. Các quan điểm lớn để chỉ đạo hoạt động không
26
nằm ngoài các mục tiêu chiến lược, không đi ngược lại các định hướng cơ bản của
Đảng và Nhà nước, nhưng nó chỉ rõ quy mô, phạm vi hoạt động trong một giai đoạn
nhất định, chỉ rõ cái cách thức cơ bản để tiến hành: phải xuất phát từ đâu, trên cơ sở
những tiêu chuẩn nào, kết hợp với những gì, hiệu quả đến đâu,....
- Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, có ý nghĩa quyết
định đến tương lai của dân tộc và vị thế của đất nước. Tư tưởng chỉ đạo chính sách
giáo dục và đào tạo hiện nay của Nhà nước ta là:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, cùng với mục tiêu nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân tài, cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực quốc gia để thiết thực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Cùng với việc tăng cường ngân sách cho giáo dục, đào tạo, cần cải tiến chương
trình, nội dung và phương pháp theo hướng cơ bản và hiện đại. Nâng cao chất lượng
công tác dạy và học.
- Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về giáo dục đào tạo,
tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động giáo dục đào tạo, cần mở rộng quy mô,
hình thức và động viên mọi người tham gia quá trình đào tạo và tự đào tạo. Thực hiện
xã hội hoá các hoạt động giáo dục, đào tạo.
- Đặc biệt quan trọng là xử lý tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng. Đào tạo
theo nhu cầu xã hội để đáp ứng các đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước và những
người đã qua đào tạo phải được sử dụng, tạo điều kiện để phát huy tất cả những gì mà
họ có thể có được trong quá trình đào tạo.
1.3.5. Đưa ra các chính sách cụ thể cho sự phát triển giáo dục, đào tạo
Đó là các tính toán được cụ thể thành mục tiêu cụ thể cần đạt được như: Phổ cập
giáo dục cấp nào? Mũi nhọn của ngành giáo dục, đào tạo là gì? Chính sách giáo dục,
đào tạo cho các đối tượng và khu vực đặc thù (nữ, tôn giáo, miền núi, biên giới,...)?
Cơ cấu các cấp và ngành nghề giáo dục, đào tạo (khoa học cơ bản, khoa học quản lý,
khoa học xã hội nhân văn, công nhân lành nghề, trung cấp, đại học, sau đại học,...)?
1.3.6. Lựa chọn cơ quan thực hiện chính sách
Các chính sách giáo dục, đào tạo chủ yếu do Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Văn hoá
và thông tin, Uỷ ban Thể dục thể thao, các Bộ và các cơ quan hữu quan khác cùng tất
cả các đoàn thể, tổ chức xã hội ở các cấp, các ngành thực hiện. Vấn đề là phải phân
công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan này để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
có hạn của đất nước vào sự nghiệp to lớn này.
27
1.3.7. Đánh giá hiệu lực, hiệu quả chính sách
Đây là một vấn đề phức tạp, mà phương pháp tính toán các chỉ tiêu đo lường cụ thể
phải do Nhà nước đưa ra (qua uỷ nhiệm cho một số cơ quan chủ lực).
1.3.8. Lựa chọn hình thức thực hiện chính sách
Các hình thức thực hiện chính sách phải xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước
(khả năng ngân sách, truyền thống và đặc điểm của dân tộc, thực trạng hiện có của
ngành, khả năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ của ngành,...) để lựa chọn cho thích hợp
và có hiệu quả.
1.3.9. Tổng kết thực hiện chính sách
Đó là việc đánh giá cái được, cái mất của quá trình thực hiện chính sách sau mỗi
chặng đường phát triển, nhằm rút ra những bài học bổ ích. Đặc biệt cần xử lý nghiêm
khắc đối với các nhân viên của Nhà nước, do những nguyên nhân khác nhau đã gây ra
những thiệt hại cho ngành, cho đất nước. Những hiện tượng tiêu cực, gây thiệt hại cho
đât nước là một thực tế xẩy ra ở nhiều nơi nhưng do xử lý không kịp thời và đúng mức
nên không ngăn chặn được
2. Chính sách lao động việc làm:
2.1. Quan điểm về lao động việc làm:
2.1.1. Việc làm
Việc làm là yếu tố quyết định đời sống mỗi người trong độ tuổi lao động. Nạn thất
nghiệp là một trong những nguyên nhân hàng đâu dẫn đến tiêu cực xã hội, gây bất bình
đẳng xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội và quan trọng hơn là nguyên nhân gây nên
cuộc sống không ổn định, đói nghèo. Việc làm là điều kiện sống còn của con người xã
hội.
Hiện nay ở nước ta tình trạng thất nghiệp không phải cao những không có việc làm
ổn định là phổ biến, nhất là từ khi chuyển sang cơ chế thị trường. Nhà máy làm ăn thua
lỗ, không có việc làm, công nhân viên chức lâm vào cảnh chờ đợi, chạy chợ tìm kiếm
việc làm tạm bợ để lo cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình. Vay vốn đầu tư
sản xuất, nhưng trình độ quản lý yếu kém dẫn đến xí nghiệp đổ bể, vỡ nợ cũng lại đẩy
hàng loạt người lao động rơi vào tình trạng lang thang, cơ nhỡ.
Các vấn đề: việc làm - dân số - lao động liên quan chặt chẽ với nhau. Nước ta, 85%
dân số sống ở nông thôn, chủ yếu bằng lao động thủ công, với lối canh tác cổ truyền
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, cái được cái mất nhiều khi do may rủi. "Việc làm"
đối với nông dân tại sao lại thành vấn đề xã hội? Thóc lúa, hoa màu, gia cầm, gia súc
do người nông dân làm ra lúc được, lúc không. Chưa kịp thu hoạch, nhiều khi lúa đã bị
nước lũ cuốn đi, bị mưa làm rụng xuống, nẩy mầm. Lại có khi sản phẩm làm ra không
28
có người mua, bị tư thương bắt chẹt, dìm giá. Nhiều người nông dân Việt Nam vốn
gắn bó với quê hương, vốn không thích cảnh xa xứ, vốn quen cầy cuốc nhưng đã ra đi,
tìm vùng đất mới để dễ bề làm ăn, tìm công việc mới hy vọng một khả năng kiếm sống
thuận lợi hơn, có cuộc sống sung túc hơn. Họ đổ xô ra thành thị. Các đô thị, với xu
hướng phát triển, mở rộng một cách tự phát càng trở nên đông đúc, chật chội và kéo
theo đó là hàng loạt những khó khăn trong sinh hoạt và những tệ nạn xã hội khác. Đó
là kết quả của sự bùng nổ dân số và khủng hoảng việc làm.
