Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Chức năng tạo lập môi trường cho các hoạt động kinh tế của quản lý nhà nước về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.65 KB, 37 trang )

1

Lời Mở Đầu
Mỗi một quốc gia trên thế giới đều có môi trường chính trị, kinh tế và xã hội khác
nhau nên đối với mỗi nền kinh tế, nhà nước lại có các cách quản lý kinh tế đặc thù.
Muốn tìm hiểu mỗi quốc gia có cách quản lý kinh tế ra sao thì chúng ta nên tìm
hiểu qua các chức năng của quản lý nhà nước về tạo lập môi trường kinh tế.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế chính là những đặc trưng riêng có của
quyền lực nhà nuớc trong vịêc tác động có lựa chọn vào nền kinh tế theo các mục tiêu
trong từng giai đoạn.
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến vuợt bậc trong kinh tế.
Sự phát triển vuợt bậc này chính là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước
trong việc điều hành nền kinh tế một cách linh hoạt, hiệu quả. Việt Nam phát triển
kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế mà vai trò kinh tế nhà
nuớc là chủ đạo nên các chứng năng quản lý nhà nuớc về kinh tế cần phải có thêm cả
yếu tố mềm dẻo, kết hợp đuợc cả sự phát triển của kinh tế nhà nuớc và kinh tế tư
nhân.
Trong thời kỳ hiện nay, càng tìm hiểu rõ những chức năng của quản lý nhà nước về
kinh tế, chúng ta sẽ tìm ra đuợc nhiều phuơng pháp để giúp đất nước phát triển bền
vững, theo đúng con đường mà Đảng và Nhà nuớc đã chọn. Chính vì lý do đó, nhóm
em xin phép được đi sâu vào đề tài: “Chức năng tạo lập môi trường cho các hoạt
động kinh tế của QLNN về kinh tế? Liên hệ thực tiễn vấn đề này trong một lĩnh vực cụ
thể (Thương mại, Tài chính – Tiền tệ, đầu tư, Kinh tế đối ngoại…) ở nước ta hiện
nay?
Và để hiểu rõ vấn đề này chúng em đã đi sâu nghiên cứu các nội dung sau:
Phần 1: Lý luận chung chức năng tạo lập môi trường.
Phần 2: Liên hệ chức năng tạo lập kinh tế trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện
nay
Phần 3: Một số giải pháp nâng cao chức năng tạo lập kinh tế của nhà nước ta.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự



Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


2

I.
LÝ LUẬN CHUNG CHỨC NĂNG TẠO LẬP MÔI TRƯỜNG KINH TẾ
1.1 Khái niệm

Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tập hợp các yếu tố, các điều kiện tạo nên
khung cảnh tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Nói cách khác, môi trường cho sự phát
triển kinh tế là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan; bên ngoài và bên
trong; có mối liên hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng trực tiếp hau gián tiếp đến việc phát
triển kinh tế và quyết định đến hiệu quả kinh tế.
Sự cần thiết phải tạo lập môi trường cho phát triển kinh tế:
Một môi trường thuận lợi là bệ phóng, là điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói
riêng. Ngược lại môi trường kinh doanh không thuận lợi không những sẽ kìm hãm, cản
trở mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ và các doanh
nghiệp rơi và tình trạng phá sản hàng loạt.


Vì vậy việc tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước và cho
sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết khách quan.
1.2 Các loại môi trường cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế

1.2.1. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm môi trường vi mô, vĩ mô và môi trường thị trường.
Các loại mô hình kinh tế



Nền kinh tế chỉ huy

Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế được kế hoạch hóa tập trung, việc lựa chọn giữa ba vấn
đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào đều do Nhà
nước quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ
sở sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành quốc doanh hóa và tập thể hóa, xóa bỏ tư
nhân. Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ.


Nền kinh tế thị trường tự do

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


3

Thị trường tự do là một thị trường mà không có sự can thiệp kinh tế và quy định của
nhà nước, ngoại trừ việc thực thi các hợp đồng tư nhân và quyền sở hữu tài sản. Thị
trường tự do ngược lại với thị trường có kiểm soát, trong đó nhà nước trực tiếp quy định
hàng hoá, dịch vụ và lao động có thể được sử dụng, định giá giá cả, hoặc phân phối như
thế nào, hơn là dựa vào cơ chế sở hữu tư nhân.
Một nền kinh tế thị trường tự do là một nền kinh tế nơi mà tất cả các thị trường bên trong
nó không được kiểm soát bởi các bên khác hơn so với những người tham gia trên thị
trường. Ở dạng thuần khiết nhất của nó chính phủ đóng một vai trò trung lập trong việc
quản lý và điều ban hành pháp luật về hoạt động kinh tế không giới hạn và cũng không

tích cực thúc đẩy nó (ví dụ như điều tiết các ngành công nghiệp cũng như trợ cấp cung
cấp cho các doanh nghiệp cho phép một mình bảo vệ họ khỏi áp lực thị trường nội /
ngoại). Một nền kinh tế như vậy dưới hình thức cực đoan nhất của nó không tồn tại trong
nền kinh tế phát triển, tuy nhiên những nỗ lực tự do hóa nền kinh tế hoặc nỗ lực làm cho
nó "tự do hơn" để hạn chế vai trò của chính phủ theo cách như vậy.
Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường lý tưởng tự do, quyền sở hữu được trao đổi
một cách tự nguyện trao đổi ở một mức giá được thỏa thuận chỉ bằng sự đồng ý lẫn nhau
của người bán và người mua. Theo định nghĩa, người mua và người bán không ép buộc
lẫn nhau, theo nghĩa là họ có được quyền sở hữu của nhau mà không sử dụng vũ lực, đe
dọa của lực lượng vật chất, hoặc gian lận, cũng không phải là họ bị cưỡng chế do bên thứ
ba (như của chính phủ thông qua các khoản thanh toán chuyển giao)và họ tham gia vào
thương mại đơn giản chỉ vì họ đều đồng ý và tin rằng những gì họ đang nhận được là giá
trị nhiều hơn hoặc càng nhiều càng tốt những gì họ bỏ đi. Giá là kết quả của các quyết
định mua bán hàng loạt như được mô tả bởi các lý thuyết về cung và cầu.


