Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tài liệu ôn thi môn phân tích tài chính doanh nghiệp chương đánh giá chất lượng báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.93 KB, 71 trang )

1

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nội dung kiến thức:
Sau khi hoàn thành chương này, bạn có thể :
- Đối chiếu với nguyên tắc cơ sở dồn tích và nguyên tắc cơ sở tiền mặt
và giải thích tại sao nguyên tắc thận trọng tồn tại trong một hệ thống nguyên
tắc cơ sở dồn tích.
- Miêu tả mối quan hệ giữa các mức độ của cơ sở dồn tích và sự tiếp tục
tồn tại của lợi nhuận,và các Giải thích tỷ suất lợi nhuận bình quân và mối quan
hệ phức tạp khi lợi nhuận bằng tiền và lợi nhuận cấu thành trên cơ sở dồn tích
nên ghi nhận vừa phải trong sự đánh giá.
- Liệt kê và giải thích những cơ hội và những động lực thúc đẩy tới sự
quản lý để giám sát bên ngoài quá trình lập báo cáo tài chính,và cơ chế giám
sát sự lạm dụng.
- Thảo luận chất lượng lợi nhuận,giải thích những thước đo cơ bản của
chất lượng lợi nhuận,so sánh và đối chiếu với chất lượng lợi nhuận của các
công ty tương đương.
- Giải thích tỷ suất lợi nhuận bình quân và mối tương quan giữa tỷ suất
lợi nhuận bình quân với lợi nhuận cộng dồn.
- Nhận biết và giải thích các vấn đề trong báo cáo tài chính liên quan
đến ghi nhận doanh thu,ghi nhận chi phí,báo cáo về tài sản và nợ phải trả,báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Giải thích và làm sáng tỏ các dấu hiệu cảnh báo về những vấn đề tiềm
tàng trong các phần chủ yếu của báo cáo tài chính (ví dụ như doanh thu,chi
phí,tài sản,nợ phải trả và dòng tiền) và các dấu hiệu cảnh báo về toàn bộ những
gì làm sai lệch báo cáo tài chính.
1. Giới thiệu
Việc phân tích báo cáo tài chính bao gồm việc đưa ra một cách tiếp cận
có hệ thống để sử dụng thông tin chứa trong báo cáo tài chính để giúp đỡ trong
việc ra quyết định. Xu hướng của người ra quyết định sử dụng báo cáo tài


chính là phải thích hợp. Tuy nhiên,một lúc nào đó họ có chung một mức lãi


2

suất cho dòng tiền có khả năng phát sinh trong tương lai của một công ty. Vốn
của các nhà đầu tư và các nhà phân tích,tín dụng của các nhà đầu tư và các nhà
phân tích, phân loại các chi nhánh,các khách hàng,các nhân viên,chính sách
thuế và các chủ thể khác, tất cả đều cần được đánh giá vào các dòng tiền trong
tương lai của một công ty. Mặc dù có nhiều nguồn thông tin có liên quan đến
việc dự đoán,một trong những nguồn chính mà chung tôi muốn tập trung trong
chương này là những báo cáo tài chính của công ty (bao gồm cả thông tin bổ
sung đến báo cáo tài chính).
Chất lượng báo cáo tài chính liên quan tới sự chính xác với việc ghi
chép tài chính của một công ty phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty và để
giúp ích cho họ trong việc dự đoán các dòng tiền trong tương lai. Trọng tâm
của chúng tôi trong việc giới thiệu chủ đề này là vào báo cáo kết quả kinh
doanh và sự thận trọng (áp dụng của việc chọn lựa) được gắn với việc ghi nhận
doanh thu và chi phí hợp lý-điều này ảnh hưởng tới lợi nhuận thuần được tính
bằng doanh thu thuần trừ đi tổng chi phí. Những cách đo lường đơn giản đem
lại sự thận trọng hoàn toàn được phản trong việc ghi nhận lợi nhuận thuần, nó
cũng là cách rất hiệu quả để đo lường chất lượng báo cáo tài chính.Việc các
công ty áp dụng nhiều hay ít sự thận trọng có thể luôn luôn bị phân loại như
chất lượng báo cáo tài chính mạnh hay yếu. Sự phân loại này đặc biệt hữu ích
trong việc nhận diện các công ty có dòng tiền phát sinh trong tương lai mạnh
hay yếu.
Vấn đề thảo luận trong chương này là đưa ra tài liệu được giới thiệu
trong chương về các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính. Chúng ta bắt đầu với
một số nguyên tắc cơ bản để nêu bật phạm vi đánh giá sự thận trọng, điều đó
được ghi vào báo cáo tài chính. Sự thận trọng này là một phần cần thiết của báo

cáo tài chính, nhưng nó lại mang lại hậu quả không định hướng trước được. Sự
thận trọng đòi hỏi người chuẩn bị báo cáo tài chính phải thực hiện đánh giá ước
lượng nhiều hơn, điều đó có thể làm giảm chất lương bởi các lỗi trung lập như
chiến lược lôi kéo. Chúng ta sẽ đi qua nhiều ví dụ về sự thận trọng trong hệ
thống báo cáo tài chính, chứng minh bản thân nó trong hình thức của xu hướng
hệ thống hóa, cái mà các nhà phân tích sẽ phải liều lĩnh để lờ đi, thói quen làm


3

tăng vai trò của các con số kế toán ngược với giá trị tài sản. Vấn đề thảo luận
của chúng ta sẽ rõ ràng và tổng quát thông qua việc phối hợp với một nhà phân
tích vốn hay phân tích nợ. Tuy nhiên, nhiều tài liệu bí mật mà liên quan đến
nhà phân tích tài chính doanh nghiệp về việc đánh giá sự hợp nhất, tái cấu trúc,
và đầu tư khác, và cho việc tính toán giá trị được sinh ra bởi các sự kiện chiến
lược.
Phần còn lại của chương này được tổ chức như sau: Phần 2 giới thiệu sự
thận trọng trong hệ thống kế toán, so sánh với kế toán cơ sở dồn tích và kế toán
cơ sở tiền mặt. Việc hiểu rõ vấn đề cơ bản này còn khá phức tạp, sự khác nhau
quyết định đến tất cả kiến thức trong chương này,bởi nó chỉ rõ mục tiêu của sự
thận trọng, điều đó tập trung rong báo cáo tài chính. Phần 3 trình bày trường
hợp tổng quát về chất lượng báo cáo tài chính và giới thiệu phương pháp đơn
giản đo lường chất lượng báo cáo tài chính. Phần 4 cung cấp một kết cấu về
tính toán, phân tích và giải thích các chỉ tiêu khác nhau và phương pháp đo
lường chất lượng lợi nhuận và báo cáo tài chính. Phần 5 thảo luận ngắn gọn xu
hướng chất lượng báo cáo tài chính tiến tới gần hơn giá trị hợp lý. Phần 6 tổng
kết những điểm quan trọng trong chương này, và thực hành những vấn đề trong
CFA về cấu trúc kết luận chương.
2. Thận trọng trong phương pháp kế toán
Để hiểu được các vấn đề trong việc đánh giá chất lượng của báo cáo tài

chính, các nhà phân tích nên làm quen với nội dung mà quyết định quản trị
trong kế toán được thực hiện và những nguyên tắc và mục tiêu của kế toán phát
sinh. Các phần sau đây cung cấp cơ sở đó:
2.1. Cơ sở nhận diện tiền mặt từ kế toán cơ sở cộng dồn
Tập trung vào các báo cáo tài chính bên ngoài bao gồm ba báo cáo tài
chính cơ bản: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả HĐKD và báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Bảng cân đối là một bản chụp nhanh của các tài khoản tài sản,
nợ phải trả và vốn chủ sở hữu khác nhau. Nó phản ánh tình hình tài chính của
đơn vị tại một thời điểm. Doanh thu trừ chi phí trên BCKQHĐKD, và báo cáo
lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp (bắt đầu với thu nhập ròng), chỉ