Ngày nay, bùng nổ dân số đang là nguy cơ của nhiều quốc gia trên thế giơí. Sự
khủng hoảng việc làm hiện nay lại là vấn đề của toàn cầu, vẫn đang là thách thức đối
với mọi quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam không phải là trường hợp ngoại lệ.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp bước đầu có hiệu quả để giải quyết tốt
vấn đề liên quan đến dân số - lao động - việc làm.
- Công tác kế hoạch hoá gia đình đã trở thành một chương trình quốc gia quan
trọng hàng đầu của đất nước. Sau 3 thập kỷ (1960 - 1990) từ lúc bắt đầu nhận thức tầm
quan trọng của vấn đề dân số - kế hoạch hoá gia đình và áp dụng các giải pháp đồng bộ
cần thiết, chúng ta đã giảm được tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ trên 3% xuống còn 2,2%.
Mục tiêu hiện nay của nước ta là mỗi gia đình chỉ có 1 - 2 con, phấn đấu đến năm
2000, bình quân mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2,9 con.
- Các chương trình di dân đã góp phần phân bổ hợp lý dân cư và lao động, khai
thác các nguồn tiềm năng tự nhiên, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới (riêng chương
trình 327 đã điều động trên 23 vạn hộ gia đình, hơn 1 triệu nhân khẩu đến các vùng
kinh tế mới, tạo việc làm cho nửa triệu lao động), Nhà nước đã có Nghị định số
120/HĐBT ngày 11/ 4/1992 hình thành quỹ quốc gia giải quyết việc làm, cho vay gần
1000 tỷ đồng với điều kiện ưu đãi, giúp đỡ gần 2 vạn dự án nhỏ, tạo việc làm cho gần
một triệu người.
- Các chương trình viện trợ nhân đạo (Tiệp Khắc cũ, CHLB Đức, EC, HCR,..) tạo
điều kiện tái hoà nhập và giải quyết việc làm cho hơn 20 vạn người hồi hương.
- Với chính sách ngoại giao mềm dẻo, chính sách " mở cửa "đúng đắn và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài một cách có hiệu quả, nguồn lực này cũng giúp tạo thêm 20 vạn
chỗ làm việc mới.
Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù, chịu khó, khéo tay, có trình
độ học vấn, khả năng tiếp thu nhanh chóng khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,...
là những điểm mạnh của lao động Việt Nam, đang được các nhà đầu tư nước ngoài
đánh giá rất cao, là yếu tố kích thích đầu tư nước ngoài. Với chính sách, giải pháp
đúng đắn như vậy, năm 1995 số lượng chỗ làm việc mới tăng lên nhiều so với những
năm trước đó (tăng 5% so với con số tăng bình quân hàng năm trước đó).
29
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế lao động, trong kế hoạch 5 năm, từ 1996
- 2000, phải bố trí việc làm cho 8,5 triệu người bao gồm: Số lao động cũ chuyển sang:
2,5 triệu; số thành viên đến tuổi lao động không tiếp tục đi học: 4,5 triệu; số học sinh
tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp: 0,6 triệu; số lao động nông nghiệp bị mất diện
tích canh tác, cần có việc làm mới: 0,5 triệu; các đối tượng tệ nạn xã hội, hết hạn tù:
0,3 triệu; số công nhân viên chức mất việc và các đối tượng khác: 0,1 triệu.
2.1.2 Thực trạng và nguyên nhân vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay
Thực trạng việc làm hiện nay
Thực trạng việc làm ở nước ta hiện nay có một số vấn đề đáng lưu ý:
- Dân số nước ta là loại dân số trẻ, số người dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ lớn, khoảng
45%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm cao, trên 2%. Tổng nguồn lao động cũng
ngày càng tăng và hiện nay đang tăng ở mức từ 3,4 đến 3,5% mỗi năm, tính ra, mỗi
năm có trên 11 thanh niên bước vào tuổi lao động. Như vậy, dù kinh tế có tăng trưởng
cao, GDP có tăng 10% thì từ nay đến năm 2000 và 2010, nước ta vẫn dư thừa khá
nhiều lao động.
- Số lao động chưa có việc làm tập trung khá lớn ở vùng đô thị. Tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực đô thị là 9 -10%, thậm chí có nơi lên tới 12%, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp
chung cả nước là 6%. Trong số những người chưa có việc làm thì 80% là thanh niên,
trong đó phần lớn chưa có tay nghề, thiếu vốn để tổ chức lao động và một bộ phận thất
nghiệp từ khu vực nhà nước (giảm biên chế), bộ đội xuất ngũ, lao động từ nước ngoài
trở về,...
Ớ nông thôn, nơi tập trung gần 80% dân số và trên 70% lao động, do cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động lạc hậu, chủ yếu là kinh tế tự cung, tự cấp và thuần nông, nên tình
trạng thiếu việc làm là phổ biến. Đất canh tác ngày càng bị thu hẹp nên sự dư thừa lao
động khá lớn, 30 - 40%.
- Mặc dù Đảng và Nhà nước ta có nhiều biện pháp trong giải quyết việc làm như
khuyến khích các thành phần kinh tế tự tạo việc làm, xây dựng chương trình quốc gia
giải quyết việc làm, nhưng mỗi năm cũng chỉ giải quyết được khoảng 1 triệu lao động,
xấp xỉ số thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Số tồn đọng lao động của các năm
trước và mới phát sinh vẫn còn trên 6 triệu người.
