Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

bệnh của chế hòa khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.23 KB, 2 trang )

bệnh của chế hòa khí

Bộ chế hoà khí với chức năng hòa trộn xăng và không khí tạo nên hỗn hợp khí đưa vào
bên trong buồng đốt, đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống cung cấp nhiên liệu, chế
độ làm việc của động cơ theo các tỷ lệ hỗn hợp khí được hòa trộn phù hợp với chế độ làm
việc: chế độ khởi động động cơ, chế độ tăng tốc, chế độ toàn tải…
Nếu phần cung cấp nhiên liệu đảm bảo tốt, thì các chế độ này thể hiện qua các trạng thái làm
việc của động cơ: sự chuyển chế độ không gây mất ổn định khả năng làm việc của động cơ,
động cơ hoạt động tốt ở mọi trạng thái làm việc của độ mở bướm ga, khả năng thay đổi linh hoạt
của số vòng quay và tải trọng. Dựa vào các biểu hiện cụ thể đó, có thể tiến hành chẩn đoán chất
lượng làm việc của bộ chế hòa khí.
- Chẩn đoán thông qua chế độ khởi động động cơ:

Động cơ chỉ nổ được khi đóng bớt bướm gió: thường do hở nhỏ đường ống nạp không khí sau
chế hòa khí, hoặc do thiếu nhiên liệu (mức xăng trong buồng phao quá thấp, tắc hay bẩn đường
xăng chạy chậm, vít điều chỉnh hỗn hợp chạy chậm quá hẹp, bướm ga bị kẹt mở).
Chỉ nổ được máy khi để ở mức bàn đạp nhiên liệu cao: do thừa nhiên liệu (mức xăng trong
buồng phao quá cao, tắc hay bẩn đường không khí chạy chậm, vít điều chỉnh số vòng quay chạy
chậm không có tác dụng).
Phải dập mồi nhiên liệu động cơ mới nổ: thiếu ít nhiên liệu.
- Chẩn đoán qua chế độ chạy không tải :

Ở chế độ không tải, số vòng quay động cơ nằm trong giới hạn (700-1200) vòng/phút, động cơ
làm việc ổn định không bị rung lớn, khí xả có màu xanh nhạt hay không màu, không có mùi xăng
sống, máy có thể hoạt động trong thời gian dài mà không bị đột ngột ngừng lại.
Động cơ khởi động được nhưng không chạy không tải được, muốn động cơ làm việc ổn định
phải nâng cao vòng quay thường : do mức xăng cao, tắc giclơ không khí chạy chậm, vít chỉnh
hỗn hợp chạy chậm điều chỉnh sai. Ngoài ra cũng cần lưu ý đến chất lượng hệ thống đánh lửa và
bố trí trục cam, chất lượng xupap…
Nếu động cơ rung, kèm theo tiếng nổ sau ống xả: chế độ nhiên liệu quá đậm và có máy không
cháy hết nhiên liệu.


- Chẩn đoán qua chế độ tăng tải:
Từ từ tăng ga, tốc độ động cơ tăng đều đặn, độ rung của động cơ giảm hẳn, màu khí xả thay đổi
không đáng kể.
Nếu có tiếng nổ ở ống xả, động cơ rung mạnh, có thể là do hệ thống nhiên liệu quá đậm, hở
xupap xả. nếu tốc độ động cơ không đáp ứng tăng đều đặn chứng tỏ bộ phận làm đậm kém,
giclơ xăng bẩn, thiếu nhiên liệu buồng phao.
- Chẩn đoán qua chế độ toàn tải:


Nâng cao số vòng quay lên tối đa, không có tiếng nổ đặc biệt phát ra từ ống xả, duy trì ở chế độ
này trong một thời gian ngắn.
Nếu động cơ không đảm bảo số vòng quay lớn nhất, có khói màu trắng chứng tỏ thiếu nhiên liệu.
Nếu có khói màu đen và có mùi xăng sống chứng tỏ thừa nhiên liệu.
- Chẩn đoán qua chế độ tăng tốc đột ngột:
Tăng đột ngột chân ga (vù ga), số vòng quay lập tức thay đổi theo, nhìn màu khí xả: khi nâng cao
đột ngột màu khí xả thay đổi chút ít sang màu xanh đậm sau đó lại bình thường.
Nếu số vòng quay thay đổi chậm hoặc không thay đổi chứng tỏ bơm tăng tốc chế hòa khí hư
hỏng, hoặc thiếu nhiên liệu trong buồng phao.
- Chẩn đoán qua chế độ giảm tốc đột ngột:
Thả bàn đạp nhiên liệu đột ngột: động cơ đang ở số vòng quay cao phải nhanh chóng chuyển về
chế độ chạy chậm.
Nếu có tiếng nổ sau ống xả chứng tỏ thừa nhiên liệu, nếu động cơ bị tắt máy chứng tỏ chế độ
chạy chậm chưa điều chỉnh đúng.
Bộ chế hòa khí là một bộ phận rất phức tạp, các hư hỏng thường gắn liền với cấu tạo của chúng.
Vì vậy, khi động cơ của bạn gặp trục trặc với bộ chế hòa khí thì bạn nên tham khảo và nhờ các
kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm xử lý.
H-S
thegioioto.com




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×