4

rõ sự thay đổi như thế nào bằng tiền mặt trên bảng cân đối có thể cân bằng với
thu nhập trên báo cáo.
Để giúp đưa các báo cáo và làm rõ tầm quan trọng của kế toán dồn tích,
xem xét một cửa hàng sửa chữa xe đạp Cadence Cycling. Vào đầu năm nay chủ
sở hữu đóng góp $ 100 tiền mặt vào kinh doanh. Bảng cân đối kế mở sẽ trông
như sau:
Bảng cân đối kế toán Candence Cycling ( Kế toán theo cơ sở tiền )
tính đến ngày 01/01/2007
Tài sản
Tiền mặt

Nợ phải trả 0
100

Vốn chủ sở hữu
Cổ phiếu phổ thông 100


Trong năm 2007, Cadence Cycling thu hút được hai khách hàng mua xe
đạp của họ đến các cửa hàng dịch vụ. Khách hàng đầu tiên trả $20 cho các
dịch vụ và sửa chữa xe đạp. Khách hàng thứ hai không phải trả tiền cho dịch vụ
; giá ước tính cho dịch vụ là $ 25. Đến cuối năm 2007, Cadence đã hoàn thành
công việc cho khách hàng thứ hai nhưng vẫn chưa bắt đầu công việc cho khách
hàng đầu tiên (chúng ta đang bỏ qua những phần liên quan đến hàng tồn kho để
ví dụ đơn giản hơn). Theo kế toán cơ sở tiền mặt thuần, chỉ các nghiệp vụ liên
quan đến báo cáo tài chính thì mới liên quan đến tiền mặt. Như vậy, bảng cân
đối cần thiết cho ví dụ này chỉ bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương
tiền, và báo cáo KQHĐKD (và báo cáo lưu chuyển tiền tệ) chỉ đơn giản là sự
thay đổi bằng tiền mặt và tương đương tiền không phải do các nhà cung cấp
vốn bên ngoài. Báo cáo KQHĐKD và bảng cân đối kế toán theo cơ sở tiền mặt
sẽ như sau:
Báo cáo KQHĐKD của Cadence Cycling (kế toán cơ sở tiền mặt)
cho kết thúc năm 31/12/2007


5

Doanh thu
Tiền mặt đã thu từ Khách hàng #1

20

Chi phí
0
Lợi

nhuận


ròng

20

Bảng cân đối kế toán Cadence Cycling ( kế toán cơ sở tiền mặt)
tính đến 31/12/2007
Khoản phải trả
Tài sản
Tiền mặt

0

Vốn chủ sở hữu
120

Cổ phiếu thường

100

Lợi nhuận giữ lại

20

Lưu ý: Chúng tôi bỏ qua các chi phí liên quan đến hàng tồn kho tập
trung thảo luận về doanh thu.
Rõ ràng, chúng ta không thấy báo cáo tài chính như vậy trong thực tế
cho các công ty niêm yết công khai (mặc dù chúng ta sẽ thấy những báo cáo tài
chính như thế nàycó thể được viết lại để tính toán trên cơ sở tiền mặt thuần của
thu nhập, nó có thể được sử dụng để làm tiêu chuẩn đánh giá lợi nhuận tích

luỹ). Thay vào đó, chúng ta thấy một hệ thống kế toán dồn tích. Ngược lại với
kế toán cơ sở tiền mặt, theo kế toán cơ sở dồn tích, đó không phải là dòng tiền
xác định khi doanh thu và chi phí được ghi trong báo cáo tài chính; đúng hơn,
đó là một quá trình tạo nên việc ghi nhận doanh thu và chi phí. Doanh thu làm
tăng giá trị tài sản ròng và nó là kết quả của các hoạt động tạo thu nhập chính
của công ty. Chi phí làm giảm giá trị tài sản ròng liên quan đến việc tạo doanh
thu. Do đó, doanh thu sổ sách kế toán dồn tích không được ghi nhận khi đã thu
tiền, mà được ghi nhận khi một sản phẩm dịch vụ đã được cung cấp cho khách


6

hàng. Báo cáo KQHĐKD và bảng cân đối theo cơ sở dồn tích cho Cadence
Cycling:
Báo cáo KQHĐKD của Cadence Cycling (kế toán cơ sở dồn tích)
cho kết thúc năm 31/12/2007
Doanh thu
Dịch vụ xe đạp cho khách hàng #2
Chi phí

25
0

Lợi nhuận ròng

25

Bảng cân đối kế toán của Cadence Cycling ( kế toán cơ sở dồn tích)
tính đến 31/12/2007
Nợ phải trả

Tài sản

Doanh thu chưa thực hiện

Tiền mặt

120

Khoản phải thu

25

20

Vốn chủ sở hữu
Cổ phiếu thường

100

Lợi nhuận giữ lại

25

Có sự khác biệt đáng chú ý trong phương pháp tính toán tổng hợp qua 2
bộ báo cáo tài chính. Theo cơ sở tiền mặt, trên báo cáo của Cadence Cycling,
lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROA) là $20 / [($100 + $120) / 2] =
18,2%, trong khi đó theo cơ sở dồn tích ROA là $25 / [($100 + $145) / 2] =
20,4% . Có lý do hợp lý để tập trung vào phương pháp tính toán dựa trên cơ sở
dồn tích, vì nó đưa ra một dấu hiệu tốt hơn cho các hoạt động tạo ra giá trị
“đúng” trong năm. Sự khác biệt giữa ROA trên kế toán cơ sở tiền mặt và kế

toán cơ sở dồn tích thậm chí còn lớn hơn nếu chúng ta xem xét các hoạt động
đầu tư tài sản dài hạn (tài sản có thời gian sử dụng hữu ích dài). Theo kế toán
cơ sở tiền mặt, nếu các khoản đầu tư dài hạn, chẳng hạn như mua bất động sản,
nhà máy và thiết bị (PP & E), được thanh toán bằng tiền mặt, dòng tiền ra sẽ
làm giảm thu nhập trong năm đầu tư, trong khi theo kế toán cơ sở dồn tích, số
tiền ban đầu được vốn hóa như một tài sản và sau đó định kỳ khấu hao theo