Nền kinh tế hỗn hợp

Đặc trưng của nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận hành theo nền kinh tế thị trường có
sự can thiệp của chính phủ với những mức độ khác nhau, chính phủ chỉ can thiệp có mực
đọ giưới hạn vào các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Bàn tay vô hình sẽ điều chỉnh
sự vận hành của nền kinh tế, thay cho sự can thiệp trực tiếp của chính phủ như trước đây.
Sự can thiệp của chính phủ có thể diễn ra theo hai cách: chuyển sở hữu thực sự của chính
phủ dối với các yếu tố sản xuất và tạo ảnh hưởng trong việc ra quyết định kinh tế. Vấn để
sở hữu có thể xác định một cách chính xác về số lượng bằng phương pháp thống kê, tuy
nhiện ảnh hưởng của chính phủ thông qua chính sách và tập quán khó có thể đo lường
một cách chính xác.
Chính sự can thiệp của chính phủ nhiều hay ít và nền kinh tế có thể sẽ tạo ra những thuận
lợi, khó khăn và cơ hội kinh doanh khác nhau cho doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh
nghiệp phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong kinh doanh, để từ

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


4

đó có sự điều chỉnh các hoạt động cho thích ứng, nhằm tránh những đảo lộn lớn trong
quá trình vận hành nhằm đạt những mục đích đã định trong kinh doanh
1.2.2

Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý là tổng thể các hoàn cảnh luật định được nhà nước tạo ra để điều
tiết sự phát triển kinh tế, bắt buộc các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần hoạt động
trong nền kinh tế thị trường phải tuân theo.
Sự tác động của pháp luật đến các hoạt động sản xuất – kinh doanh được thực
hiệnthông qua một cơ chế phức tạp. Hoạt động kinh tế được tiến hành thông qua hoạt
động cóý thức của con người và phải tuân theo những quy luật kinh tế khách quan. Pháp
luật không đặt ra các quy luật mà chỉ tác động đến hànhvi của người kinh doanh, đặt ra
các tiêu chuẩn cho con người tuân thủ, chấp hành. Đồng thời pháp luật còn thể hiện yêu
cầu của nhà nước đối với cácđơn vị kinh tế dưới dạng quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
Trước hết, pháp luật xác lập vàđiều chỉnh các quan hệ sở hữu là quan hệ kinh tế cơ bản
của xã hội
Thứ hai, pháp luậtđóng vai trò là công cụ quản lý vàđiều tiết kinh tế.Điều này thể hiện
thông qua việc thể chế hóa chiến lược, chính sách kế hoạch phát triển đất nước trong từng
giai đoạn để triển khai thực hiện. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại và bình đẳng của các
thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, tạođiều kiện cho chúng phát triển và bảo vệ
chúng, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể sản xuất kinh doanh
nhằmđiều chỉnh các quan hệ kinh tế theo hướng mà Nhà nước mong muốn.

Thứ ba, pháp luật còn là công cụ điều tiêt lợi ích của các chủ thể khi tham gia thị
trường. Để đạt được lợi nhuận tối đa, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẵn sang áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm biện pháp sản xuất kinh
doanh có hiệu quả… nhưng đông thời họ cũng sẵn sàng sử dụng các biện pháp tiêu cực
như: cạnh tranh không lành mạnh, trốn thuế, lừa đảo… Do vây pháp luật là công cụ
không thể thiếu để điều tiết lợi ích các chủ thể.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


5

Thứ tư, Pháp luật góp phần tạo điều kiện để giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh từ
nền kinh tế thị trường
Luật pháp điều chỉnh các họat động kinh tế trong nội bộ một quốc gia và giữa các quốc
gia là một phần không thể tách rời môi trường kinh doanh.Hệ thống luật pháp ở các quốc
gia trên thế giới tồn tại đa dạng và phức tạp. Nếu một quốc gia có hệ thống luật pháp
không ổn định và thiếu đồng bộ, sẽ gây ra tâm lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ có tính chất tạm thời, không có dự án đầu tư dài hạn và quy mô lớn. Bên cạnh đó, số
lượng các nhà đầu tư có khả năng chấp nhận mạo hiểm đầu tư vào các quốc gia này rất
hạn chế.
Quan điểm của đảng lãnh đạo, cơ chế điều hành của chính phủ tạo ra tác động lớn đến
hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Cơ chế điều hành của chính phủ ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ chế ban hành luật pháp, tính hiệu lực của luật pháp và các chính
sách kinh tế.Ngày nay, khi thế giới trong tiến trình thống nhất, môi trường luật pháp ở
mỗi quốc gia đều có sự hoà đồng với các quy định chung của quốc tế.
1.2.3


