Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Luận văn thạc sĩ kinh tế Kế toán chi phí và giá thành dịch vụ tại công ty cổ phần tư vấn xây dựng công trình hàng hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 117 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là

: Phạm Minh Tuấn

Sinh ngày

: 27/08/1991

Nơi sinh

: Hà Nội

Học viên lớp

: CH19B-Kế toán

Khóa 2014-2015

: Trường Đại Học Thương Mại

Mã số

: 63 34 03 01

Tôi xin cam đoan:
1. Luận văn thạc sỹ kinh tế “Kế toán chi phí và giá thành
dịch vụ tại Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng
hải” là do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Thúy


Vân
2. Các số liệu, tài liệu, dẫn chứng mà tôi sử dụng trọng
luận văn do chính tôi thu thập, xử lý mà không có sự sao chép không
hợp lệ nào.
Hà Nội ngày

tháng

Học viên

Phạm Minh Tuấn

năm 2015


2


3

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài tác giả đã nhận được sự
quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ của nhiều tập thể trong và ngoài
trường. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường
Đại học Thương Mại, xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc,
Phòng kế toán, các anh (chị) trong Công ty cổ phần Tư vấn xây
dựng công trình Hàng hải đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành đề tài một cách tốt nhất.
Đặc biệt tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Hà

Thị Thúy Vân - người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn và
giúp đỡ tôi tận tình trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu
bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được các
ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô và các đồng nghiệp để hoàn
thiện hơn nữa luận văn của mình.
Trân trọng cám ơn!

Hà Nội ngày

tháng

Học viên

năm 2015


4

Phạm Minh Tuấn

MỤC LỤC


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Kế toán chi phí và giá thành có vai trò vô cùng quan trọng đối

với bất kỳ một doanh nghiệp dù hoạt động trong lĩnh vực nào. Trong
những năm gần đây ở Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu nhằm
mục đích hoàn thiệc công tác kế toán chi phí và giá thành tại các
doanh nghiệp dịch vụ. Các công trình nghiên cứu đã tiếp cận ở nhiều
góc độ, phạm vi khác nhau, tuy nhiên đối với lĩnh vực tư vấn thiết kế
thì lại chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về kế toán chi phí và giá thành
dịch vụ. Một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này có thể kể đến như:
Đê tài “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp tư vấn thiết kế thuộc
Tổng công ty tư vấn thiết kế giao thông vận tải” Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành kế toán của tác giả Bùi Thị Thu Hằng – Trường Đại học
Thương mại (năm 2006) đã trình bày một số lý luận cơ bản về kế toán
chi phí và giá thành dịch vụ, đưa ra các phương pháp nghiên cứu và
các kết quả phân tích thực trạng kế toán chi phí và giá thành tại các
doanh nghiệp tư vấn thiết kế thuộc Tổng công ty tư vấn thiết kế giao
thông vận tải. Tác giả đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện về tổ chức
công tác kế toán chi phí và giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp
này.
Đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí tại công ty cổ phần tư vấn thiết
kế giao thông vận tải phía Nam” Luận văn thạc sĩ chuyên ngành kế
toán của tác giả Trịnh Thị Tuyết Nga - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
(năm 2009) đã đi sâu vào nghiên cứu công tác kế toán chi phí tại công


6

ty Cổ phần Tư vấn Thiết Kế GTVT Phía Nam. Đề tài đã đưa ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện và khắc phục các hạn chế của kế toán chi
phí tại Công ty như hoàn thiện phân loại chi phí, xây dựng kế toán chi
phí dựa trên mức độ hoạt động, xây dựng hệ thống báo cáo phục vụ