7

thời gian hữu dụng của tài sản. Trong năm đầu tư, một sự đo lường ROA theo
cơ sở tiền mặt sẽ thấp hơn đáng kể so với theo cơ sở dồn tích. Ngược lại, trong
thời gian sau đó, nếu công ty thực hiện ít đầu tư hơn trong PP & E, thì sau đó
ROA sẽ cao hơn theo cơ sở tiền mặt trong tương lai, trong khi, chi phí khấu
hao sẽ tiếp tục tăng lên qua báo cáo KQHĐKD theo kế toán cơ sở dồn tích. Ví
dụ này đương nhiên dẫn đến câu hỏi: Giá trị tương đối của cơ sở tiền mặt và lợi
nhuận dồn tích là gì?
Một trong những mục tiêu chính của báo cáo tài chính bên ngoài là để
cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư. Kế toán dồn tích đã xuất hiện như là
phương pháp được chấp nhận để đạt được mục tiêu này. Kế toán dồn tích tập
trung vào việc xác định, đo lường tài sản và nợ phải trả, với những thay đổi dồn
tích trong tài sản và nợ phải trả không dùng tiền mặt. Các nhà phân tích tài
chính nên phân tích việc quyết định sử dụng của công ty trong điều kiện triển
khai phương pháp trích trước hoặc ngăn cản việc ra quyết định đầu tư. Sự hữu
ích tiềm năng của hệ thống dồn tích có thể được nhìn thấy bằng phương pháp
dồn tích và việc trì hoãn liên quan đến ghi nhận doanh thu. Đối với một công ty
bán rất nhiều hàng hóa và dịch vụ trên các điều khoản tín dụng, đợi cho đến khi
nhận được tiền sẽ không tạo ra đúng dòng tiền trong tương lai tạo ra khả năng
của doanh nghiệp đó. Thay vào đó, công ty tích lũy doanh thu khi sản phẩm
được phân phối hoặc dịch vụ được cung cấp. Đây là thuộc tính hấp dẫn của hệ

thống kế toán dồn tích: nó cung cấp thông tin liên quan và kịp thời hơn cho
mục đích ra quyết định. Ví dụ, nếu Cadence Cycling bán một chiếc xe đạp
trong năm 2007 cho khách hàng bằng tín dụng, sau đó theo kế toán cơ sở tiền
mặt thì việc bán này mà sẽ không xuất hiện trong việc tính toán thu nhập cho
năm 2007. Thay vào đó, nó sẽ được ghi nhận là doanh thu khi thu tiền ở thời
gian trong tương lai. Theo cơ sở dồn tích, việc bán này sẽ được ghi nhận là
doanh thu trong năm 2007, với một điều chỉnh cho các tài khoản phải thu khó
đòi (tức là, toàn bộ số tiền bán nợ sẽ được giảm dựa trên sự kỳ vọng của số tiền
mà không có khả năng là thu về). Kế toán cơ sở dồn tích theo đó tạo ra một con
số lợi nhuận sau thuế chuẩn xác hơn trong hoạt động tạo lợi nhuận tới người sử
dụng báo cáo tài chính.


8

Điều quan trọng cần lưu ý là những phương pháp dồn tích giống nhau
mang theo những quyết định trong việc ước tính doanh thu được phân bổ giữa
các kỳ tài chính. Một số câu hỏi phải được trả lời trước khi một lượng doanh
thu có thể được giao nhận tại một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ, đã là hàng
thực sự phân phối chưa? Liệu khách hàng đã tin tưởng để trả tiền cho hàng hóa
chưa? Khách hàng có khả năng, hoặc có uy tín tín dụng để thanh toán khi nó
đến hạn hay chưa? Câu trả lời cho những câu hỏi thường là chủ quan và tạo
điều kiện cho chiến lược sử dụng kế toán dồn tích. Bằng cách "sử dụng chiến
lược", nghĩa là số liệu kế toán như là thu nhập ròng rất quan trọng trong một
loạt các điều khoản hợp đồng như là chấp hành bồi thường. Các khuyến khích
kinh tế được tạo ra bởi các hợp đồng như vậy tạo ra một cơ hội cho việc quản
lý "chiến lược" hay "cơ hội" khi đưa ra quyết định ,chẳng hạn như khi một sản
phẩm đã được cung cấp, hoặc làm thế nào để xét mọi mặt cho các tài khoản
phải thu khó đòi. Chúng tôi mô tả một số chính sách ưu đãi cụ thể hơn trong
phần 2.3.

Những nghiên cứu lớn đã kiểm tra xem phương pháp thực hiện cơ sở
tiền mặt hay cơ sở dồn tích có các chỉ số cao trong dòng tiền tương lai và lợi
nhuận cổ phiếu. Việc thu thập từ các tài liệu có liên quan cho thấy là lợi nhuận
kế toán dồn tích cao hơn lợi nhuận kế toán tiền mặt. Tuy nhiên, kế toán dồn
tích tổng hợp rất nhiều các ước tính liên quan đến việc trì hoãn và dồn tích
doanh thu và chi phí khác nhau. Ví dụ, sự lựa chọn thời gian sử dụng hữu ích
và giá trị còn lại cho mục đích ước tính khấu hao định kỳ, sự lựa chọn về trích
lập dự phòng cho các tài khoản phải thu khó đòi, sự lựa chọn trên những giả
định để tính toán nghĩa vụ postretirement, vv, tất cả đều có liên quan trong việc
xác định thu nhập ròng trong kỳ. Một cách đơn giản để tách các phương pháp
dồn tích tổng hợp là phân tách lợi nhuận dồn tích vào dòng tiền và hợp phần
dồn tích ( bao hàm các phương pháp của các hợp phần trong phần 3.2). Nghiên
cứu bao quát đã kiểm tra những lợi ích từ phân tách này. Nghiên cứu bao quát
đã kiểm tra những lợi ích từ phân tách này. Có bằng chứng rõ ràng rằng hợp
phần dồn tích của các khoản thu nhập ít bền vững hơn (nghĩa là tạm thời hơn)
so với các thành phần tiền thu nhập. (Để giải thích rõ hơn nữa, một khoản thu


9

nhập hoàn toàn bền vững là với một đồng thu nhập đồng euro hôm nay kiếm
được một đồng thu nhập euro cho tất cả các giai đoạn trong tương lai). Nghĩa là
trong khi kế toán dồn tích vượt trội so với kế toán tiền mặt, hợp phần dồn tích
của các khoản thu nhập nên nhận được một lượng thấp hơn so với lợi nhuận
hợp phần tiền trong việc đánh giá hiệu suất của công ty. Sự bền vững thấp hơn
này ít nhất một phần do sự chủ quan lớn tham gia vào dự toán dồn tích.
Thu nhập bền vững thấp hơn do mức độ cao của phương pháp dồn tích
không phải là một kết quả trực tiếp của hoạt động quản lý thu nhập (ví dụ, hoạt
động có chủ ý nhằm vào tạo sự ảnh hưởng đến những con số lợi nhuận trên bản
báo cáo, thường với mục tiêu quản lý đặt trong một “nguồn sáng” thuận lợi).