Môi trường chính trị

Môi trường chính trị Là tổ hợp các hoàn cảnh chính trị, nó được tạo bởi thái độ chính
trị Nhà nước và của các tổ chức chính trị, tương quan giữa các tầng lớp trong xã hội, là sự
ổn định chính trị để phát triển.
Hệ thống chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng quyết định đến xu hướng đối nội và
đối ngoài của quốc gia. Lịch sử phát triển thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc xung đột về
chính trị giữa các quốc gia khác nhau như thời kỳ đối đầu của các quốc gia theo hệ thống
xã hội chủ nghĩa và các quốc gia theo hệ thống tư bản chủ nghĩa. Thông thường đi liền
với xung đột về chính trị là xung đột về ngoại giao và kinh tế. Hệ thống thể chế chính trị
có thể tạo điều kiện hay gây nên rủi ro không lường trước được đối với các doanh nghiệp
khi tham gia vào thương mại quốc tế hay xuất khẩu hàng hoá vào các quốc gia. Một
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế luôn bị ảnh hưởng bởi chính sách, thể chế của nước chủ
nhà cũng như nước nhập khẩu hay đầu tư.
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


6

Môi trường chính trị lý tưởng cho doanh nghiệp là một chính phủ ổn định và thân
thiện.Những thay đổi về quan điểm và mục đích của chính phủ có thể cơ hội kinh doanh
của doanh nghiệp thành hiểm hoạ. Những thay đổi có thể bắt nguồn từ sự thay đổi của
đảng phái chính trị cầm quyền, hay do điều kiện kinh tế yếu kém nên chính phủ phải rút
lại các cam kết thương mại trước đó.Tuy nhiên, mối quan tâm lớn nhất của các doanh
nghiệp vẫn là tính liên tục của các qui định, nguyên tắc ứng xử cho dù bất kỳ đảng phái
nào đang nắm quyền.Một sự thay đổi đột ngột không lường trước được trong chính sách
của chính phủ cũng có thể làm cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, bất
kể nguyên nhân của thay đổi là gì.

Các vấn đề chính trị nhạy cảm là cái mà doanh nghiệp cần hết sức quan tâm, đặc biệt là
các vấn đề liên quan đến cộng đồng.Các nhà đầu tư nước ngoài thường bị kết tội là khai
thác sự giàu có của một quốc gia với chi phí của chính người dân quốc gia đó để phục vụ
lợi ích cho riêng mình. Điều đó sẽ dẫn đến rủi ro chính trị tăng cao. Các rủi ro chính trị
liên quan đến cộng đồng như chủ nghĩa dân tộc, quyền dân chủ, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng…Với tầm ảnh hưởng như vậy, vấn đề dự đoán rủi ro chính trị là hoạt động
không thể thiếu trong doanh nghiệp.
Nhà nước ta phải tạo ra môi trường chính trị ổn định, rộng mở cho sự phát triển kinh tế,
tạo sự thuận lợi tối đa cho phát triển nền kinh tế đất nước, và cho sự hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tạo lập môi trường chính trị phải thực hiện trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, thể chế
chính trị dân chủ, thể chế kinh tế có phù hợp với kinh tế thị trường, bình đẳng đối với mọi
thành phần kinh tế, tôn vinh các doanh nhân, các tổ chức chính trị và xã hội, ủng hộ
doanh nhân làm giàu chính đáng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
1.2.4

Môi trường văn hoá- xã hội

Môi trường văn hóa là không gian văn hóa được tạo nên bởi các quan niệm về giá trị,
nếp sống, cách ứng xử, tín ngưỡng, hứng thú, phương thức hoạt động, phong tục tập quán
và thói quen.
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


7

Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa người với người do luật lệ, các thể
chế, các cam kết, các quy định của cấp trên của các tổ chức…

Môi trường văn hóa – xã hội ảnh hưởng đến tâm lý, thái độ, đến hành vi và đến sự ham
muốn của con người. Nhà nước phải tạo ra môi trường văn hóa – xã hội đa dạng, đậm đà
bản sắc dân tộc, quý trọng, gìn giữ, phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp và tiếp thu nền
văn hóa hiện đại một cách phù hợp, tôn trọng và tiếp thu tinh hoa của nền văn hóa thế
giới, xây dựng nền văn hóa mới thích ứng với sự phát triển kinh tế và sản xuất kinh
doanh.
- Cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã hội
trong phát triển kinh tế. Nhà nước điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập trên cơ sở
mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, có thể sử dụng nhiều công cụ để thực hiện vai
trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách, tín dụng nhà nước và hệ thống
an sinh xã hội.
- Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện chức năng của
Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo dục, y
tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người được bình đẳng trong
việc tiếp cận các dịch vụ đó. Nhà nước nên tạo điều kiện để khai thác tiềm năng của khu
vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã
hội.
- Tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường cần phải đi đôi với việc phát triển bền vững.
Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính sách quyền sở
hữu công khai nguồn tài nguyên...để kiểm soát mức độ nguy hiểm đối với môi trường
sinh thái.
1.2.5

Môi trường sinh thái

Môi trường sinh thái, hiểu một cách thông thường, là một không gian bao gồm các yếu
tố, trước hết là các yếu tố tự nhiên gắn kết với nhau và tạo điều kiện cho sự sống của
cong người và sinh vật. Chúng là những điều kiện đầu tiên cần phải có để con người và
sinh vật sống. Dựa vào chúng, con người mới tiến hành lao động sản xuất để tồn tại và
phát triển, chẳng hạn như không khí để thở, nước để uống, đất để xây dựng, trồng trọt và

chăn nuôi, tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu, hoặc những thứ vật liệu để phục vụ
cuộc sống hàng ngày, cảnh quan thiên nhiên đất nước để thưởng ngoạn,…Môi trường
sinh thái có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nền kinh tế của đất nước và hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì:

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


8

+ Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng
“đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật
tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người
để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải gì khác, mà chính
là các yếu tố môi trường. Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có
không khí để thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi
giải trí, học tập nâng cao hiểu biết,… Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi
trường. Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên – kể cả sức lao
động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con người. Hay
nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống. Môi trường tự nhiên
(bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất
xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên. Thực
tế đã cho thấy, rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để
xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,… Tuy nhiên, cũng phải nói
rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người
(thiên tai), và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động
mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên.

+ Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển kinh
tế - xã hội
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần
của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao
chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài
người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ:
Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân
tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong hệ thống kinh tế - xã hội, hàng hóa được
di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân
chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn
luôn tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang
tồn tại trong địa bàn đó.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


9

Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi
trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng có thể
gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã
hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên – đối tượng của sự phát triển kinh
tế - xã hội hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế - xã hội
trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm
môi truờng khác nhau. Ví dụ:
- Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài

nguyên và năng lương của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt
động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một lượng lớn chất
thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Hiện nay việc có được mua bán hay
không quyền phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ
trong các hội nghị thượng đỉnh về môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự tự giác
chia sẻ tài lực với các nước nghèo để giải quyết những vấn đề có liên quan tới môi
trường.
- Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ sử dụng
20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo khổ ở các
nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng,
khoáng sản, đất đai,…) mà không có khả năng hoàn phục. Diễn đàn hợp tác Á – Âu
(ASEM) về môi trường họp vào tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã cho rằng nghèo đói
là thách thức lớn nhất đối với công tác bảo vệ môi trường hiện nay. Do vậy, để giải
quyết vấn đề môi trường, trước hết các nước giàu phải có trách nhiệm giúp đỡ các
nước nghèo giải quyết nạn nghèo đói.
Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô nhiễm
môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và
bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức dẫn tới hủy
hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất
đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật;
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


10

bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo vệ
môi trường,…
Như vậy, để đảm bảo kinh tế phát triển bền vững, Nhà nước phải tạo ra môi

trường sinh thái xanh, sạch, đẹp, đa dạng sinh học, bền vững. Nhà nước phải có biện
pháp chống ô nhiễm, chống hủy hoại môi trường tự nhiên sinh thái, cảnh quan thiên
nhiên bằng các biện pháp và các chính sách bảo vệ, hoàn thiện môi trường sinh thái.
1.2.6

Môi trường khoa học kỹ thuật

Môi trường kỹ thuật là không gian khoa học công nghệ bao gồm các yếu tố về số
lượng, tính chất và trình độ của các khoa học công nghệ: về nghiên cứu ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, về chuyển giao khoa học công nghệ,…
Ngày nay, khoa học công nghệ đã phát triển với tốc độ cao. Những thành tựu khoa
học công nghệ trong nhiều lĩnh vực đã xuất hiện. Tiến bộ khoa học công nghệ đã mở
ra môi trường rộng lớn cho nhu cầu của con người. Chúng ta không thể không tính
đến ảnh hưởng của khoa học công nghệ đến sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, đến
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nhà nước bằng chính sách của mình phải tạo ra một môi trường kỹ thuật hiện đại,
thích hợp, thiết thực, phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
1.2.7 Môi trường dân số
- Môi trường dân số là hệ thống các yếu tố tạo thành không gian dân số bao gồm quy mô
dân số, cơ cấu dân số, sự di chuyển dân số, tốc độ gia tăng dân số và chất lượng dân số.
Môi trường dân số là một trong những môi trường phát triển kinh tế.
- Nhà nước tạo ra một môi trường dân số hợp lý cho phát triển kinh tế bao gồm các yếu tố
số lượng và chất lượng dân số, cơ cấu dân số.
- Nhà nước phải có chính sách điều tiết sự gia tăng dân số với tỷ lệ hợp lý, thích hợp với
tốc độ tăng trưởng kinh tế; nâng cao chất lượng dân số trên cơ sở nâng cao chỉ số H.D.I
(human development index), bố trí dân cư hợp lý giữa các vùng, đặc biệt giữa đô thị và
nông thôn phù hợp với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
1.2.8 Môi trường quốc tế
Môi trường quốc tế là không gian kinh tế có tính toàn cầu, bao gồm các yếu tố có
liên quan đến các hoạt động quốc tế, trong đó có hoạt động kinh tế quốc tế. Môi trường


GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


11

quốc tế là điều kiện bên ngoài của sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nó có thể tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế, đến sự sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
Môi trường quốc tế cần được Nhà nước tạo ra là môi trường hòa bình và quan hệ
quốc tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
1.3 Nội dung chức năng tạo lập môi trường cho các hoạt động kinh tế của Nhà

nước
+Chủ động bình ổn giá cả để tạo môi trường cho đầu tư, tăng trưởng kinh tế bền
vững và cải thiện đời sống nhân dân
Trong kinh tế thị trường, là cơ sở để bố trí tài nguyên và kinh doanh sản xuất nó nẩy
sinh thông qua thị trường và phản ảnh nhanh nhạy cung – cầu của nền kinh tế. Sự giao
động kinh tế của nền kinh tế quốc dân, trước tiên biểu hiện ở sự giao động về giá cả, cho
nên quản lý giá cả bằng chính sách giá chính là một trong những nội dung chủ yếu về sự
can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường như: điều tiết quan hệ cung – cầu,
điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết quan hệ
cạnh tranh, môi trường kinh tế để chống đột biến xấu từ lạm phát, bảo hộ các hoạt động
sản xuất kinh
Bình ổn giá cả thị trường và phục vụ nhu cầu mua sắm các mặt hàng thiết yếu phục vụ
đời sống nhân dân, đảm bảo cân đối cung cầu, không để tình trạng xảy ra tình trạng thiếu
hàng, sốt giá, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội trong những tháng cuối năm và
dịp Tết Nguyên đán; tạo cơ hội và điều kiện cho các doanh nghiệp có uy tín mạnh bán

hàng và mở rộng sản xuất kinh doanh. Mục tiêu lớn nhất của chương trình là phục vụ đời
sống thiết yếu cho người tiêu dùng. Với uy tín của các doanh nghiệp tham gia chương
trình bình ổn được tạo dựng trong nhiều năm qua, việc giá cả các mặt hàng bình ổn được
điều chỉnh kịp thời và đúng lúc sẽ giúp người tiêu dùng yên tâm
Thu hút các đối tác, doanh nghiệp đầu tư sản xuất, tăng năng suất, sản lượng hàng hóa
thiết yếu phục vụ nhân dân.
+Huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước bằng nhiều giải pháp cụ thể,
thiết thực
Cán bộ là cái gốc để hoàn thành tốt mọi công việc. Vì vậy, cần hoàn thiện chế độ
công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính
nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ,