kiểm soát phí, xác định chi phí mục tiêu, và thiết kế phần mềm kế toán
chi phí áp dụng thống nhất trong Công ty.
Đề tài “Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại Công ty cổ phần tư
vấn thiết kế xây dựng Bình Định” Luận văn thạc sĩ chuyên ngành kế
toán của tác giả Nguyễn Hoàng Nghiêm – Đại học Đà Nẵng (năm
2012) đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về kế toán quản trị chi phí
cả về lý luận và thực tiễn tại Công ty CP Tư vấn Thiết kế Xây dựng
Bình Định nhằm đạt mục tiêu hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại
Công ty, các giải pháp này tập trung vào vấn đề phân loại chi phí, lập
dự toán chi phí, tập hợp chi phí và tính giá thành, phân tích biến động
chi phí,...
Luận án tiến sĩ "Hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp Xây lắp thuộc
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Việt Nam" của tác giả Nguyễn
Quang Hưng - Trường Học Viện Tài Chính (năm 2013) đã hệ thống
hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận về tổ chức kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Các
vấn đề được nghiên cứu một cách logic và khoa học, góp phần nâng
cao nhận thức lý luận trong tổ chức kế toán ở các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Luận án đã đề xuất các giải
pháp hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm, bao gồm: hoàn thiện về tổ chức phân công nhiệm vụ của bộ


7

máy kế toán; hoàn thiện về tổ chức lập và luân chuyển chứng từ kế
toán, hoàn thiện nội dung, phân loại chi phí xây lắp; hoàn thiện về tổ
chức vận dụng tài khoản kế toán tài chính và kế toán quản trị, hoàn
thiện về phương pháp tính giá thành sản phẩm...


Qua việc tổng quan các đề tài nghiên cứu về kế toán chi phí và
giá thành sản phẩm trên, tác giả đã tổng hợp được một số nội dung
liên quan đến đề tài mình đang nghiên cứu như về mặt phương pháp
luận, cơ sở lý luận về kế toán chi phí và giá thành dịch vụ dưới góc độ
kế toán tài chính và kế toán quản trị, thực tiễn công tác kế toán chi phí
và giá thành dịch vụ tại các doanh nghiệp trong lĩnh vực tư vấn thiết
kế. Đây là những tài liệu tham khảo rất cần thiết trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện đề tài của tác giả. Tuy nhiên các đề tài nghiên cứu
trên hoặc thời gian đã cách đây khá lâu hoặc chỉ phù hợp với đặc thù
của doanh nghiệp được nghiên cứu. Do vậy đề tài nghiên cứu của tác
giả đảm bảo tính mới về đối tượng khảo sát và có ý nghĩa thiết thực
cho doanh nghiệp.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
việc xây dựng cở sở hạ tầng và các công trình giao thông ngày càng
đóng vai trò to lớn và kéo theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của dịch
vụ tư vấn thiết kế xây dựng. Tư vấn thiết kế có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc đầu tư xây dựng một công trình, đăc biệt là các dự án
lớn. Dịch vụ tư vấn thiết kế cung cấp những thông tin quan trọng,
những giải pháp sáng tạo, những tính toán tối ưu nhằm đảm bảo


8

thành công cho toàn bộ dự án. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng
gay gắt giữa các doanh nghiệp trong ngành tư vấn thiết kế, đặc biệt là
cạnh tranh về giá đấu thầu thì các thông tin về chi phí và giá thành
dịch vụ là căn cứ quan trọng để các nhà quản trị ra quyết định. Chính
vì vậy, kế toán chi phí và giá thành với nhiệm vụ chính là ghi chép và

cung cấp thông tin một cách kịp thời và chính xác sẽ góp phần đáng
kể vào sự thành công của doanh nghiệp.
Là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành tư vấn thiết kế công
trình giao thông, Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng
hải (CMB) cũng đang chịu sự canh tranh gay gắt đến từ các đối thủ cả
trong và ngoài nước. Vì vậy các thông tin về chi phí và giá thành dịch
vụ được Công ty hết sức quan tâm. Giảm giá thành và nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ là mục tiêu quan trọng được ban lãnh đạo
Công ty hết sức coi trọng. Do vậy, hệ thống kế toán chi phí giá thành
phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm sản phẩm, đặc thù của lĩnh
vực, với quy trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Hệ thống kế
toán chi phí hoàn thiện sẽ là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp
kiểm soát chi phí, đánh giá chính xác trách nhiệm của các bộ phận
sản xuất, kịp thời chấn chỉnh sai sót ngay trong quá trình hoạt động
nhằm giúp doanh nghiệp đạt mục tiêu đề ra. Các thông tin về giá
thành càng chính xác sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp bỏ giá thầu hợp
lý.
Tuy nhiên, kế toán chi phí và giá thành đang được thực hiện tại
Công ty qua tìm hiểu của tác giả còn một số vấn đề trong việc tập hợp
và phân bổ chi phí cũng như xác định giá thành một cách chính xác
như việc hạch toán chưa đúng theo các chuẩn mực, chế độ kế toán