Bản chất của kế toán dồn tích là tích luỹ và trì hoãn quá khứ, hiện tại và dự
đoán tương lai thu tiền và giải ngân. Quá trình dồn tích liên quan đến một
lượng đáng kể dự toán biên lai thu tiền trong tương lai và các khoản thanh toán,
và phân bổ chủ quan biên lai thu tiền trước và các khoản thanh toán. Khi làm
như vậy, quá trình dồn tích tạo ra tài khoản của độ tin cậy khác nhau. Ví dụ,
ghi lại những giá trị thuần có thể thực hiện của các khoản phải thu liên quan
đến việc tính toán rủi ro mặc định trên một danh mục đầu tư của người nợ. Các
ví dụ khác bao gồm ước tính số tiền bồi thường của hàng tồn kho, mất giá và
khấu hao tài sản, và ước tính nghĩa vụ lợi ích sau khi nghỉ hưu. Ước tính sai sót
(hoặc cố ý hoặc vô ý) cho các tài sản khác nhau, trách nhiệm, và liên kết các tài
khoản doanh thu và chi phí sẽ dẫn đến việc giảm bền vững trong thu nhập. Nói
chung, các ước tính tự biểu thị trong mức độ của báo cáo phương pháp dồn
tích. Chúng ta sẽ xem xét ví dụ chi tiết liên quan đến những sai sót kế toán sau
trong chương này. Cụ thể, chúng tôi sẽ giới thiệu một số phương pháp phổ biến
của phương pháp dồn tích đó là hữu ích từ một quan điểm đầu tư. Trong phạm
vi mà các nhà đầu tư không chỉ định một lượng thấp hơn để dồn tích (vì họ
không thể hiểu được đầy đủ tính chủ quan lớn hơn tham gia vào dự toán dồn
tích), chứng khoán trở nên bị định giá sai đối với thông tin đó. Một nhà phân
tích tốt không nên phạm phải lỗi này: Các hợp phần dồn tích của các khoản thu
nhập sẽ nhận được nhiều định giá thấp hơn so với các hợp phần tiền mặt.
2.2. Những quyết định về việc lựa chọn các chính sách kế toán:


10

Trong phần này sẽ đưa ra một vài những quyết định quan trọng mà được
đính kèm với BCTC và xác định tại sao những quyết định này có thể được sử
dụng bởi Ban quản trị. Sự chuẩn bị các BCTC được thực hiện theo các nguyên
tắc kế toán đều theo sự ước tính. Những ước tính này làm giảm độ tin cậy của
BCTC do những sai xót ngẫu nhiên về các ước lượng và đưa ra quyết định sử

dụng phương pháp kết toán như thế nào. Ví dụ, khi ước lượng dự phòng khoản
phải thu khó đòi sắp trở thành các khoản nợ xấu trong quá trình bán hàng và
cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp chỉ ước tính tỷ lệ 3% trong tổng giá trị hàng
hóa đã bán nhưng thực tế có thể lên tới 5%. Việc đánh giá thấp đi 2% so với
con số thực tế của khoản dự phòng được tạo ra đơn giản bởi vì nó là một sự sai
số trong ước lượng hoặc cũng có thể là kết quả của những tính toán có chủ ý
của Ban quản trị để làm cho chi phí thấp đi. Nhưng cho dù việc sai số này
mang tính ngẫu nhiên hay có chủ ý thì kết quả cuối cùng vẫn giống nhau đối
với các nhà phân tích tài chính. Nếu bạn lựa chọn cách tính chi phí như trên sẽ
có xu hướng đánh giá cao ( hoặc thấp ) đi lợi nhuận của công ty thì dòng tiền
trong tương lai cũng sẽ thấp đi ( hoặc cao lên ) tương ứng.
Một vài ví dụ về việc lựa chọn các chính sách kế toán:
- Ghi nhận doanh thu: dự phòng phải thu, dự phòng bảo hành sản phẩm,
giảm giá và hàng bán bị trả lại…
- Khấu hao: thời gian sử dụng hữu ích của tài sản, giá trị thanh lý,
phương pháp khấu hao.
- Hàng tồn kho: phương pháp tính giá hàng tồn kho, dự phòng giảm
giá…
- Lợi thế thương mại hay những tài sản cố định vô hình: chi phí kiểm tra
định kì xem có bị giảm giá trị không.
- Chính sách thuế: ước tính về sự khấu trừ thuế.
- Chế độ hưu trí: ước tính ROA, lãi suất chiết khấu, tốc độ tăng trưởng,
thu nhập công nhân viên.
- Định giá tài sản tải chính, nghĩa vụ nợ: những chuẩn mực kế toán hiên
hành ( ví dụ chuẩn mực 157 về đo lường giá trị hợp lý của Mỹ) tập trung vào
giá trị hợp lý làm cơ sở ghi nhận tài sản và nợ phải trả. Đối với một số loại tài


11


sản tài chính và nợ phải trả mà ít khi được giao dịch thì cần xác định giá trị các
yếu tô tạo nên các tài sản và nợ đó để xác định giá trị một cách hơp lý.
- Các chi phí liên quan đến chứng khoán: ước tính biến động, tỷ lệ chiết
khấu…
Trên đây là một phần danh sách, ngoài ra còn những thứ khác không
liên quan đến tiền mặt. Chúng tôi muốn hiểu và học cách sử dụng các thuyết
minh BCTC để định lượng mức độ tác động của việc lựa chọn các phương
pháp kế toán ảnh hưởng như thế nào đến BCKQHĐKD.
Điều quan trọng là hãy nhớ rằng những chế độ chính sách kế toán mà
được thảo luận trong chương này là một phần trong rất nhiều các quyết định
quản trị và nó tương tác trực tiếp với thị trường tài chính hơn là ảnh hưởng đến
sự kỳ vọng của các nhà đầu tư. Ví dụ, việc sử dụng một cách có chủ ý chế độ
kế toán này có thể được kết hợp với các quyết định kinh doanh thực tế như: cắt
giảm các hoạt động nghiên cứu và phát triển hoặc sử dụng phương pháp kế
toán liên quan đến hàng tồn kho theo LIFO hoặc FIFO ( được cho phép trong
chế độ kế toán Mỹ nhưng không được cho phép trong chế độ kế toán quốc tế ),
những điều đó cũng tác động trực tiếp lên BCTC. Ban quản trị cũng có thể trực
tiếp liên lạc với các chủ thể trên thị trường tài chính thông qua bộ phận quan hệ
với các nhà đầu tư của họ, hoặc các cuộc họp, buổi thuyết trình. Có một ngành
công nghiệp lớn được thành lập để hỗ trợ cho những sự kết nối này mà được sử
dụng bởi các công ty để giải thính về những hoạt động của công ty và giúp tạo
ra những kì vọng về hoạt động trong tương lai của công ty.
2.3. Động cơ tác động tới BCTC
Thông tin trên báo cáo tài chính được sử dụng trong nhiều thiết lập có
thể tạo động cơ cho việc chuẩn bị các báo cáo trở thành cơ hội khi được công
bố. Đặc biệt, kỳ vọng vào ảnh hưởng thị trường vốn và / hoặc đo lường hiệu
suất dựa trên các hợp đồng khác nhau. Chúng tôi xem xét một cách cụ thể
những động lực này ở phần sau.
2.3.1. Ảnh hưởng tới thị trường vốn
Khi thông tin tài chính được báo cáo trên thị trường vốn, sẽ thay đổi giá

chứng khoán của công ty. Điều này tạo ra một động lực rõ ràng trong việc quản


12

lý báo cáo hiệu quả tài chính mà đáp ứng hoặc vượt qua kỳ vọng hiện tại và
quản lý kỳ vọng trong tương lai.
Các nghiên cứu đã tập trung vào khuynh hướng vào việc báo cáo doanh
thu qua các ngưỡng (ví dụ: mức thu nhập lịch sử, mức dự báo phân tích đồng
nhất). Các minh họa sau tóm tắt về hiện tượng này. Minh họa 17-1 báo cáo tần
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu giá trị thị trường (định nghĩa là thu nhập
ròng chia cho giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu). Mẫu bao gồm tất cả đăng
ký của Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) từ 1988 đến 2003 (có hiệu quả, tất cả
các công ty có chứng khoán được giao dịch tự do ở Mỹ trong thời gian này).
Trục hoành tập hợp các công ty theo “mức thu nhập ròng” . Các vạch được
hình thành theo xếp hạng ngang hàng các công ty thành các nhóm dựa trên tầm
quan trọng của quy mô thu nhập ròng bởi vốn hóa thị trường. Mỗi thanh tương
ứng với một khoảng thời gian 50 cơ sở điểm. Ví dụ, các thanh dọc in đậm
tương ứng với năm mà quy mô lợi nhuận vốn hóa thị trường trong khoảng từ 0
đến 0.005 cho thanh đầu tiên và trong khoảng 0,005 đến 0,01 cho thanh in đậm
thứ hai. Có một "nút thắt" rõ ràng trong phân phối này, nơi nhiều công ty dự
đoán các khoản lợi nhuận nhỏ (thanh in đạm) so với các khoản mất mát nhỏ.
Một số người đã yêu cầu “nút thắt” này là phần tối thiểu do động cơ báo cáo tài
chính.