Cùng với việc chuyển sang cơ chế thị trường, việc giải quyết việc làm ở nước ta
đứng trước những mâu thuẫn và thách thức lớn, đó là:
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu về việc làm ngày càng lớn và khả năng giải quyết việc
làm còn rất hạn chế, trong khi tiềm năng phát triển kinh tế và tạo việc làm còn lớn
nhưng chưa được phát huy, chưa gắn lao động với tiềm năng đất đai và tài nguyên
thiên nhiên.
30
- Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt khi cơ cấu kinh tế đang
được điều chỉnh theo hướng thị trường. Việc điều chỉnh cơ cấu lao động cho phù hợp
với cơ cấu kinh tế mới tất yếu dẫn đến dư thừa lao động. Xu hướng tách và đẩy lao
động ra khỏi việc làm khá lớn. Đó là sự không phù hợp giữa cơ cấu lao động cũ và cơ
cấu kinh tế đang chuyển đổi. Trong quá trình điều chỉnh này, nền kinh tế nước ta vừa
thiếu lực lượng lao động kỹ thuật, vừa thừa lao động phổ thông và giản đơn.
- Mâu thuẩn trong bản thân vấn đề việc làm. Giải quyết việc làm vừa là vấn đề kinh
tế - xã hội cơ bản, lâu dài, có tính chất chiến lược, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt.
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ tổ chức quản lý
chưa theo kịp yêu cầu của cơ chế mới.
Nguyên nhân của vấn đề việc làm hiện nay
Thực trạng nói trên của vấn đề giải quyết việc làm, có một số nguyên nhân sau đây:
- Một là, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm quá thấp,
thiếu điều kiện vật chất cơ bản để chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hoá. Đặc biệt,
cấu trúc hạ tầng cơ sở hiện nay quá yếu kém, khó lựa chọn công nghệ thích hợp và hạn
chế khả năng đầu tư nước ngoài. Đây là nguyên nhân bao trùm và cơ bản nhất, hạn chế
khả năng giải quyết việc làm.
- Hai là, trong cơ chế cũ, người lao động chủ yếu là tìm việc làm trong khu vực
kinh tế nhà nước. Nhà nước quản lý và điều hành nền kinh tế theo kiểu tập trung bao
cấp, dẫn đến kìm hãm tiềm năng lao động, triệt tiêu động lực tự tạo việc làm của người
lao động. Đến nay, cơ chế mới đã mở ra khả năng to lớn trong việc giải phóng tiềm
năng lao động của toàn bộ xã hội, song Nhà nước lại chưa có chính sách đồng bộ và cụ
thể để khuyến khích phát triển việc làm. Hệ thống đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề
chưa đáp ứng yêu cầu.
- Ba là, chưa có một hệ thống cơ quan sự nghiệp hoàn chỉnh để giải quyết việc làm.
Các trung tâm dịch vụ việc làm còn manh mún, chưa thực sự là cầu nối giữa người lao
động và người sử dụng lao động. Chương trình quốc gia về việc làm cũng chưa được
chỉ đạo tập trung về mặt tổ chức và đầu tư đúng mức về tài chính.
2.1.3. Chính sách việc làm
Khái niệm
Theo điều 13, chương II, trong bộ Luật Lao động: "Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia
nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị thượng đỉnh
31
Copenhagen, 3/1995 đã coi mở rộng việc làm là một trong những nội dung cơ bản nhất
của chiến lược phát triển xã hội của các nước trên thế giới từ nay đến 2000 và 2010.
Chính sách việc làm là thể chế hoá pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động
và việc làm, là hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và các giải pháp
giải quyết việc làm cho người lao động.
Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), người có việc làm là người
làm việc trong các lĩnh vực, ngành, nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật
ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một
phần cho xã hội.
Đối với việc làm, thất nghiệp là một tình trạng có tính quy luật của nền kinh tế thị
trường. Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp. Theo quan điểm của ILO: Thất
nghiệp là một tình trạng tồn tại, khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm
việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành. Giải quyết
thất nghiệp là vấn đề bức xúc trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là điều
khó tránh. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết tình trạng thất nghiệp như thế nào. Dưới
giác độ chính sách việc làm, để hạn chế thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm mới,
mặt khác phải tránh cho người lao động trước nguy cơ thất nghiệp (đào tạo, đào tạo lại
tay nghề,...). Ngoài ra, phải có chính sách trợ cấp cho người lao động khi họ bị thất
nghiệp.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan hệ và
tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã
hội, như các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành, nghề có
khả năng thu hút nhiều lao động, chính sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt
(người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương,...)
Vị trí, vai trò của chính sách việc làm
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách xã hội và các
chính sách kinh tế - xã hội khác. Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn lao động
được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách
bảo hiểm xã hội sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính
sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nhất là vào thời kỳ kinh tế suy thoái, nạn thất
nghiệp sẽ tăng lên và các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng đối với
các chính sách về bảo đảm xã hội, an ninh xã hội sẽ tăng lên, thậm chí có thể gây ra
bất ổn định về chính trị, xã hội.
Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên nhân cơ bản cần được thực hiện
là đảm bảo công bằng xã hội, trên cơ sở Nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
32
mọi người có cơ hội trong việc tìm kiếm và tự tạo việc làm, chốn tư tưởng ỷ lại vào
Nhà nước, thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều việc làm với thu nhập thấp. đồng
thời cũng phải chống xu hướng chạy theo thị trường tự do trong giải quyết việc làm,
coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khiến cho tình
trạng thất nghiệp trở nên vấn đề xã hội gay cấn.