9

hay việc lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí chưa phản ánh đúng
bản chất khi tính giá thành sản phẩm, làm sai lệch thông tin về giá
thành gây khó khăn cho doanh nghiệp cộng thêm việc đội ngũ kế toán
của Công ty rất mỏng khó đáp ứng được yêu cầu. Do đó, tác giả chọn
đề tài: “Kế toán chi phí và giá thành dịch vụ tại Công ty cổ phần

Tư vấn xây dựng công trình Hàng hải” hy vọng có thể đóng góp
một số giải pháp để nâng cao tính chính xác và hợp lý của thông tin kế
toán chi phí và giá thành dịch vụ, góp phần vào sự thành công của
Công ty.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần khái quát và làm rõ nét hơn
những lý luận cơ bản về kế toán chi phí và giá thành dịch vụ.
- Về mặt thực tiễn: Khảo sát thực trạng kế toán chi phí, xác định giá thành
dịch vụ tư vấn tại Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng hải. Đề
tài tập trung nghiên cứu việc tuân thủ những qui định của chuẩn mực và chế
độ kế toán doanh nghiệp hiện hành về kế toán chi phí và giá thành của đơn vị;
tìm ra những hạn chế, bất cập trong kế toán chi phí và giá thành dịch vụ tại
đơn vị khảo sát, trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm giải
quyết vấn đề.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kế toán chi phí và giá thành dịch vụ tư vấn thiết kế
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các nghiệp vụ phát sinh chủ
yếu trong năm tài chính 2014.


10

+ Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực hiện tại trụ sở Hà Nội của
Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng hải.
+ Về nội dung: Đề tài nghiên cứu trên phương diện kế toán tài chính là
chủ yếu nhưng đồng thời cũng vận dụng kế toán quản trị trong việc lựa chọn
các tiêu thức phân bổ khi tính giá thành sản phẩm và cung cấp thông tin.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp có sẵn:

Tìm kiếm, nghiên cứu các tài liệu kế toán như: Chế độ kế toán doanh
nghiệp của Việt Nam, chuẩn mực kế toán, các quyết định, thông tư hướng
dẫn, chuẩn mực kế toán quốc tế, các giáo trình kế toán… Sưu tầm, nghiên cứu
các bài viết, các ý kiến trao đổi của các chuyên gia trên sách, báo, tạp chí,
internet…
Phương pháp điều tra thực tế:
Trực tiếp đến công ty để thu thập các chứng từ, tài liệu cảu Công ty
phục vụ cho đề tài như bộ máy tổ chức, quy trình thực hiện dịch vụ, quy chế
tiền lương,… Phỏng vấn trực tiếp kế toán trưởng của công ty cũng như những
người có liên quan về các vấn đề trong phạm vi của đề tài: kế toán trưởng, các
kỹ sư thiết kế…
Phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu:
Đối với dữ liệu thứ cấp:
Sau khi thu thập và tổng hợp ý kiến của các chuyên gia, tác giả
sử dụng các phương pháp gồm: tổng hợp thông tin, so sánh, đối
chiếu, phân tích, phán đoán,… đánh giá thông tin, ghi nhận mức độ
ảnh hưởng của các văn bản, quy định pháp luật tới hoạt động xác
định chi phí và tính giá thành của doanh nghiệp.