13

Minh họa 17-2 cho biết sự phân bố của các lỗi dự báo cho các mẫu
tương tự của công ty. Một lỗi dự báo được định nghĩa là sự khác biệt giữa thu

nhập và sự thống nhất phân tích lợi nhuận các kỳ gần đây nhất được công bố.
Có một tỷ lệ rõ ràng của một sự bất đối xứng xung quanh "không" dự báo lỗi
(ví dụ, nơi nhiều công ty báo cáo lợi nhuận mà vượt qua một phần dự báo phân
tích lợi nhuận của bên bán so với các công ty đã báo cáo lợi nhuận mà bỏ qua
phần dự báo). (Các nhà phân tích bên bán làm việc trong các cty mà bán giao
dịch bán và các dịch vụ liên quan.) Mô hình này xuất hiện để minh họa cho
một sự kết hợp của quản lý thu nhập (ví dụ, sử dụng cơ hội của các phương
pháp trích trước) và lợi nhuận kỳ vọng quản lý (ví dụ, khuyến khích các nhà
phân tích dự báo một số thấp hơn một chút).

Mục tiêu mà công ty đang cố gắng để đạt được là một điểm tham chiếu
di động: dự báo thống nhất từ bên bán. Sử dụng các chiến lược truyền thông
với đầu tư công chúng, quản lý có khả năng là di động điểm tham chiếu. Tương
tự như vậy, số lượng báo cáo thu nhập là một mục tiêu di chuyển do các quyết
định dành để quản lý. Sự tập trung vào báo cáo lợi nhuận đáp ứng ước tính sự
đồng thuận thường được gọi là các trò chơi thu nhập. Thật vậy, có bằng chứng
rằng điều này "trò chơi" có liên quan đến áp lực thị trường vốn đối với một
công ty. Nếu nhìn vào các mô hình của các lỗi dự báo trong cả năm tài chính,


14

dự báo ban đầu có xu hướng lạc quan so với thu nhập báo cáo (ví dụ, các nhà
phân tích đều dự báo một số sớm trong năm đó lớn hơn những gì công ty kết
thúc báo cáo), và dự báo sau đó có xu hướng bi quan (ví dụ, các nhà phân tích
đang dự báo một số vào cuối năm nay đó là ít hơn những gì công ty kết thúc
báo cáo). Việc chuyển đổi từ lạc quan ban đầu đến bi quan dẫn đến một khoản
thu nhập tích cực không ngờ khi thu nhập được công bố khi kết thúc. Minh họa
17-3 trên trang 732 tóm tắt mô hình này cho các mẫu tương tự của công ty, và
rõ ràng là mô hình này ngày càng trở nên phổ biến trong những năm gần đây.

Hơn nữa, mô hình này mạnh hơn cho các công ty mà sau đó được phát hành cổ
phiếu, hoặc trong trường hợp người trong cuộc bán cổ phần của họ.
Bên cạnh thị trường vốn, một loạt các hợp đồng có thể cung cấp các
động lực BCTC, thảo luận trong phần tiếp theo.
2.3.2. hợp đồng
Thông tin kế toán được sử dụng trong một loạt các hợp đồng, bao gồm
cả hợp đồng quản lý và các hợp đồng liên quan đến chứng khoán tài chính. Cả
hai loại hợp đồng có thể cung cấp động lực cho việc quản lý sử dụng theo
quyết định kế toán cơ hội.
Ví dụ, bồi thường quản lý thường được thiết lập là một hàm của báo
cáo số liệu lợi nhuận (trong điều kiện tuyệt đối hoặc tương đối ) cũng như các
thông tin liên quan đến giá cổ phiếu, lần lượt là một chức năng của báo cáo thu
nhập. Ví dụ, Textron Inc ủy quyền báo cáo trong năm 2006 là các tiêu chí hiệu
suất sử dụng cho các kế hoạch ngắn hạn và khuyến khích dài hạn của nó bao
gồm các biện pháp khác nhau dựa trên báo cáo tài chính bao gồm cả lợi nhuận
trên tài sản, và các tỷ suất lợi nhuận và doanh thu . Thông tin báo cáo tài chính
thường xuyên được sử dụng như một cơ sở cho việc xác định bồi thường điều
hành. Các hợp đồng này trực tiếp tạo động lực cho việc quản lí để có cơ hội
trong việc sử dụng quyền quyết định kế toán.


15

Có hợp đồng khác, nơi thông tin kế toán cũng được sử dụng, chẳng hạn
như các hợp đồng nợ. Các công ty có dư nợ là các bên tham gia một hoặc nhiều
giao ước nợ (các thỏa thuận giữa công ty với vị thế đi vay và chủ nợ của mình)
thường có nhiều hạn chế (ví dụ, các công ty phải duy trì tỷ lệ lãi vay tối thiểu
để tránh vỡ nợ và khả năng thỏa thuận lại chi phí nợ) và có thể định giá hiệu
suất mà chi phí lãi suất bị ràng buộc một cách rõ ràng để thực hiện các hoạt
động tài chính. Nói chung, các hợp đồng cung cấp động cơ rất rõ ràng để quản

lý sử dụng theo quyết định chiến lược kế toán dành cho họ.
2.4. Cơ chế quản lý có kỉ luật:
Các cuộc thảo luận đưa ra nhiều cơ hội để Ban quản trị cùng nhau làm
méo mó các BCTC. Do vậy. liệu chúng ta có nên đặt ít niềm tin vào kết quả hệ
thống báo cáo này hay không? Không . BCTC cung cấp các thông tin rất hữu
ích, một phần là do các quy tắc lập báo cáo đã được chuẩn hóa. Có nhiều cơ
chế giảm bớt sự lạm dụng các chế độ mang tính chủ quan này. Một số ví dụ về
các cơ chế đảm bảo sự tin cậy của báo cáo bao gồm:
- Kiểm toán bên ngoài: mỗi công ty đại chúng được yêu cầu phai có
BCTC được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán có đăng ký. Quy trình này