Quan điểm chỉ đạo
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, Nhà nước phải lo mọi vấn đề về lao
động và việc làm, từ đào tạo, phân bổ đến sử dụng và đãi ngộ. Khái niệm về việc làm
trong cơ chế bao cấp hết sức xơ cứng, chỉ lao động trong khu vực Nhà nước là được
coi là "có việc làm" và được xã hội trân trọng. Trong cơ chế đó, khái niệm thất nghiệp,
thiếu việc làm, lao động dư dôi, thị trường sức lao động, .... bị coi là xa lạ, chế độ
tuyển dụng suốt đời được coi là đương nhiên. Cơ chế ấy cũng hạn chế đáng kể việc tự
do di chuyển lao động, tự do hành nghề, do vậy làm hạn chế việc phát huy sức mạnh
của nguồn nhân lực cũng như quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế - xã hội
nói chung. Từ khi có cơ chế mới, cơ chế thị trường đã thu hút lao động, tạo khả năng
mở thêm hàng triệu chỗ làm việc. Khái niệm về việc làm đã được chính thức ra đời
theo đúng nghĩa của nó, làm cho mọi công dân dù hoạt động ở thành phần kinh tế nào,
ở ngành nào hay ở đâu cũng đều có thể yên tâm làm việc. Điều 13, chương II, trong
bộ Luật Lao động đã ghi: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". "Giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội".
Từ kinh nghiệm của thế giới và căn cứ vào thực tiễn của nước ta, Nhà nước ta chủ
trương đầu tư vào một số ngành, nghề có khả năng thu hút nhiều lao động; mạnh dạn
đầu tư công nghệ cao, kể cả trường hợp phải đi vay vốn của nước ngoài nhằm thiết
thực thu hút nguồn lao động, phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Lênin có câu nói nổi tiếng: "... suy cho cùng, năng suất lao động là cái quyết định
sự chiến thắng của chế độ xã hội mới". Câu đó luôn luôn đúng. Tuy nhiên, kinh
nghiệm của Ấn Độ, vào cuối thập kỷ 60 lại cho thấy khi nước này thu hút vào khu vực
thâm canh cây lúa với số lượng lao động gần gấp đôi so với mức bình quân của những
năm trước đó, thì kết quả sản lượng gạo vẫn tăng lên 20%. Đó là giải pháp tình thế, có
giá trị nhất thời trong những điều kiện đặc thù. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, có
nhiều lúc, nhiều nơi cũng phải sử dụng các giải pháp tình thế tương tự, tạm chấp nhận
sự hạn chế của năng suất, vẫn đảm bảo sự tăng trưởng của tổng sản phẩm xã hội, để
giải quyết vấn đề việc làm.
Thất nghiệp là hiện tượng khó tránh trong cơ chế thị trường. Chính sách về việc
làm của Nhà nước xác định mục tiêu không phải là xoá bỏ hoàn toàn nạn thất nghiệp
33
mà là hạn chế nó đến mức thấp nhất, bảo đảm sự an toàn cho phép. Trong tương lai,
khi hội đủ một số điều kiện nhất định, nhất là về các điều kiện kinh tế, nước ta có thể
có chế độ bảo hiểm của Nhà nước đối với những người thất nghiệp.
Tóm lại các chủ trương lớn của Nhà nước về lao động và việc làm là Nhà nước có
trách nhiệm hỗ trợ về tài chính để xúc tiến việc làm; Nhà nước bảo vệ, khuyến khích
mọi người làm giầu một cách chính đáng, bảo đảm quyền tự do di chuyển chỗ làm,
việc làm, tự do hành nghề; Nhà nước có trách nhiệm và có chế độ khuyến khích tạo
việc làm mới để thu hút người lao động; khai thác mọi tiềm năng trong nhân dân và
tranh thủ đầu tư, hỗ trợ của nước ngoài; tiếp tục chương trình dân số kế hoạch hoá gia
đình để giảm sức ép của "cung" trên thị trường lao động.
Để có chính sách giải quyết tốt việc làm cho lao động xã hội, cần vận dụng những
quan điểm chủ yếu sau:
- Một là, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và với nguồn lao
động khá dồi dào hiện nay thì thất nghiệp là điều khó tránh. Vấn đề cơ bản là Nhà
nước phải kiểm soát được thị trường lao động nhằm khống chế và hạn chế thất nghiệp.
- Hai là, tự do hoá lao động là quan điểm cơ bản nhất để hình thành chính sách việc
làm trong điều kiện mơí. Quan điểm này phải được thể chế hoá thành luật pháp để đảm
bảo cho người lao động được tự do hành nghề, liên doanh, liên kết hợp tác và tự do
thêu mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước.
- Ba là, chính sách việc làm phải hướng vào tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động,
khuyến khích các lĩnh vực ngành, nghề và hình thức hoạt động có khả năng thu hút
được nhiều lao động, đặc biệt là khuyến khích người có vốn, có kỹ thuật và công nghệ
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra việc làm mới, thu hút thêm lao động
xã hội.
- Bốn là, chính sách việc làm phải nhằm hoàn thiện số lượng, chất lượng nguồn
nhân lực. Gắn với chất lượng nguồn nhân lực phải phát triển hệ thống giáo dục, đào
tạo nhằm vừa nâng cao dân trí, vừa đáp ứng yêu cầu lao động có kỹ thuật cao trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời tạo điều kiện cho lao động tự tạo
việc làm.
- Năm là, giải quyết việc làm phải theo các chương trình, dự án có mục tiêu, có vốn
đầu tư từ nhiều nguồn và lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
2.2. Biện pháp tổ chức thực hiện
2.2.1- Phương hướng
Căn cứ vào những quan điểm cơ bản trên, phương hướng cơ bản để sử dụng có
hiệu quả nguồn lao động và giải quyết tốt việc làm ở nước ta là:
34
- Gắn vấn đề lao động - việc làm với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như
các chương trình quốc gia khác (đặc thù hay mục tiêu) như tín dụng, phát triển nông
thôn, quy hoạch và phát triển đô thị, việc làm ngoài nước, đối tượng ưu tiên,...
- Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề để người lao động có thêm cơ hội
tìm kiếm thêm việc làm hoặc tự tạp việc làm.