11

Đối với dữ liệu sơ cấp:
Sau khi tìm hiểu và so sánh các thông tin của người cung cấp về
vấn đề chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, tác giả đánh giá và
phân loại cụ thể mức độ ảnh hưởng của các thông tin này, tập trung
khai thác thêm về các chi phí có mức độ trọng yếu và ảnh hưởng
lớn,tách các chi phí nhỏ và tìm thêm những chi phí thực tế đơn vị chưa
ghi nhận hoặc ghi nhận thiếu hay đánh giá sai về bản chất hạch toán.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Trên cơ sở phân tích, đánh giá những ưu, nhược điểm về kế toán chi phí
và giá thành dịch vụ tại Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng
hải, đề tài đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm tìm ra cách thức tập hợp
và phân bổ chi phí để xác định giá thành dịch vụ tư vấn một cách hợp lý và
thống nhất để đảm bảo chức năng cung cấp thông tin một cách kịp thời, chính
xác của kế toán.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu và 3 chương:
Phần mở đầu: Thể hiện tổng quan tình hình nghiên cứu về kế toán chi
phí và giá thành dịch vụ của Việt Nam trong thời gian qua, tính cấp thiết đề
tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đè tài.
Chương 1: Lí luận chung về kế toán chi phí và giá thành trong doanh
nghiệp dịch vụ.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí và giá thành dịch vụ tại Công ty
cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng hải.


12

Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí và giá thành
tại Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình Hàng hải.


13

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ GIÁ
THÀNH TRONG DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ
1.1. Một số vấn đề chung về chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
dịch vụ

1.1.1. Khái niệm, phân loại chi phí
1.1.1.1. Khái niệm
Trong doanh nghiệp, chi phí kinh doanh là một phạm trù rất rộng bao
gồm các loại chi phí phát sinh liên quan đến các hoạt động sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, và các hoạt động khác.
Theo giáo trình Kế toán tài chính (tái bản năm 2010) của Học viện tài
chính do GS. TS Ngô Thế Chi và TS. Trương Thị Thủy chủ biên, “chi phí
của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao
động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, và tính cho một kỳ nhất định”. Trong
đó hao phí lao động sống được biểu hiện như tiền lương, các khoản trích theo
lương của người lao động phát sinh ghi vào chi phí sản xuất. Hao phí lao
động vật hoá biểu hiện của nó là giá trị nguyên vật liệu sử dụng, công cụ dụng
cụ xuất dùng, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho sản xuất. Đây là các tư
liệu lao động và đối tượng lao động được người lao động tác động và chuyển
hóa thành sản phẩm.
Theo giáo trình Kế toán tài chính (năm 2010) của trường Đại học
Thương mại do TS. Nguyễn Tuấn Duy và TS. Đặng Thị Hòa làm chủ biên
đưa ra khái niệm: “Chi phí sản xuất là những chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất chế tạo sản phẩm và cung ứng dịch vụ bao gồm chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung”.


14

Theo giáo trình Kế toán chi phí giá thành của T.S Phan Đức Dũng, Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh (2009): “Chi phí là những hao phí lao động
xã hội được biểu hiện bằng tiền trong quá trình hoạt động kinh doanh. Chi
phí của doanh nghiệp là tất cả những chi phí phát sinh gắn liền với doanh

nghiệp trong quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động từ khâu mua
nguyên vật liệu, tạo ra sản phẩm đến khi tiêu thụ.”
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 01 – “Chuẩn mực chung” thì
“Chi phí là tổng giá trị khoản làm giảm lợi ích trong kỳ kế toán dưới hình
thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các
khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân
phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC – Hướng dẫn Chế độ kế toán Doanh
nghiệp thì “Chi phí là những khoản làm giảm lợi ích kinh tế, được ghi
nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh hoặc khi có khả năng tương đối
chắc chắn sẽ phát sinh trong tương lai không phân biệt đã chi tiền hay
chưa".
Như vậy, từ các khái niệm về chi phí trên ta có thể thấy bản chất chi phí
của doanh nghiệp là những tiêu hao về nguồn lực như tài nguyên, vật chất,
sức lao động… đã hoặc có khả năng tương đối chắc chắn sẽ được sử dụng
trong quá trình sản xuất kinh doanh và được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào để tiến hành hoạt động cũng đều phải có đủ 3
yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự tiêu hao các
yếu tố này trong quá trính sản xuất kinh doanh đã tạo ra các chi phí tương
ứng. Các loại chi phí này phát sinh một cách thường xuyên trong quá trình
sản xuất kinh doanh, nó luôn vận động, thay đổi trong quá trình tái sản xuất.
Tính đa dạng của nó gắn liền với sự đa dạng, phức tạp của các loại hình sản