16

cung cấp sự xác nhận độc lập về BCTC. Cụ thể, trách nhiệm của kiểm toán
viên bên ngoài là đưa ra ý kiến về sự tin cậy của BCTC hợp nhất, ý kiến về
đánh giá sự kiểm soát của Ban quản trị, sự hiệu quả của BCTC nội bộ. Ý kiến
của kiểm toán mà có ghi từ “ không đồng ý” thì phản ánh sự đối lập sai xót khi
công bố BCTC.
- Kiểm toán nội bộ, ủy ban kiểm toán và hội đồng quản trị. Hội đồng
quản trị thông qua các ủy ban của nó và sự giám sát của kế toán nội bộ như
hoạt động của nhà quản lý.
- Cấp giấy chứng nhận quản lý: đối với công ty mà phải tuân theo tổ
chức Sarbanes – Oxley của Mỹ hoạt động từ 2002, GĐ điều hành và GĐ tài
chính phải xác thực BCTC, việc này làm tăng nguy cơ rủi ro đối với các cá
nhanh hơn trước đây khi họ tiến hành bóp méo kết quả kinh doanh.
- Luật sư: những vụ kiện là một trong những cách khá hiệu quả để giảm
khuynh hướng bóp méo kết quả hệ thống BCTC.
- Người quản lý, các cơ quan quản lý, kể cả cơ quan điều tra tội phamj
trong thẩm quyền của họ có thể làm cho các nhà quản lý phải suy xét kĩ về

những hành động của họ.
- Giám sát thị trường nói chung: những nhà báo về tài chính, tổ chức tài
chính, công đoàn, nhà phân tích…, đều luôn chú ý đến sai xót, những lỗ hổng
trong BCTC để tìm ra sự gian lận.
3. Chất lượng báo cáo tài chính: Định nghĩa, vấn đề và các thước đo
tổng hợp:
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày khung khái quát về chất lượng
báo cáo tài chính và tập trung vào chất lượng lợi nhuận. Chất lượng lợi nhuận
là thuật ngữ được định nghĩa đặc trưng cho tính ổn định và bền vững. Ví dụ
như, các nhà phân tích thường cho rằng lợi nhuận được coi là có chất lượng cao
khi chúng bền vững hoặc khi họ “kỳ vọng mức lợi nhuận được báo cáo được
bền vững hoặc liên tục”. Các phương pháp tiếp cận sẽ có cái nhìn trọng tâm
vào việc dự báo các dòng tiền hoặc lợi nhuận trong tương lai, cái sẽ là trung
tâm của việc đánh giá. Một thước đo mà yếu tố dự báo các dòng tiền tương lai


17

và lợi nhuận hiệu quả thì đáng để bàn luận hơn thước đo mà việc dự báo của nó
kém hiệu quả hơn, do đó nó cũng phục vụ tốt hơn cho mục đích đánh giá.
Những tranh luận khác về chất lượng lợi nhuận sẽ xem xét việc chọn lựa
phương pháp kế toán sáng tạo hay thận trọng, đc trình bày trên BCTC của các
công ty. VD như, các công ty sử dụng phương pháp khấu hao nhanh, có mức
trợ cấp cao cho hàng tồn kho lỗi thời và các khoản phải thu khó đòi hoặc là có
khoản lợi nhuận giữ lại lớn thì có thể được xem xét là đã sử dụng phương pháp
thận trọng. Điều này là bởi vì lợi nhuận đã bị giảm xuống ở kỳ hiện tại. Tập
trung vào những thay đổi của các khoản mục trên bảng CĐKT hoặc lợi nhuận
dồn tích, lợi nhuận hoãn lại là cách hiệu quả để nắm bắt những thay đổi của
chất lượng lợi nhuận. Các thước đo dồn tích khi sử dụng cả 2 phương pháp kế
toán sáng tạo và phương pháp kế toán thận trọng sẽ làm giảm khả năng của lợi

nhuận dồn tích trong dự báo về biểu hiện của công ty trong tương lai.
3.1. Lợi nhuận đảo chiều:
Với mục đích nhận biết những công ty có lợi nhuận ổn định và bền vững
hơn so với những công ty cùng ngành, phần này sẽ tập trung vào giá trị cốt lõi
của chất lượng lợi nhuận, gồm yếu tố dồn tích và hoãn lại. Trong phạm vi đó,
các nhà phân tích quan tâm tới khuynh hướng của lợi nhuận khi chuyển từ mức
thấp nhất lên mức trung bình (gọi là lợi nhuận đảo chiều). Hiện tượng này sẽ
được giải thích về mặt kinh tế. Thị trường cạnh tranh có xu hướng tự sửa sai
đối với những vấn đề mang tính quản lí hoặc mang tính chiến lược mà dẫn tới
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả và các doanh nghiệp hoạt động kém sẽ dần
bị loại bỏ. Tùy thuộc vào rào cản gia nhập, vốn sẽ di chuyển về phía những
doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao hơn, làm tăng mức độ cạnh tranh và
giảm sự quay trở lại. Tác động của hiệu ứng cạnh tranh là làm cho lợi nhuận
trở về mức trung bình. Dữ liệu được phân tích bởi Nissim và Penman (2001) đã
chỉ ra rằng mô hình lợi nhuận đảo chiều này là rất phổ biến. Mô hình 17-4 dưới
đây sẽ mô tả trạng thái đảo chiều của lợi nhuận trên tài sản hoạt động ròng
(RNOA). Hàng năm, các công ty sẽ được phân chia thành 10 nhóm cùng ngành
và lấy trung bình RNOA của 10 danh mục đầu tư được theo dõi trong vòng 6
năm tới.


18

Việc hiểu rõ lợi nhuận đảo chiều có ý nghĩa quan trọng cho việc phân
tích báo cáo tài chính. Để xây dựng mức dự báo có ý nghĩa cho dòng tiền trong
tương lai, ta nên nhận ra rằng mức lợi nhuận quá cao hoặc quá thấp không
được mong đợi là sẽ tiếp tục trong tương lai.
Như đã đề cập trước đó, lợi nhuận được cấu thành từ lợi nhuận bằng tiền
và lợi nhuận dồn tích. Về mặt đại số: LN = LN bằng tiền+ LN dồn tích. Nếu lợi
nhuận dồn tích lớn thì tỷ suất lợi nhuận và dòng tiền trong tương lai sẽ nhỏ và

những công ty có lợi nhuận dồn tích lớn thì tỷ suất lợi nhuận sẽ trở về mức
trung bình nhanh hơn. Đây không phải là điều đáng ngạc nhiên vì lợi nhuận
dồn tích là nhân tố làm biến dạng kế toán nhiều nhất và tính ổn đinh thấp hơn.
Tóm lại, lợi nhuận càng ổn định thì chất lượng sẽ càng cao. Việc phân
tích lợi nhuận được cấu thành từ lợi nhuận dồn tích và lợi nhuận bằng tiền sẽ
tạo ra dự báo tốt hơn cho lợi nhuận và dòng tiền trong tương lai; hơn nữa, như
đã đề cập, lợi nhuận mà kém ổn định hơn sẽ có chất lượng thấp hơn. Trong
phần sau, chúng tôi sẽ trình bày nhiều hơn các ví dụ về các giao dịch làm phát
sinh các dòng thu nhập chất lượng thấp. Một vấn đề chung cho tất cả các ví dụ
về chất lượng lợi nhuận thấp đó là trên thực tế, do việc lựa chọn các phương