- Xây dựng chương trình quốc gia về việc làm, coi đó là phương tiện quan trọng để
phát triển nguồn nhân lực. Trước mắt Nhà nước chủ trương hướng chương trình này
vào các vùng trọng điểm như đồng bằng sông Hồng (là nơi đông dân, ít đât), đồng
bằng sông Cửu Long, vùng núi trung du phía Bắc, Tây nguyên, Đông Nam bộ, ven
biển (là những nơi còn nhiều tiềm năng của thiên nhiên chưa được khai thác).
2.2.2- Các biện pháp cụ thể
- Lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm, cho vay với điều kiện ưu đãi để tạo việc
làm, chỗ làm mới.
- Đầu tư phát triển các tổ chức dịch vụ về việc làm, trợ giúp dạy nghề, giải quyết
việc làm cho các đối tượng ưu tiên như thương binh, người tàn tật, gia đình có công.
- Hoàn thiện, bổ sung chính sách khuyến khích xúc tiến việc làm về tài chính, thuế,
tín dụng, hộ khẩu.
- Hình thành hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm thuộc ngành Lao động - thương
binh - xã hội, thuộc các đoàn thể quần chúng hoặc một số bộ, ngành, gắn với hoạt động
dạy nghề, hướng nghiệp.
3. Chính sách bảo đảm xã hội:
3.1. Chính sách bảo hiểm xã hội:
3.1.1. Khái niệm:
Mặc dù BHXH đã hoạt động hàng trăm năm nhưng cho đến nay các khái niệm về
BHXH vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Vì vậy để đi đến thống nhất về
BHXH phải đi từ 2 đặc trưng cơ bản sau:
• Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động
• Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật quy định. Nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH.
Từ những đặc trưng cơ bản trên có thể đi đến khái niệm về BHXH:
- Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất đi khả năng thu nhập từ lao
động hoặc mất việc làm thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ do sự
35
đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Hay nói cách khác: Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người
sử dụng lao động phải tham gia.
- Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự
nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập
của mình để hưởng bảo hiểm xã hội.
- Người thất nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
- Thời gian đóng bảo hiểm xã hội là thời gian được tính từ khi người lao động bắt đầu
đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi dừng đóng. Trường hợp người lao động đóng bảo
hiểm xã hội không liên tục thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội là tổng thời gian đã
đóng bảo hiểm xã hội.
- Mức lương tối thiểu chung là mức lương thấp nhất do Chính phủ công bố ở từng
thời kỳ.
- Thân nhân là con, vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ
hoặc mẹ chồng của người tham gia bảo hiểm xã hội; người khác mà người tham gia
bảo hiểm xã hội phải chịu trách nhiệm nuôi dưỡng.
3.1.2. Đặc điểm của BHXH
BHXH là một hình thức bảo hiểm có tầm quan trọng đối với một quốc gia, nó có
một số đặc điểm cơ bản sau:
- Mục đích hoạt động của BHXH không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi của người lao
động, của cả cộng đồng.
- Hoạt động BHXH nhằm huy động sự đóng góp của người lao động và Nhà nước
tạo lập tài chính để phân phối sử dụng nó đảm bảo bù đắp một phần thu nhập nhất định
nào đó cho người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xuất hiện như: tai nạn, ốm
đau, hưu trí… Điều đó có nghĩa là mục đích của quỹ BHXH là lấy một phần thu nhập
trong thời gian lao động bình thường để dành bảo đảm cho cuộc sống trong những
ngày không lao động không có thu nhập.
- Việc phân phối sử dụng quỹ BHXH được chia làm hai phần:
36
+ Phần thực hiện chế độhưu trí mang tính chất bồi hoàn. Mức bồi hoàn phụ thuộc
vào mức đóng góp vào quỹ BHXH.
+ Các chế độ còn lại vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi
hoàn. Nghĩa là khi người lao động trong quá trình lao động không bị ốm đau, tai nạn
thì không được bồi hoàn; khi bị ốm đau, tai nạn thì được bồi hoàn. Mức bồi hoàn phụ
thuộc vào mức độ ốm đau, tai nạn và theo quy định trong điều lệ BHXH hiện hành.
Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế,
xã hội của xã hội loài người nói chung, của từng nước nói riêng. Việc vận dụng và
thực hiện các chế độ BHXH do tổ chức quốc tế về lao động quy đnh hoàn toàn phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước, để vừa ổn định đời sống của người
lao động, vừa ổn định phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
3.1.3. Nguyên tắc thực hiện BHXH.
BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng được thực hiện nhằm bảo
vệ lợi ích của người lao động trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là mối quan hệ lao
động. Chính sách BHXH được thực hiện có thể thay đổi một cách linh hoạt tùy từng
thời điểm song phải tôn trọng một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc 1: Phải nhằm mục đích bảo vệ người lao động đặc biệt là người làm
công ăn lương.
Đối với bất kỳ nền sản xuất nào người lao động cũng là vốn quý bởi vì người lao
động cung cấp sức lao động - một nhân tố quan trọng cần thiết cho việc tạo ra của cải
vật chất. Vì vậy, bảo vệ người lao động đã trở thành một nguyên tắc cơ bản, bao trùm
toàn bộ các hoạt động của BHXH.
- Nguyên tắc 2: BHXH phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Nguyên
tắc này đòi hỏi việc bảo vệ người lao động bằng chính sách BHXH phải được thể chế
hóa trong hệ thống pháp luật của quốc gia.Việc bảo vệ đó không còn chỉ là việc tự phát
tự nguyện của một vài cá nhân hay là một nhóm người lao động là thành viên của xã
hội. Đồng thời người lao động muốn được hưởng chế độ BHXH phải có nghĩa vụ đóng
góp một phần thu nhập vào quỹ BHXH theo các phương thức thích hợp thường xuyên
đều đặn trong những năm tháng còn lao động. Quyền được hưởng phải phù hợp với
mức đóng góp theo quy định của pháp luật
3.1.4. Nội dung hoạt động của BHXH
Đối tượng BHXH
Theo quy định tại điều lệ BHXH ban hành theo quy định số 12/CP ngày
26/01/1995 của chính phủ quy định BHXH ở nước ta bao gồm 2 loại hình BHXH bắt
buộc và BHXh tự nguyện.