15

xuất kinh doanh khác nhau, các công nghệ sản xuất khác nhau và sự phát triển
không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chẳng hạn như đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thì chi phí tiền lương, tiền công luôn
chiếm tỉ trọng cao vì đặc thù lao động trí óc là chủ yếu.

Quá trình tiêu hao các nguồn lực để tiến hành sản xuất kinh doanh cũng
chính là quá trình phát sinh các chi phí hay nói cách khác đó là quá trình
chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào các đối tượng tính giá nhất định trong
suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu về chi phí chúng ta cũng cần phải xem xét và phân biệt
được sự khác nhau giữa khái niệm chi phí và chi tiêu của doanh nghiệp. Chi
tiêu của doanh nghiệp là các khoản tiền chi ra không kể các khoản đã dùng
vào việc gì và dùng như thế nào. Trong khi đó chi phí bao gồm những hao phí
về tài sản và lao động có liên quan đến việc tạo ra doanh thu và thu nhập để
hình thành nên lợi nhuận của kỳ hạch toán chứ không phải mọi khoản chi ra
trong kỳ. Do có sự không phù hợp giữa thời gian phát sinh các khoản chi tiêu
và thời gian phát huy tác dụng của nó đối với thu nhập của doanh nghiệp như
các khoản chi phí trả trước (khoản chi tiêu ở kỳ này nhưng còn chờ phân bổ ở
kỳ sau) và chi phí phải trả (khoản được tính vào chi phí ở kỳ này nhưng chưa
chi mà sẽ chi ở kỳ sau).
1.1.1.2. Phân loại chi phí
Chi phí của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại và vô cùng đa dạng tùy
vào từng lĩnh vực cũng như từng doanh nghiệp cụ thể. Để thuận tiện cho công
tác quản lý, kiểm tra và cung cấp thông tin về chi phí phục vụ cho việc ra các
quyết định kinh doanh, chi phí cần phải được phân loại. Tùy thuộc vào mục
đích và yêu cầu của nhà quản lý mà các chi phí sẽ được phân loại theo các
tiêu thức khác nhau.


16



Phân loại theo chức năng hoạt động kinh doanh:
Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh là những chi phí liên quan đến


các hoạt động tạo ra doanh thu chính của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động sản
xuất kinh doanh bao gồm chí phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
Chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất là những chi phí phát sinh



trong quá trình sản xuất liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ chi phí nguyên vật liệu
được sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương và các khoản phải trả
trực tiếp cho công nhân sản xuất, các khoản trích theo tiền lương của công
nhân sản xuất như kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí sản xuất liên quan đến
việc phục vụ và quản lý sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, đội sản xuất
như: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, chi phí công cụ, dụng cụ,
chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền
dùng chung cho phân xưởng sản xuất với mục đích là phục vụ và quản lý sản
xuất ở phân xưởng sản xuất.
Chi phí ngoài sản xuất: các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản



xuất như hoạt động tiêu thụ sản phẩm, quản lý doanh nghiệp và các hoạt động
khác.
Chi phí bán hàng: là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh
trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ. Loại chi phí này
có: chi phí quảng cáo, giao hàng, giao dịch, hoa hồng bán hàng, chi phí nhân