19

pháp kế toán khác nhau làm cho lợi nhuận bị bóp méo so với giá trị thực, tuy
nhiên dòng tiền lại không bị ảnh hưởng.
3.2. Đo lường lợi nhuận dồn tích và chất lượng của lợi nhuận:
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày phương pháp đo lường lợi nhuận
dồn tích và lợi nhuận bằng tiền dùng trong các báo cáo tài chính được chuẩn
hóa. Chúng tôi cũng đưa ra nhiều thước đo lợi nhuận dồn tích khác nhau (LN
bằng tiền= Tổng LN - LN dồn tích). Cuối cùng, chúng tôi cũng trình bày thước
đo tỷ số của LN dồn tích, đây là thước đo vô cùng đơn giản để các nhà phân
tích có thể tính toán và sử dụng để đánh giá chất lượng của lợi nhuận.
Mô hình 17-5 sẽ trình bày 3 BCTC cơ bản trong khuôn khổ được chuẩn
hóa. Khuôn khổ được lựa chọn sẽ căn cứ vào cái được sử dụng bởi Compustat
trong quá trình báo cáo các BCTC của các công ty hoạt động tại Hoa kỳ. Việc
sử dụng khuôn khổ được chuẩn hóa mang lại lợi thế so sánh giữa các công ty.
Lưu ý rằng “ lợi nhuận trước các khoản mục khác thường” có thể được chuẩn
mực kế toán Mỹ (U.S.GAAP) ghi nhận theo nguyên tắc giá gốc nhưng lại
không được ghi nhận theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) và “lợi ích của cổ

đông thiểu số” theo chuẩn mực kế toán quốc tế phải được ghi nhận bên phần
vốn chủ sở hữu nhưng lại không được ghi nhận ở phần nợ phải trả, vốn chủ sở
hữu hoặc giữa 2 phần theo chuẩn mực kế toán Mỹ (Compustat đặt nó trong
phần nợ phải trả). Việc tiến hành điều chỉnh những chênh lệch này là một trong
những yêu cầu trong công việc của nhà phân tích.
Các BCTC được đưa ra dưới đây được dựa trên hệ thống kế toán dồn
tích. Ngoại trừ tiền mặt, tất cả các khoản mục trên bảng cân đối kế toán đều là
kết quả của những lựa chọn chủ quan xung quanh các qui định đánh giá và thừa
nhận. Ví dụ như: (1) Các khoản phải thu được báo cáo dựa trên cơ sở thuần sau
khi việc bán hàng đã được thực hiện và những người mua chịu có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ; (2) Hàng tồn kho cũng được báo cáo trên cơ sở thuần
với giả định rằng trong tương lai có thể bán chúng với giá lớn hơn giá gốc.
Những giải thích tương tự cũng được đưa ra cho các khoản mục khác trên bảng
cân đối kế toán. Các quyết định dược đưa ra từ các BCTC trên cơ sỏ dồn tích.
Mô hình 17-5: BCTC (Trong khuôn khổ chuẩn mực):


20

Bảng A: Bảng CĐKT:


Chỉ tiêu
Tiền mặt và Đầu tư tài

a

Chỉ tiêu
Nợ ngắn hạn


i
21

chính ngắn hạn
Các khoản phải thu

b

(thuần)
Hàng tồn kho (thuần)
Tài sản ngắn hạn khác
Tổng TSNH (TCA)

c
d
a+b+c+d

Tài sản, máy móc,

e

Nợ dài hạn

m

thiết bị (thuần)
Đầu tư tài chính dài

f


Thuế hoãn lại

n

hạn
Tài

g

Nợ dài hạn khác

o

sản



hình

(thuần)
Tài sản dài hạn khác
Tổng tài sản dài hạn

h
e+f+g+h

(TNA)

Khoản phải trả
Thuế TNDN phải nộp

Nợ ngắn hạn khác
Tổng nợ ngắn hạn (TCL)

Tổng nợ dài hạn (TNL)
Lợi ích của cổ đông thiểu

j
k
l
i+j+k+l

m+n+o
MI

số

Tổng tài sản

TCA+TN

Tổng nợ phải trả (TL)

A

TCL+TN

Cổ phiếu ưu đãi (giá trị sổ

L+MI
p


sách)
Cổ phiếu thường
Tổng vốn chủ sở hữu

q
p+q

Chỉ tiêu
Tiền mặt và Đầu tư tài

a

(OE)
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu
Nợ ngắn hạn

chính ngắn hạn
Các khoản phải thu

b

Khoản phải trả

(thuần)
Hàng tồn kho (thuần)
Tài sản ngắn hạn khác
Tổng TSNH (TCA)


c
d
a+b+c+d

Tài sản, máy móc,

e

Nợ dài hạn

m

thiết bị (thuần)
Đầu tư tài chính dài

f

Thuế hoãn lại

n

hạn
Tài

g

Nợ dài hạn khác

o


sản



hình

(thuần)
Tài sản dài hạn khác
Tổng tài sản dài hạn
(TNA)

h
e+f+g+h

Thuế TNDN phải nộp
Nợ ngắn hạn khác
Tổng nợ ngắn hạn (TCL)

Tổng nợ dài hạn (TNL)
Lợi ích của cổ đông thiểu
số

TL+OE
i
j
k
l
i+j+k+l

m+n+o

MI


22

Bảng B: Báo cáo KQKD
Chỉ tiêu
Doanh thu thuần
Trừ: Giá vốn hàng bán
Trừ: CPBH và CPQLDN
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trước khấu hao

a
b
c
a-b-c

(OIBD)
Trừ: Chi phí khấu hao và chi phí phân bổ
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh sau khấu hao

d
OIBD-d

(OIAD)
Trừ: Chi phí thuế (thuần)
Trừ: Các khoản mục đặc biệt và các khoản mục khác không

e
f


thuộc hoạt động kinh doanh
Trừ: Chi phí thuế
Lợi nhuận trước các khoản mục khác thường (IBXI)
Trừ: Các khoản mục khác thường
Lợi nhuận sau thuế (NI)

g
OIAD-e-f-g
h
IBXI-h

Bảng C : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ :
Chỉ tiêu
Lợi nhuận trước các khoản mục

IBXI

khác thường
+ Chi phí khấu hao và chi phí phân bổ
+ Thuế hoãn lại
+ Lợi nhuận ròng
+(-) Lãi (lỗ) từ bán tài sản dài hạn
+(-) Các quĩ khác từ hoạt động kinh

a
b
c
d
e


doanh
+(-) Tăng (giảm) vốn hoạt động ròng
Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh

f
IBXI+a+b+c+d+e+f

doanh (CFO)
- Chi cho đầu tư
+ Thu từ đầu tư
- Chi phí vốn
+ Thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ

g
h
i
j

và các TSDH khác
- Xác nhập, hợp nhất
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu

k
-g+h-i+j-k

tư (CFI)
+ Thu nhập từ cổ phiếu thường và cổ

l



23

phiếu ưu đãi
- Tiền chi trả cổ tức cho các chủ sở

m

hữu, mua lại cổ phiếu của doanh
nghiệp đã phát hành
+ Bảo hiểm cho khoản nợ
- Nợ giảm
Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài
chính (CFF)
Tiền và tương đương tiền

n
o
l-m+n-o
CFO+CFI+CFF

Trái lại, các BCTC dựa trên cơ sở tiền mặt lại không có các quyết định
này:

“Tiền là tiền”. Không còn gian lận, cũng không còn tranh luận về quyền

sở hữu và giá trị tiền mặt. Do đó, các quyết định được đưa ra từ các BCTC
được lập trên cở tiền mặt sẽ trái ngược với các quyết định được đưa ra từ các
BCTC được lập trên cơ sở dồn tích.