37
a) BHXH bắt buộc:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp của Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan tổ chức
nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan
hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng
vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử trong các cơ quan: Đảng chính quyền, các cấp từ cấp
huyện trở lên.
Những đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc nêu trên có đặc điểm chung nổi
bật là: Những người này có công việc, thu nhập và nơi làm việc tương đối ổn định,
những đối tượng này đều có người sử dụng lao động đóng thêm phí BHXH cho họ,
thông thường mức đóng cao hơn so với chính bản thân người lao động đóng. Ngoài ra
những người nói trên khi tham gia BHXH luôn được sự bảo trợ, tài trợ từ phía nhà
nước.
b) BHXH tự nguyện:
- Những người làm nghề tự do: bác sĩ, luật sư, những người buôn bán nhỏ, thợ thủ
công…
- Những người lao động làm ở những nơi sử dụng dưới 10 lao động, những công
việc có thời hạn dưới 3 tháng, công việc theo mùa vụ hoặc công việc có tính chất tạm
thời khác.
Luật BHXH qui định, mọi công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi đối với
nam và từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ đều có thể tham gia BHXH tự nguyện.
Mức tham gia BHXH tự nguyện được quy định hằng tháng bằng 16% mức thu nhập
người lao động lựa chọn. Từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm 1 lần, người lao động sẽ đóng
thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
Người lao động được phép chọn một trong các phương thức đóng hằng tháng, hằng
quý, 6 tháng một lần. Mức thu nhập tháng của người tham gia BHXH tự nguyện lựa
chọn thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu
chung
38
Đặc điểm chung của nhóm đối tượng này là họ có công việc, nơi làm việc và thu
nhập không ổn định, không có người sử dụng lao động cụ thể hoặc ổn định đề được
người sử dụng lao động đóng thêm phí BHXH ngoài phần đóng góp của bản thân họ.
Những đặc điểm này đã làm cho việc áp dụng các chế độ BHXH gặp khó khăn trong
việc đăng ký tính toán mức phí đóng góp để tổ chức nguồn thu, thực hiện chi tự cấp
kịp thời…chính vì vậy mặc dù bộ luật lao động nước ta có 2 loại hình BHXH nhưng
mới chỉ có điều lệ về loại hình BHXH bắt buộc, còn BHXH tự nguyện hiện nay chỉ
mới mang tính chất áp dụng thử nghiệm.
c) BHXH thất nghiệp
Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo
hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời
hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động
Một quy định khác hoàn toàn mới của Luật BHXH là việc hình thành Quỹ Bảo
hiểm thất nghiệp từ năm 2009. Khi đó, người thất nghiệp đã đóng bảo hiểm thất nghiệp
đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp sẽ được hưởng bảo
hiểm thất nghiệp.
Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương của người
lao động trước khi thất nghiệp. Ngoài ra, người hưởng bảo hiểm thất nghiệp còn được
hỗ trợ học nghề, giới thiệu việc làm miễn phí. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp là 1%
tiền lương, tiền công hàng tháng.
Các chế độ BHXH
Các chế độ BHXH có thể coi như việc cụ thề hóa việc thực hiện mục đích của
BHXH mà bộ luật lao động đã nêu rõ: nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm
bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong các
trường hợp người lao động gặp các rủi ro bất ngờ. Do đó, số lượng các chế dộ bảo
hiểm xã hội thể hiện mức độ đảm bảo của xã hội với đời sống người lao động.
Năm 1952, tổ chức lao động quốc tế ICO ra công ước đầu tiên về BHXH gồm 9
chế độ:
- Chăm sóc y tế
- Phụ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động
- Trợ cấp gia đình
39
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp mất người nuôi dưỡng
Hiện nay ở nước ta có 5 chế độ BHXH áp dụng cho các đối tượng bắt buộc sau:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp thai sản
- Chế độ hưu trí
- Tiền mai táng và chế độ tuất.
BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây
- Chế độ hưu trí
- Trợ cấp tử tuất
BHXH thất nghiếp bao gồm các chế độ sau đây
- Trợ cấp thất nghiệp
- Hỗ trợ học nghề
- Hỗ trợ tìm việc làm
Để được hưởng chế độ trợ cấp về BHXH, người lao động phải hội đủ các điều kiện
cần thiết như sau:
- Phải là người tham gia BHXH, có đóng phí BHXH
- Quyền hưởng trợ cấp BHXH gắn liền với một biến cố rủi ro ngẫu nhiên nào đó
- Người lao động tham gia BHXH phải không trong tình trạng phạm pháp luật
- Ngoài ra, còn có những điều kiện riêng đối với từng đối tượng hưởng trợ cấp của
riêng từng loại chế độ BHXH khác nhau
Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
- Tùy thuộc vào rủi ro biến cố mà người lao động phải gánh chịu
- Trong từng chế độ cụ thể, mức trợ cấp còn tùy thuộc vào mức độ rủi ro xảy ra cụ
thể, tùy thuộc vào số năm đống BHXH và mức đóng BHXH
Vai trò của BHXH
Trong nền kinh tế thị trường, BHXH có vai trò rất to lớn. Vai trò đó được thể hiện
trên các mặt sau:
40
BHXH mang lại sự đảm bảo và ổn đinh cuộc sống cho người dân đặc biệt là người
làm công ăn lương.