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


12

công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn, gắn với việc tinh giản biên chế, nâng cao
chất lượng đội ngũ... Tăng cường cán bộ cho cơ sở, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng
xa, nơi có nhiều khó khăn. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức... Đổi
mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn để họ
yên tâm phấn khởi làm việc.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngày càng được chú trọng cả về số
lượng, chất lượng. Hiện, Bộ đã và đang áp dụng những chính sách khuyến khích của
Nhà nước đối với các trường hợp tuyển dụng đã tốt nghiệp thạc sỹ, tiến sỹ, sinh viên
xuất sắc. Bộ đã chú trọng, tạo điều kiện cho những trí thức ưu tú được cống hiến, thể
hiện tốt nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong công việc. Rất nhiều cán
bộ, công chức, viên chức trẻ đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; đã lựa

chọn và cử nhiều công chức trẻ đi đào tạo ở nước ngoài và sử dụng họ sau khi đào
tạo.
+Đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình hình
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cần khắc phục nhược điểm trong công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế xã hội đó là ôm đồm quá nhiều mục tiêu, theo đó tập trung cho những mục tiêu hiệu
quả và phát triển bền vững.
Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội theo hướng nâng cao chất lượng quy hoạch bằng cách nâng vị trí pháp lý của văn
bản ban hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lên tương đương với kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 10 năm cần lược
bỏ sự trùng lặp các nội dung được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm, thay vào đó là định hướng cho việc quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các vùng,
các ngành có vai trò chiến lược, có căn cứ khoa học, có tầm nhìn dài hạn, được công khai
hóa và thu hút sự đóng góp ý kiến của đông đảo nhân dân.
Đổi mới cách thức thông qua và phê duyệt kế hoạch, đồng thời tăng cường các biện
pháp kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kế hoạch. - Cần có kế hoạch tổng thể cho
vực kinh tế nhà nước theo hướng tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động công
ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ sở; giữ các vị trí then chốt, trọng yếu trong
nền kinh tế; giải quyết những vướng mắc trong việc thực thi những chính sách cổ phần
hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


13

+Nâng cao chất lượng dự toán ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư phát triển cho các

vùng khó khăn
Trên cơ sở bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước cần tiến hành ưu tiên ngân sách và
các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng của từng vùng
và trên phạm vi cả nước; khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, đặc
biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển vào lĩnh vực này,
chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu và khắc phục tình trạng đầu tư giàn trải,
lãng phí, kém chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ưu tiên phát triển hạ tầng thị
trường, đó là: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh,
giao dịch, hệ thống bến bãi, kho hàng và các dịch vụ khác như điện, nước, trường học, y
tế...
+Mở cửa và phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có khả năng tạo
ra nhanh- nhiều giá trị tăng thêm, các dịch vụ cao cấp
Tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm vận tải
hàng không, xây dựng, xuất khẩu lao động… khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức
cạnh tranh cao; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 2006-2010 cao hơn tốc
độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành và nội ngành
dịch vụ, tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP của cả nước, tiến tới đạt khoảng 45% vào
năm 2010.
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm
năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch
vụ để cùng cạnh tranh và phát triển.
Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động
dịch vụ du lịch, tài chính-ngân hàng, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ, bưu chính viễn
thông, vận tải hàng không và đường biển; giảm thâm hụt cán cân dịch vụ.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế



14

Đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển các dịch vụ văn hoá, giáo dục y tế, thể dục thể thao,
dịch vụ việc làm…theo cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân
và từng bước hội nhập quốc tế.
Khảo sát, đánh giá sức cạnh tranh của từng lĩnh vực dịch vụ hiện tại và trong tương lai,
phân loại các dịch vụ cần được bảo hộ, các lĩnh vực loại trừ tạm thời, loại trừ hoàn toàn
cho việc mở cửa các ngành dịch vụ và dành đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc cho các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Chỉ thị này cũng đặt yêu cầu cụ thể cho các Bộ/ngành/địa phương về công tác xây dựng
chiến lược, quy hoạch phát triển dịch vụ cũng như các công tác liên quan khác nhằm hỗ
trợ việc hoạch định chính sách ngành dịch vụ.
+Tập trung chỉ đạo để chuyển biến rõ rệt một số khâu còn yếu kém của chương trình
cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả chỉ đạo điều hành của bộ máy
HCNN
Muốn phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tất yếu
phải có đầu tư. Mà Nhà nước chỉ đầu tư một phần về hạ tầng, còn chủ yếu vẫn là các
thành phần kinh tế, doanh nghiệp, kể cả hộ cá thể.
"Để tạo được môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế phải làm tốt các
vấn đề sau: thủ tục hành chính, mặt bằng sản xuất, đa dạng hoá nguồn vốn và trách nhiệm
của chính quyền địa phương".
Thủ tục hành chính hiện nhiều nơi còn rườm rà gây mất thời gian của các doanh nghiệp,
tăng chi phí. Điều này sẽ cản trở việc tiến hành đầu tư của các thành phần kinh tế.
Về đất đai - mặt bằng sản xuất kinh doanh - lâu nay đã được Chính phủ nói đến rất
nhiều, nhưng đây là vấn đề rất khó khăn. Việc giải toả mặt bằng ở nhiều nơi gặp trở ngại
do dân đòi đền bù cao theo giá thị trường. Chính phủ cũng đã có chỉ đạo phải tạo được
mặt bằng sản xuất, thông qua Luật Đất đai năm 2003.
Việc đa dạng hoá nguồn vốn là rất cần thiết. Lâu nay các doanh nghiệp chỉ nhìn vào
nguồn vốn từ ngân hàng, hoặc vốn ưu đãi của Nhà nước. Nhưng ưu đãi của nhà nước