Sự khác ở đây chính là lợi nhuận dồn tích hay cấu thành dồn tích của lợi
nhuận: LN dồn tích= Tổng lợi nhuận-LN bằng tiền.
Có nhiều cách khác nhau để chúng ta phân chia lợi nhuận trên cơ sở dồn
tích được báo cáo thành cấu thành tiền mặt và cấu thành dồn tích. Chúng ta có
thể lấy những thông tin từ bảng cân đối kế toán hoặc cũng có thể từ báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Chúng tôi ưu tiên cách tiếp cận thứ 2 hơn vì nó tạo ra một thước
đo rõ ràng hơn mà không bị ảnh hưởng từ hiệu ứng của các vụ mua lại phi tiền
mặt và hiệu ứng điều chỉnh các giao dịch ngoại tệ. Chúng tôi sẽ phác thảo 2
cách tiếp cận để phân chia lợi nhuận dồn tích cũng như đưa ra định nghĩa về tỷ
số dồn tích để so sánh giữa các công ty hoặc so sánh 1 công ty qua thời gian.
Trước tiên là cách tiếp cận những thông tin trên bảng cân đối kế toán,
chúng ta có thể đo lường sự thay đổi ròng của tất cả các tài khoản phi tiền mặt
để tính toán chỉ tiêu Lợi nhuận dồn tích trong năm tài chính đó. Từ Bảng cân
đối kế toán mẫu được trình bày ở trên, lợi nhuận dồn tích chỉ đơn giản là sự
thay đổi trong tài sản ròng (tài khoản tiền mặt ròng và tài khoản nợ ròng có liên
quan) từ đầu kỳ tới cuối kỳ. Trước tiên chúng tôi sẽ định nghĩa về Tài sản kinh
doanh thuần (NOA) chính là chênh lệch giữa Tổng tài sản kinh doanh và Tổng
nợ kinh doanh:


24

NOA = Tổng TS KD – Tổng nợ KD
Trong đó:
Tổng TS KD = Tổng TS - (Tiền + ĐTTC ngắn hạn)
Tổng nợ KD = Tổng nợ phải trả - Tổng vay phải trả lãi
Chúng tôi loại trừ tiền mặt (ở đây ám chỉ Tiền và Đầu tư TC ngắn hạn)
và Tổng lãi vay phải trả ra khỏi công thức là do các khoản mục này thực chất
không ảnh hưởng tới các quyết định. Điều này thực ra không hoàn toàn là đúng
nhưng chúng tôi vẫn loại bỏ ra để phục vụ cho mục đích của mình.

Từ góc độ bảng cân đối kế toán, chúng tôi có thể đo lường lợi nhuận dồn
tích cho kỳ t, chính là sự thay đổi NOA trong giai đoạn này:
Lợi nhuận dồn tíchtB/S = NOAt - NOAt-1

(17-

1)
Chúng ta có thể gọi thước đo trong công thức (17-1) là Lợi nhuận dồn
tích tính từ Bảng CĐKT. Để có thể đánh giá chất lượng lợi nhuận, thước đo
này cần phải được mang ra để so sánh giữa các công ty bằng việc điều chỉnh
những khác biệt về qui mô. Một cách dễ dàng để điều chỉnh là làm giảm (VD:
qui mô) của thước đo Lợi nhuận dồn tích bằng việc lấy giá trị trung bình của
NOA. Nếu chỉ sử dụng giá trị đầu và giá trị cuối của NOA để tính tỷ số, thì tỷ
số này sẽ bị làm méo mó bởi những công ty có tăng trưởng mạnh hoặc có sự
biến động lớn trong năm tài chính.
Thước đo tỷ số (gọi là Tỷ số lợi nhuận dồn tích từ bảng CĐKT) là thước
đo đầu tiên của chúng tôi để đánh giá chất lượng BCTC và được tính theo công
thức:
Tỷ số dồn tíchtB/S =

(17-2)

Các thước đo dồn tích được xác định trong công thức (17-1) và (17-2)
bao hàm việc lấy tổng của tất cả các khoản mục trên BCĐKT. Nếu bạn quan
tâm tới các thành phần phụ của hoạt động dồn tích thì chỉ cần xem xét các tài
khoản có liên quan trên BCĐKT. Ví dụ như, nhìn vào sự thay đổi trong khoản
mục khoản phải trả ròng trong năm tài chính, bị giảm bởi giá trị NOA trung
bình, sẽ cho bạn thấy được tầm quan trọng của doanh thu từ tín dụng bán hàng
ròng.



25

Chúng ta cũng có thể tiếp cận từ BCLCTT. Theo cách tiếp cận này,
chúng ta sẽ nhìn vào khoản chênh lệch giữa lợi nhuận dồn tích được báo cáo
với dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền từ hoạt động tài chính. Do
đó, thước đo Lợi nhuận dồn tích sẽ như sau:
LNDTtCF

=

Nit



(CFOt

+

CFIt)

(17-3)
Chúng ta có thể gọi thước đo trong công thức (17-3) là Lợi nhuận tính từ
BCLCTT. Tương ứng ta có thước đo tỷ số (gọi là Tỷ số lợi nhuận dồn tích từ
BCLCTT) là thước đo thứ 2 để đánh giá chất lượng BCTC:
Tỷ số dồn tíchtCF =

(17-4)

Các thước đo trong công thức (17-3) và (17-4) tổng hợp tất cả các hoạt

động kinh doanh và hoạt động đầu tư và tác động của chúng tới lợi nhuận dồn
tích. Kết quả là ta có thước đo lợi nhuận dồn tích từ BCLCTT. Việc đưa dòng
tiền từ hoạt động đầu tư vào công thức (17-3) và (17-4) có thể cần phải được
giải thích. Từ quan điểm đánh giá, thực chất chỉ có 2 phương diện để đánh giá
1 công ty: Phương diện hoạt động (được hình thành rộng rãi) và phương diện
tài chính. Tuy nhiên, BCLCTT lại chia phương diện hoạt động thành phần
“hoạt động” và phần “đầu tư”. Do đó, khi tính toán tỷ số dồn tích, cách xử lý
phù hợp là đưa cả 2 thành phần này vào. Khi áp dụng Công thức (17-3) và (174), các nhà phân tích nên thực hiện các điều chỉnh cần thiết cho sự khác biệt về
cách xử lý của lãi suất và cổ tức trong BCLCTT của các công ty được nghiên
cứu. Việc điều chỉnh cần đảm bảo được tính nhất quán trong cách xử lý của
hoạt động kinh doanh và đầu tư. Ví dụ như, nếu công ty A xử lý lãi phải trả
như 1 dòng ra của hoạt động kinh doanh (theo chuẩn mực kế toán Mỹ) mà công
ty B lại xử lý lãi phải trả như 1 dòng tiền từ hoạt động tài chính (theo chuẩn
mực kế toán quốc tế) thì sẽ có sự khác biệt trong chỉ tiêu đòn bẩy giữa 2 công
ty và làm tăng thêm sự khác nhau trong việc tính toán thước đo lợi nhuận dồn
tích. Xử lý khoản lãi phải trả thống nhất gia các công ty (VD: coi như là dòng
ra từ hoạt động tài chính) sẽ làm giảm bớt được các vấn đề phát sinh.
VD 17-1 minh họa việc tính toán các tỷ số của 1 công ttr trong thực tế:
Lợi nhuận dồn tích: Công ty Coca-Cola


×