Khi có sự cố bảo hiểm, những ngưởi tham gia bảo hiểm nhất định sẽ nhận được
một số tiền bảo hiểm để giảm bớt khó khăn về mặt tài chính, tạo điều kiện duy trì mức
sống đã đạt được. Như vậy, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm nghĩa là tạo sự an tâm
cho những người lao động trong quá trình lao động. Hỗ trợ và thực hiện các biện pháp
an toàn lao động, tạo điều kiện để cải thiện, nâng cao sức khỏe cho người lao động
Đây là vai trò tích cực của BHXH đối với người lao động vì nó vừa có thể nâng cao
đời sống cho người lao động lại vừa giảm bớt được các khoản chi trợ cấp về tai nạn,
bệnh nghề nghiệp,… vừa đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình
thường
Sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi để tham gia vào thị trường tài chính nhằm mục
đích bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. Trong điều kiện kinh tế thị trường, qũy BHXH
cũng là một nguồn tài chính quan trọng của thị trường tài chính để đầu tư phát triển
kinh tế xã hội. Quỹ BHXH, đặc biệt phần chi cho chế độ hưu trí có thời gian nhàn rỗi
tương đối dài, hang chục năm. Vì vậy. có thể sử dụng nguồn vốn này để tham gia vào
thị trường tài chính với mục đích bảo toàn và phát triển quỹ BHXH.
3.1.2. Thực trạng triển khai các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay:
* Tình hình thực hiện pháp luật về BHXH của cơ quan BHXH, người sử dụng
lao động và người lao động:
Trong hơn một năm qua, với những quyền hạn, trách nhiệm được qui định trong
Luật BHXH và những chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao, để triển khai thực hiện
thu BHXH có hiệu quả, BHXH các cấp đã tăng cường, mở rộng tuyên truyền, vận
động, phổ biến và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về các chế độ, chính sách, pháp luật,
hướng dẫn thủ tục thực hiện BHXH không chỉ đối với người lao động, người sử dụng
lao động mà còn đến cả mọi người dân các tổ dân phố, khu dân cư với nhiều hìnhthức
như báo, đài phát thanh, truyền hình, áp phích, quảng cáo, tờ rơi ....
Cán bộ BHXH được trau dồi phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
ý thức, trách nhiệm, tinh thần vì người tham gia và thụ hưởng mà phục vụ. Cán bộ
BHXH cũng đã dành phần lớn thời gian đến từng đơn vị sử dụng lao động được phân
công phụ trách để tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn và cùng cơ sở xử lý kịp thời
những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện chính sách cho người lao động. Cơ
quan BHXH đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý
và giải quyết chế độ chính sách cho người lao động thông qua việc áp dụng công nghệ
thông tin và cơ chế "một cửa liên thông" đem lại hiệu quả tích cực; hồ sơ, thủ tục giấy
tờ liên quan đến việc tham gia và hưởng chế độ đã từng bước được đơn giản hoá; các
41
qui định, qui trình nghiệp vụ ngày càng phù hợp với thực tiễn, dễ hiểu, dễ thực hiện
hơn; các thủ tục người sử dụng lao động và người lao động phải làm ngày càng giảm;
thời gian giải quyết được rút ngắn hơn; khiếu nại, kêu ca về những sai sót, phiền hà,
chậm giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động đã giảm bớt đáng kể... Với
những nỗ lực trong việc triển khai thực hiện công tác thu BHXH theo Luật BHXH, số
người tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng và ngày một tăng: năm 2007 tăng
18,5% so với năm 2006; 6 tháng đầu năm 2008 tăng thêm được khoảng 7%. Trên 3
triệu lượt đối tượng đang hưởng các chế độ, chính sách BHXH được giải quyết hưởng
trợ cấp kịp thời, đúng qui định của pháp luật; góp phần đảm bảo ổn định đời sống
người lao động, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Việc chấp hành các qui định
của pháp luật về BHXH của người sử dụng lao động và người lao động trong thời gian
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đa số các đơn vị sử dụng lao động đã chấp hành
nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật về việc ký kết hợp đồng lao động, đăng ký sử
dụng thang bảng lương, kê khai, lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH cho người lao
động. Năm 2007, thời điểm bắt đầu thực hiện Luật BHXH, số đơn vị sử dụng lao động
đăng ký tham gia đã tăng thêm gần 20 ngàn so với năm 2006, nhiều đơn vị ngay sau
khi thành lập và bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động đã đăng
ký tham gia và đóng BHXH, BHYT cho người lao động. Đặc biệt, nhiều hộ sản xuất
kinh doanh cá thể, tổ hợp tác có sử dụng lao động đã đăng ký tham gia và đóng BHXH
theo qui định cho người lao động…
* Một số kết quả bước đầu
Luật BHXH được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm
2006. Đấy là đạo luật có hiệu lực thi hành khá đặc biệt với 3 thời điểm hiệu lực khác
nhau: từ 01 -01 -2007 cho các quy định của luật nói chung: từ 01-01-2008 cho chế độ
bảo hiểm tự nguyện và từ 01-01- 2009 cho chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Chỉ một năm sau khi đạo luật có hiệu lực, số đối tượng theo quy định tạo khoản 1
điều 2 của Luật BHXH tăng từ 6.759.723 người năm 2006 lên 8.148.123 người năm
2007 ( tăng 20,7%). Trong đó lao động ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp tăng 4%:
doanh nghiệp dân doanh tăng 25,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
17,3%; doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 2%. Như vậy số lao động tham gia BHXH
tăng thêm trong năm 2007 chủ yếu thuộc khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài và lực lượng vũ trang. Sáu tháng đầu nắm 2008, số người thuộc diện
bắt buộc tham gia BHXH ước tính tăng thêm 1,21 triệu người. Tính chung lại, số
người có quan hệ lao động (có hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên) tham gia
BHXH đến giữa năm nay đã lên 9,35 triệu người; trong đó, số mới tăng thêm từ khi
Luật có hiệu lực thi hành là hơn 2,6 triệu người. Đây là mức tăng khá nhanh, thể hiện
nội dung các chế độ bảo hiểm mới có sự hấp dẫn hơn. Các chế độ BHXH được quy
42
định tại điều 4 của Luật bao gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, hưu trí, tử tuất và dưỡng sức. Khi đối tượng tham gia BHXH tăng lên, Quỹ
BHXH trên đà phát triển thì đối tượng được chi trả BHXH cũng sẽ được mở rộng.