17

viên bán hàng và chi phí khác gắn liền đến bảo quản và tiêu thụ sản phẩm,
hàng hóa.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: là các khoản chi phí liên quan đến việc
phục vụ và quản lý sản xuất kinh doanh có tính chất chung toàn doanh nghiệp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: chi phí nhân viên quản lý, chi phí vật
liệu quản lý, chi phí đồ dùng văn phòng, khấu hao TSCĐ dùng chung toàn
doanh nghiệp, các loại thuế, phí có tính chất chi phí, chi phí khánh tiết, hội
nghị...
Chi phí khác: là các chi phí và các khoản lỗ do các sự kiện hay các
nghiệp vụ bất thường mà doanh nghiệp không thể dự kiến trước được, như:
chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, các
khoản phạt, truy thu thuế …


Phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động:
Nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động

điều tiết chi phí của nhà quản trị DN, có thể phân loại chi phí theo cách ứng
xử của chi phí, nghĩa là khi mức độ hoạt động biến động chì chi phí sẽ biến
động như thế nào. Theo cách phân loại này có tể chia thành:
Biến phí: Biến phí là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận
với biến động về mức độ hoạt động ví dụ như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
Định phí: Định phí là những khoản chi phí không thay đổi hoặc gần
như không thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp ví
dụ như chi phí khấu hao tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng…

Chi phí hỗn hợp: Đây là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố
của định phí và biến phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể


18

hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến
phí ví dụ như chi phí tiền điện, tiền điện thoại…


Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản
xuất và mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Chi phí trực tiếp: là chi phí có thể tách biệt phát sinh một cách riêng biệt

cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp như một sản phẩm ở doanh
nghiệp sản xuất.
Chi phí gián tiếp: là chi phí chung hay chi phí kết hợp không có liên
quan tới hoạt động cụ thể nào mà liên quan cùng lúc tới nhiều hoạt động,
nhiều công việc.
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định các phương pháp kế
toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lý
và cũng qua đó cung cấp thông tin cho các nhà quản trị để có những quyết
sách kịp thời và đúng đắn có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.


Phân loại chi phí theo yếu tố:
Cách phân loại chi phí này có tác dụng giải trình kết quả sản xuất kinh

doanh trong kỳ kế toán, được trình bày trong thuyết minh báo cáo tài chính

phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị doanh nghiệp. Theo cách phân loại
này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Là toàn bộ giá trị các loại nguyên vật
liệu chính, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu xây dựng cơ bản…..mà
doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất.
Chi phí nhân công: Là toàn bộ tiền lương, tiền công phải trả, tiền trích


19

BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ của công nhân và nhân viên hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng
cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền doanh nghiệp chi trả về
các dịch vụ mua ngoài như tiền điện, tiền nước….phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ các chi phí khác dung cho hoạt
động sản xuất kinh doanh ngoài 4 yếu tố trên.


Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ của chi phí với các
khoản mục trên báo cáo tài chính.
- Chi phí sản phẩm: là những khoản chi phí gắn liền với quá trình
sản xuất sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí thời kỳ: là các chi phí để hoat động kinh doanh trong kỳ,
không tạo nên hàng tồn kho mà ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lợi
nhuận của kỳ mà chúng phát sinh bao gồm chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp.

Cách phân loại này giúp kế toán xác định rõ ràng được gía
thành sản xuất, làm rõ được mối quan hệ giữa giá thành sản xuất và
giá vốn hàng bán từ đó có kế hoạch hạ giá thành và quản lý quá trình
hạch toán được tốt hơn..
1.1.2. Khái niệm, phân loại giá thành
1.1.2.1. Khái niệm