hằng năm chỉ có 10.000 tỷ mà lại ưu tiên cho các dự án công trình có tính chất chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, hay tạo ra năng lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ (như các nhà máy
phân đạm, điện, phôi thép lớn). Các doanh nghiệp chưa khai thác nguồn vốn khác, qua
các định chế tài chính trung gian, các quỹ hay thị trường chứng khoán.
• Những điều nhà nước phải làm để tạo lập các môi trường:

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


15

- Đảm bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ đối
ngoại, trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Xây dựng và thực thi một cách nhất quán các chính sách kinh tế-xã hội theo
hướng đổi mới và chính sách dân số hợp lý.
- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
- Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bảo đảm điều kiện cơ bản cho hoạt
động kinh tế có hiệu quả: giao thông, điện nước, thông tin, dự trữ quốc gia.
- Xây dựng cho được một nền văn hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và thừa kế tinh hoa văn hoá của nhân
loại.
- Xây dựng một nền khoa học-kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cần thiết và phù
hợp, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, cải cách nền giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật và trí tuệ
phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
- Xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ và sử dụngcó hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ và hoàn thiện môi trường tự nhiên, sinh thái.
1.4 Những biện pháp để nhà nước tạo lập môi trường


+Đảm bảo sự ổn định kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ đối ngoại,
trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo. Giữ
vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.Bố trí thế trận quốc phòng, an
ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc
phòng, an ninh với phát triển kinh tế-xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy
hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội, quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


16

Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Tăng cường quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng; thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về
biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở luật
pháp quốc tế và quy tắc ứng xử của khu vực.
+Xây dựng thực thi một cách nhất quán các chính sách kinh tế- xã hội theo hướng đổi
mới và chính sách dân số hợp lý
Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế
thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội.Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tếcông lập và ngoài công lập;

hoàn chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở.
Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con
người Việt Nam.Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần chúng và thể thao thành tích
cao.Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thay
thế, bảo đảm cân bằng giới tính hợp lý, nâng cao chất lượng dân số. Đẩy mạnh xã hội hoá
trong các lĩnh vực y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình và thể dục thểth
+Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.Hoàn thiện chính
sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền
trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền
công. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất
là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước
ngoài; giữ mức nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường
vai trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


17

Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng.Mở rộng các hình
thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách
lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính
sách về đất đai bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của
người giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có
hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng lãng phí và tham nhũng
đất đai.

+Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bảo đảm điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh
tế có hiệu quả: giao thông, điện nước, thông tin, dự trữ quốc gia
Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và
cơ cấu lại nền kinh tế. Tập trung rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng kết cấu hạ
tầng trong cả nước và trong từng vùng, nhất là giao thông, thủy điện, thủy lợi, bảo đảm
sử
Phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây
dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả
lũ. Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tàu thuyền để giảm
nhẹ thiệt hại cho nhân dân. Phát triển nhanh và bền vững nguồn điện, hoàn chỉnh hệ
thống lưới điện, đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm cung cấp đủ
điện cho nhu cầu phát triển.Hiện đại hoá ngành thông tin - truyền thông và hạ tầng công
nghệ thông tin.
+Xây dựng cho được một nền văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và thừa hưởng tinh hoa văn hóa
nhân loại
Tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng
thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn hóa, xã hội. Nâng cao
thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Có chính sách và các giải pháp phù hợp
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


18

nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành
thị.Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng với
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Nhà nước không ngừng nâng cao

mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân dân.
Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt
đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động
lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống
và môi trường văn hóa lành mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa
trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt
Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã
hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ.
+Xây dựng một nền khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, cần thiết và phù hợp, đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, cải cách giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật và trí tuệ phục vụ cho
sự phát triển của kinh tế.
Hướng trọng tâm hoạt động khoa học, công nghệ vào phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu
quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng
cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tăng
cường hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ.
Tăng nhanh năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng điểm. Gắn các mục
tiêu, nhiệm vụ khoa học, công nghệ với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội
ở từng cấp, ngành, địa phương và cơ sở.
Đẩy mạnh nghiên cứu - triển khai, ứng dụng công nghệ; phát triển hợp lý, đồng bộ
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.Khoa học xã hội làm
tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo xu hướng phát triển, cung cấp
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


19


luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa học, công nghệ làm nền tảng cho phát triển
kinh tế tri thức như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ môi trường... Tập trung phát triển sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng
lớn trong một số ngành, lĩnh vực.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là
lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia,
quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn.
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát
triển của các lĩnh vực, ngành nghề.
+Xây dựng thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, hoàn thiện môi trường tự nhiên, sinh thái
Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường
với phát triển kinh tế-xã hội.Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường.Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng mới phải
bảo đảm yêu cầu về môi trường. Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài
đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi
trường và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương trình
trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích các khu bảo
tồn thiên nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng
sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài
nguyên chưa qua chế biến.Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự


Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


20

trường.Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch,
sản xuất sạch, tiêu dùng sạch.Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển
các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và
đánh giá tác động để chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng,
chống thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước
biển dâng. Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ
của cộng đồng quốc tế.
1.5 Một số hạn chế của chức năng tạo lập môi trường

Còn tồn tại cơ chế xin – cho trong tạo lập môi trường, tạo nên thiếu công khai minh
bạch
Cơ chế xin-cho là một trong những tàn dư còn sót lại của thời kỳ bao cấp. Nét đặc
trưng quan trọng nhất của cơ chế này là quyền tự do ý chí to lớn của người cho, và vị thế
thấp kém của người xin.Công bằng mà nói, cơ chế xin-cho, cũng như mọi loại cơ chế,
đều có hoàn cảnh lịch sử riêng của nó.Với một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xin-cho, cũng
như bao cấp, đều là cần thiết và đúng đắn.Vấn đề chỉ là: nó không còn phù hợp, và trong
điều kiện mới, khi những ràng buộc chặt chẽ về pháp lý, về tư tưởng và đạo đức không
còn, cơ chế xin-cho đang đẻ ra tiêu cực.
Ở ta hiện nay có thể xin rất nhiều thứ và cho cũng rất nhiều thứ. Ngân sách, chức tước,
bằng cấp, dự án, tín dụng, đất đai, các nguồn tài nguyên…là những thứ đều có thể xin và
đều có thể cho. Chuyện xin-cho liên quan đến tiền xảy ra vì thông thường từ 22-23%
GDP của đất nước được tập trung vào ngân sách. Và đây là tiền do Nhà nước chi tiêu.
Tiền do Nhà nước chi tiêu còn có cả tiền vay của dân và của nước ngoài. Đây là một khối

lượng tiền rất lớn.Quy trình phân bổ ngân sách chặt chẽ đến mấy thì vẫn còn có rất nhiều
kẽ hở.

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


21

Còn chuyện xin-cho liên quan đến quyền đa dạng và phức tạp hơn nhiều.Trước hết, các
quyền này nhiều vô kể. Một số trong những quyền quan trọng nhất là: quyền tiếp cận tín
dụng, quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội, quyền tiếp cận thị trường và quyền tiếp cận các
nguồn tài nguyên (trong đó có đất đai). Rủi ro lớn nhất ở đây là không dễ thiết kế các tiêu
chí để xác định ai được, ai không được và xác thực ai đáng được ai không.
Nhà nước quá ưu ái cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước nên tạo ra môi trường
ảo cho các doanh nghiệp này,
Những năm qua, để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đất nước, các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước luôn được sự “ưu ái” từ các cấp quản lý với kỳ vọng tạo sự ảnh hưởng,
chi phối, lan toả đến các hoạt động kinh tế - xã hội; tạo động lực nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường; định hướng, dẫn dắt cộng đồng doanh nghiệp theo mục tiêu của Nhà
nước.Kỳ vọng là vậy, nhưng thực tế cho thấy sự đóng góp của khối Doanh nghiệp nhà
nước chưa tương xứng vào tăng trưởng kinh tế quốc dân.Mặc dù, các Doanh nghiệp nhà
nước đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của xã hội, nhưng sự đóng góp cho nền kinh
tế không tương xứng, xét về tỷ trọng đóng góp cho GDP giải quyết việc làm, hiệu quả sử
dụng các yếu tố sản xuất (đất đai, tiền vốn, nguyên vật liệu…) kém hơn các loại hình
Doanh nghiệp khác… Cơ chế quản lý vẫn còn nhiều bất cập, như quyền quản lý nhà nước
đối với Doanh nghiệp nhà nước, vai trò của chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu,
vai trò và cơ chế trách nhiệm, quyền lợi của HĐQT hoặc hội đồng thành viên chưa rõ
ràng; trong khi quyền chủ động điều hành sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp nhà

nước lại bị hạn chế; cơ chế tài chính và cơ chế phân phối lợi nhuận của Doanh nghiệp, sự
gắn kết lợi ích vật chất với trách nhiệm của người quản lý và đội ngũ lao động bộc lộ
nhiều khiếm khuyết, bất cập.
Phần lớn Doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu, chủ
chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện lực, xi măng, sắt thép, khai khoáng... nhưng hiệu
quả sinh lợi không cao; Trình độ công nghệ, năng suất lao động của khá nhiều Doanh

GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


22

nghiệp còn thấp; sức cạnh tranh còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước.
Mặc dù được hưởng độc quyền kinh doanh trên một số lĩnh vực nhưng không ít tập
đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp vào GDP ngày một
giảm; sự thất bại của Vinashin là một điển hình và đang là gánh nợ cho Ngân sách nhà
nước.
Nhà nước nhiều khi lo tăng trưởng hơn là lo ổn định, ví dụ như lo đầu tư vào đâu, lo
kiếm vốn cho các tập đoàn nhà nước, làm chỗ dựa cho các tập đoàn - công việc đáng ra
thuộc trách nhiệm chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc chống lạm phát, ổn định
môi trường vĩ mô... nhiều khi chưa được quan tâm đủ tầm. Và hệ lụy là sự bất ổn kinh tế
vĩ mô, là tâm lý bất an của doanh nghiệp và phân phối nguồn lực không công bằng...
Công tác dự toán ngân sách yếu, chủ yếu dựa vào năng lực của người lãnh đạo tập
đoàn gây ra những hiện tượng tiêu cực
Công tác lập, xét duyệt, dự toán chưa sát thực tế, việc tổ chức thực hiện thu ngân sách
công đoàn còn để thất thu lớn, nhất là khu vực ngoài quốc doanh; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài; Phân phối ngân sách công đoàn giữa các cấp công đoàn chưa hợp lý, thiếu