Trong năm 2007, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã chi trả các chế độ BHXH
nói trên với số kinh phí lên tới 33.951 tỉ đồng, trong đó chi cho chế độ hưu trí là
27.702 tỷ đồng chiếm 81,5% tổng chi. Trong năm có thêm 120.315 người hưởng chế
độ hang tháng, 208.710 người hưởng chế độ một lần, hơn 2 triêuh người hưởng trợ cấp
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 750000 lượt người hưởng trợ
cấp dưỡng sức và 35.000 người qua dời được mai táng phí. Sáu tháng đầu năm 2008,
số người hưởng các chế độ tăng nhanh. Có 51.604 người được hưởng BHXH hang
tháng tăng 2% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó hưởng chế độ hưu trí là 41.061
người, 173.849 người hưởng trợ cấp một lần, tăng 145% so với cùng kỳ năm 2007 (số
này tăng cao là do số người nghỉ việc chờ giải quyết chế độ trong năm 2007 sang năm
2008 mới đủ thời gian); 1,3 triệu người được hưởng trợ cấp ốm đau; gần 200.000 lượt
người được trợ cấp thai sản và 150.000 người được hưởng trợ cấp dưỡng sức…
Nhìn chung, Luật BHXH đã quy định cụ thể về điều kiện hưởng và mức hưởng của
người lao động trên cơ sở thời gian đóng BHXH, tuổi đời, mức suy giảm khả năng lao
động, tính chất công việc và điều kiện làm việc của người lao động. Các chế độ bảo
hiểm đã được cải tiến, hoàn thiện và được quy định rõ ràng, phù hợp với tình hình thực
tiễn hơn trước đây. BHXH các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương đã xử lý khá kịp
thời các chế độ chính sách theo các quy định của luật.
* Những tồn tại, vướng mắc:
- Đối với BHXH bắt buộc: Bên cạnh những chuyển biến tích cực, việc thực hiện
Luật BHXH trong thời gian qua vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc. Tình trạng đối
tượng tham gia BHXH là người sử dụng lao động và người lao động không đóng, đóng
không đúng thời gian, không đúng mức qui định, đóng không đủ số người thuộc diện
tham gia BHXH bắt buộc còn xảy ra ở nhiều nơi, hầu như địa phương nào cũng có.
Luật BHXH qui định: “trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng, người sử dụng lao động nộp hồ sơ tham gia
BHXH cho tổ chức BHXH”. Nhưng thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh có một số
doanh nghiệp đi vào hoạt động, có sử dụng lao động từ những năm 2004, 2006, thậm
chí, có doanh nghiệp bắt đầu hoạt động từ năm 1999 (như Công ty TNHH thuỷ, hải sản
Phước Hoà) đến nay vẫn chưa tham gia BHXH cho người lao động; hoặc có trường
hợp khi thanh tra việc thi hành pháp luật lao động tại một doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở Hà Nội, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã phát hiện
doanh nghiệp “bỏ quên” không tham gia BHXH cho 131 lao động. Tình trạng đóng
BHXH không đúng thời gian qui định (chậm đóng, nợ đọng, nợ dây dưa kéo dài) còn
43
diễn ra ở nhiều địa phương, thậm chí có doanh nghiệp nợ tiền BHXH lên đến hàng tỷ
đồng trong thời gian vài ba năm. Cơ quan quản lý Nhà nước đã tiến hành thanh tra, xử
phạt nhưng cũng chưa giải quyết được dứt điểm, khởi kiện doanh nghiệp ra tòa thì
chậm được xử lý (Ví dụ: BHXH Thành phố Hồ Chí Minh có đơn khởi kiện Công ty
TNHH Lucky Việt Nam nợ 887,6 triệu đồng BHXH, Công ty Giày Anjin nợ gần 5,53
triệu đồng BHXH trên 4 tháng nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý).
Việc thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính đối với các đơn vị không tuân thủ pháp
luật về BHXH đã được thực hiện ở nhiều tỉnh, thành phố nhưng vẫn còn nhiều trường
hợp sau khi nộp phạt doanh nghiệp vi phạm vẫn không chấp hành nghiêm túc qui định
về thu nộp BHXH, việc xử lý tiếp theo chưa được giải quyết dứt điểm, thậm chí có
doanh nghiệp không nộp phạt.
Một trong những tồn tại lớn nhất trong việc thực hiện những qui định về BHXH
hiện nay là công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH cũng như các ban, ngành
chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng lao động
của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
ngoài công lập. Có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đăng ký thành lập nhưng
không có trụ sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng ký, giải thể sau khi
thành lập và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động... Cũng
không cơ quan nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những doanh nghiệp đã
đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng không có trụ sở làm việc thực chất có hoạt
động hay không, còn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi phạm vi hoạt động. Ngoài
ra, khu vực ngoài công lập còn có nhiều nhà trẻ mầm non tư thục, các quán bar, vũ
trường, cơ sở thể dục thể hình, thể dục thẩm mỹ... không ký kết hợp đồng với người
lao động. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện
chính sách BHXH cho người lao động theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn
đề không dễ đảm bảo.
Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác thu BHXH bắt
buộc là cơ chế, chính sách, chế độ đã ban hành chưa đồng bộ, chậm được triển khai,
hướng dẫn. Nhận thức về BHXH của người lao động thuộc khu vực kinh tế ngoài Nhà
nước còn hạn chế, nhiều chủ sử dụng lao động và người lao động chưa có nhận thức
đúng về BHXH. Trong khâu tổ chức thực hiện Luật, mặc dù hệ thống bảo hiểm xã hội
từ trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp đã nỗ lực tuyên truyền, vận động
thực hiện luật nhưng cho đến nay cũng mới chỉ có 70% số người có quan hệ lao động
tham gia bảo hiểm xã hội. Trong số 30% lao động chưa tham gia, chủ yếu là doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và hợp tác xã.
Nguyên nhân của sự việc này thuộc về cả hai phía (người lao động và người sử
dụng lao động). Nhiều người lao động chỉ lo cuộc sống trước mắt mà chưa tính đến
44