20

Để quản lý có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, doanh nghiệp luôn cần biết số chi phí đã chi ra cho từng loại
hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ là bao nhiêu, tỷ trọng từng loại chi
phí, khả năng hạ thấp các loại chi phí này... Chỉ tiêu thỏa mãn được những
thông tin mang các nội dung trên chính là giá thành sản phẩm.
Theo giáo trình “Kế toán tài chính” (năm 2010) của Trường Đại học
Thương mại do TS. Nguyễn Tuấn Duy và TS. Đặng Thị Hòa làm chủ biên,
“Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất tính cho
một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định đã hoàn thành”.
Theo giáo trình “Kế toán tài chính” (năm 2010) của Học viện tài chính
do GS. TS Ngô Thế Chi và TS. Trương Thị Thủy chủ biên, “giá thành sản
xuất sản phẩm được xác định bao gồm những hao phí về lao động sống và
lao động vật hóa và các chi phí khác được dùng để sản xuất hoàn thành
một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định”.
Theo giáo trình “Kế toán chi phí giá thành” (năm 2009) của TS. Phan
Đức Dũng, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, “Giá thành sản phẩm là chi
phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm hoàn thành. Giá thành đơn
vị sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một đơn vị thành phẩm.”
Từ các khái niệm trên có thể thấy giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu
mang tính giới hạn và xác định, là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả

sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh, là cơ sở để xác
định giá bán sản phẩm, cung cấp dịch vụ, là căn cứ quan trọng để các nhà
quản trị doanh nghiệp ra quyết định về chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
Về mặt bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm là biểu
hiện hai mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng giống nhau về chất vì


21

đều cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật
hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra, nhưng khác nhau về mặt lượng. Khi nói đến
chi phí sản xuất là giới hạn cho chúng một thời kỳ nhất định, không phân biệt
là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa, còn khi nói đến giá thành
sản xuất sản phẩm là xác định một lượng chi phí sản xuất nhất định, tính cho
một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định. Đứng trên góc độ quá trình hoạt
động để xem xét thì quá trình sản xuất là một quá trình hoạt động liên tục còn
việc tính giá thành sản phẩm thực hiện tại một điểm cắt có tính chất chu kỳ để
so sánh chi phí với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Tại thời
điểm tính giá thành có thể có một khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa
đựng một lượng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chất chủ quan, việc giới hạn
chi phí tính vào giá thành sản phẩm gồm những chi phí nào còn tùy thuộc vào
quan điểm tính toán xác định chi phí, doanh thu và kết quả, cũng như quy
định của chế độ quản lý kinh tế - tài chính, chế độ kế toán hiện hành. Những
quan điểm và quy định đó đôi khi không hoàn toàn phù hợp với bản chất của
chi phí và giá thành sản phẩm, đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải
nhận thức rõ ràng đầy đủ dể sử dụng thông tin cho thích hợp.
Đối với lĩnh vực dịch vụ, sản phẩm dịch vụ thường mang tính phi vật
chất, quá trình sản xuất đồng thời với quá trình tiêu thụ nên không có thành

phẩm lưu kho mà sẽ xác định giá thành và kết chuyển giá vốn ngay khi dịch
vụ được cung cấp. Các chi phí đã phát sinh nhưng chưa hoàn thành dịch vụ sẽ
ghi nhận ở chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
1.1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý và hạch toán, giá thành sản phẩm
được phân chia làm nhiều loại theo các tiêu thức khác nhau:


22



Phân loại giá thành sản phẩm theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá
thành

Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được chia thành ba loại sau:
- Giá thành sản phẩm kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính toán
trên cơ sở chi phí kế hoạch và số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch. Giá thành kế
hoạch bao giờ cũng được tính toán trước khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời kỳ. Giá thành sản phẩm kế hoạch là mục tiêu
phấn đấu trong kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó còn là căn cứ để so
sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành sản phẩm định mức: Giá thành sản phẩm định mức là giá
thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ
tính cho một đơn vị sản phẩm. Định mức chi phí được xác định trên cơ sở các
định mức kinh tế-kỹ thuật của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Giá
thành sản phẩm định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Giá thành sản phẩm thực tế: Giá thành sản phẩm thực tế là giá thành
sản phẩm được tính toán và xác định trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế

phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như số lượng sản phẩm thực tế đã
sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được khi
kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu
tổng giá thành và giá thành đơn vị. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử
dụng các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và công nghệ... để thực hiện quá
trình sản xuất sản phẩm. Giá thành sản phẩm thực tế cũng là cơ sở để xác định


23

kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định nghĩa
vụ của doanh nghiệp với Nhà nước cũng như với các bên liên quan.