thống nhất, chưa động viên khai thác nguồn thu. Việc sử dụng NSCĐ tích luỹ hiệu quả
không cao; Chi tiêu không đúng chế độ, có đơn vị để thâm hụt ngân sách; Việc quản lý,
sử dụng các quỹ xã hội do công đoàn phát động chưa đảm bảo đúng nguyên tắc…. Trong
khi đó công tác kiểm tra kiểm soát của Uỷ ban Kiểm tra và Ban Tài chính công đoàn các
cấp còn nhiều hạn chế, chưa kịp thời. Việc thực hiện kết luận của Kiểm toán Nhà nước,
các đoàn kiểm tra thiếu nghiêm túc.
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ
2.1 Môi trường Kinh tế
Sau hơn hai mươi năm kể từ đại hội đảng vi năm 1986, công cuộc đổi mới của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tếViệt Nam luôn duy trì được tốc độ
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


23

tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm. Việc trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới ( WTO) thúc đẩy nền kinh tếViệt Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào
kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh
tếViệt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp
lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi năm 1992
đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt
các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ởViệt Nam cũng từng bước được
hình thành. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh,

phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua
đã mang lại choViệt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã
tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong
việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế
đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm
một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu
lao động, kiều hối...
Trong hơn 20 năm đổi mới, gdp của Việt Nam đã tăng liên tục. Từ năm 2001 đến nay,
tốc độ tăng gdp của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Cùng với việc duy trì tốc
độ tăng trưởng gdp, cơ cấu kinh tế trong nước của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể.
Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các
doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá
nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành
chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều chỉnh, sắp
xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của công ty
nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc chuyển các
công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các
doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu
vực kinh tế quốc doanh.

2.2 Môi trường Pháp lí
Nhìn một cách tổng thể thì môi trường pháp lý Việt Nam ngày càng mở rộng về
lĩnh vực xã hội được điều chỉnh. Song, theo yêu cầu thượng tôn pháp luật của WTO, môi
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế



24

trường pháp lý của Việt Nam còn có nhiều vấn đề phải bàn, trong đó, nổi cộm hơn cả là
chúng ta vẫn chưa đủ các chế tài pháp lý và chất lượng xây dựng các văn bản luật còn
quá thấp.
Trong quá trình cải cách kinh tế thị trường của Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng
việc ban hành mới và điều chỉnh, bổ sung các luật về kinh doanh, như Luật Cạnh tranh
(năm 2000), Luật Doanh nghiệp (năm 2005), Luật Đầu tư (năm 2005), Luật Thương mại
(năm 2005), Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005), Luật Thuế thu nhập cá nhân (năm 2007),
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (năm 2008), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (năm 2008)...,
có thể nói rằng hệ thống pháp luật về kinh doanh đã tương đối đầy đủ và đồng bộ, bảo
đảm cơ sở pháp lý để mở rộng các quyền về tự do kinh doanh cho tất cả các thành phần
kinh tế. Tất cả các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, khu vực tư nhân và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đều được tự do kinh doanh những hàng hóa và dịch vụ mà
pháp luật không cấm. Chính sách về gia nhập thị trường, trong đó đặc biệt là khâu thành
lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, đã tạo ra một bước đột phá cho sự phát triển
của khu vực tư nhân. Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Chính phủ Việt
Nam đã nỗ lực để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới DNNN theo các cam kết quốc
tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cắt giảm các hình thức trợ cấp không phù
hợp và xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước
ngoài... Môi trường kinh doanh cho các đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cải thiện trên
nhiều mặt, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được bình đẳng về pháp lý như các
doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, do đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi và kém phát triển, nhiều
yếu tố của môi trường kinh doanh chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và đang
trong quá trình vừa hình thành vừa hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện thể chế kinh doanh
diễn ra còn chậm so với cam kết hội nhập và mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư.
Khung khổ pháp lý vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự minh bạch và dễ dự

đoán. Trên thực tế vẫn còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, hiện tượng tham
nhũng còn khá phổ biến, nhiều biện pháp can thiệp của Nhà nước vào thị trường chưa
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


25

thực sự hiệu quả, phân bổ nguồn lực xã hội còn tập trung chủ yếu trong các công ty nhà
nước...
2.3 Môi trường Chính trị
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể
thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương
thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp
và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống
Trong hơn 25 năm qua, môi trường chính trị và xã hội tại Việt nam từng bước
được phát triển theo hướng cởi mở và tạo điều kiện cho người dân phát huy vai trò tham
gia tích cực hơn. Vai trò kiểm tra giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ ngày càng
được nâng cao. Mặc dù vậy, Việt nam vẫn cần đẩy mạnh và phát huy hơn nữa quyền làm
chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ trực tiếp trong quản lý điều hành để từng bước đạt
được mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Đổi mới chính trị được Đảng ta xác định là kiên trì mục tiêu CNXH, tiếp tục con
đường bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đi tới CNXH; đổi mới chính trị không có nghĩa
là thay đổi hoặc từ bỏ chế độ XHCN. Thực chất của đổi mới chính trị là đổi mới tư duy
chính trị về CNXH và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ chế, chính sách mà hạt nhân
cơ bản là giải quyết hợp lý, hài hòa quan hệ lợi ích; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh, thực hiện
tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá

trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Nội dung cơ bản của đổi mới chính trị ở nước ta là đổi mới tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH, trong đó trọng tâm là đổi
mới tư duy chính trị và hệ thống chính trị.
Đổi mới chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, ngoài các yếu tố về trình độ
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trong nước, còn chịu sự
GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


×