Phân loại giá thành căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành:

Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được phân biệt thành hai loại
sau:
- Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các
chi phí liên quan đến quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm như: chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính
cho sản phẩm đã sản xuất hoàn thành. Giá thành sản xuất sản phẩm được sử
dụng để hạch toán thành phẩm, giá vốn hàng xuất bán và mức lãi gộp trong
kỳ của doanh nghiệp.
- Giá thành toàn bộ: Bao gồm giá thành sản xuất tính cho số sản phẩm
tiêu thụ cùng với chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh
trong kỳ tính cho số sản phẩm này. Như vậy, giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu
thụ chỉ tính và xác định cho số sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất và đã tiêu
thụ, nó là căn cứ để tính toán xác định mức lợi nhuận thuần trước thuế của

doanh nghiệp.
1.2. Lý luận cơ bản về kế toán chi phí và giá thành dịch vụ
1.2.1. Các Chuẩn mực kế toán Việt Nam chi phối đến kế toán chi phí và giá
thành dịch vụ
Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm chịu sự chi phối và được
nằm rải rác trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS số 01, số 02, số 03,
số 04, ngoài ra với dịch vụ tư vấn thiết kế xây dựng còn có VAS 15:


Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (VAS 01) các nguyên tắc kế toán
có ảnh hưởng đến kế toán chi phí và giá thành sản phẩm:


24

- Nguyên tắc cơ sở dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu,
doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không
căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương
tiền. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính
của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Như vậy, mọi chi phí của doanh nghiệp phải được ghi nhận tại thời
điểm phát sinh, không căn cứ vào dòng tiền ra và vào doanh nghiệp.
- Nguyên tắc giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc
của tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả
hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận.
Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn
mực kế toán cụ thể.
Như vậy các chi phí ghi nhận khi xuất dùng nguyên vật liệu, công cụ
dụng cụ hay khấu hao tài sản cố định đều bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc giá

gốc.
- Nguyên tắc nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh
nghiệp đã chọn phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm.
Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải
trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài
chính.
Nguyên tắc nhất quán đảm bảo cho việc ghi nhận các yếu tố chi phí một
cách hợp lý, không tạo nên các thay đổi bất thường trong giá thành sản phẩm
và nếu có thì phải có giải trình đảm bảo cho việc cung cấp thông tin minh
bạch như thay đổi về phương pháp khấu hao TSCĐ, phương pháp xác định trị
giá hàng xuất kho,…trong kỳ kế toán.


25

- Nguyên tắc phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp
với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi
phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng
với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước
hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Nguyên tắc này chi phối đến việc phân bổ các chi phí trả trước, ghi
nhận chi phí phải trả và do đó ảnh hưởng đến việc tính giá thành sản phẩm.
- Nguyên tắc thận trọng: Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán
đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc
chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi: Phải lập các khoản dự phòng nhưng
không lập quá lớn, không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các
khoản thu nhập, không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và
chi phí, doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc
chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi
có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

Một khoản chi phí được ghi nhận ngay vào báo báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh trong kỳ khi chi phí đó không đem lại lợi ích kinh tế trong
các kỳ sau.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể xung đột
với nguyên tắc thận trọng trong kế toán, thì kế toán phải căn cứ vào bản chất
và các Chuẩn mực kế toán để phản ánh giao dịch một cách trung thực, hợp lý.


Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 02 về những quy định và hướng
dẫn các nguyên tắc và phương pháp kế toán hàng tồn kho
Đối tượng điều chỉnh của chuẩn mực là hàng tồn kho như tài sản được
giữ đề bán trong kỳ SXKD bình thường (thành phẩm), hay đang trong quá
trình sản xuất, các nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất, các chi phí dịch


×