Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.81 MB, 79 trang )

ĐỀ DẪN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
Hồ Sĩ Nhật Nam
PHT Trường THPT Hòa Bình
1.Đặt vấn đề
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam
nói chung và giáo dục đại học nói riêng, đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên,
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi
hỏi giáo dục phổ thông cần có sự đổi mới toàn diện và sâu sắc.
Để đào tạo ra lớp người đáp ứng được yêu cầu đó, đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS (phương pháp dạy
học tích cực) là cấp thiết hiện nay. Một công cụ hỗ trợ đắc lực cho phương pháp dạy học
tích cực là công nghệ thông tin (CNTT) một phương tiện dạy học hiện đại, hữu ích và
hiệu quả trong dạy học.
Công nghệ thông tin và truyền thông có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội
nói chung và giáo dục nói riêng.
2. Tác động của CNTT và truyền thông đối với giáo dục
2.1. Thay đổi mô hình giáo dục
Theo cách tiếp cận thông tin, tại “Hội nghị Paris về GDĐH trong thế kỷ 21” do
UNESCO tổ chức có tổng kết 3 mô hình giáo dục:
Mô hình
Trung tâm
Vai trò người học Công nghệ cơ bản
Truyền thống
Người dạy
Thụ động
Bảng/TV/Radio
Thông tin
Người học
Chủ động


PC
Tri thức
Nhóm
Thích nghi
PC + mạng
Trong các mô hình đã nêu, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục hiện đại nhất,
hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT và truyền thông là
mạng Internet. Mô hình mới này đã tạo nên nhiều sự thay đổi trong GD.
2.2. Thay đổi chất lượng giáo dục
- CNTT ứng dụng trong quản lý, giúp các nhà quản lý nắm bắt trạng thái của hệ thống
một cách nhanh chóng, chính xác, đáng tin cậy. Thêm nữa, các hệ hỗ trợ quyết định trợ giúp
thêm cho các nhà quản lý kịp thời ra được các quyết định quản lý chính xác, phù hợp.
- CNTT ứng dụng trong dạy học giúp cho nhà giáo nâng cao chất lượng giảng dạy,
người học nắm bài tốt hơn, Ngoài ra, internet cũng trợ giúp cho người học trong việc tra cứu,
tìm hiểu, cập nhật tri thức và tự kiểm tra bản thân, làm cho chất lượng nâng cao thêm.
- CNTT ứng dụng trong kiểm định đánh giá chất lượng, giúp cho công tác kiểm định
được toàn diện, kết quả khách quan và công khai.
2.3. Thay đổi hình thức dạy học
Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển đã tạo nên những thay đổi lớn về
giáo dục và đào tạo. Nhiều hình thức dạy học mới đã xuất hiện.
1


- Dạy học từ xa: Hiện nay, có nhiều thuật ngữ để mô tả như: Giáo dục mở, giáo dục từ
xa, dạy từ xa, học từ xa, đào tạo từ xa hoặc giáo dục ở xa….
- Dạy học từ xa tương tác (interactive/synchronous) tức là người dạy và người học
có tương tác qua lại, trao đổi thông tin, kiểm tra thông tin thông qua các phương tiện
truyền thông tin.
- Dạy học từ xa không tương tác (non- interactive/synchronous) tức là người dạy và
người học không có mối tương tác trao đổi thông tin với nhau. Các thông tin (tri thức) được đặt

sẵn trong các kho tài nguyên thông tin, người học chủ động nghiên cứu nắm bắt.
- Dạy học trực tuyến: Học tập trực tuyến (Online Learning) là một loại hình học
tập sử dụng mạng máy tính và internet.
Học tập trực tuyến đã tạo ra yếu tố giao tiếp hai chiều giữa HS với GV “ảo” và
trao đổi với các đồng học “ảo” qua mạng máy tính hoặc internet. Học tập trực tuyến còn
có tác dụng kích thích ý thức tự học của HS, hỗ trợ học sinh tiếp cận với nguồn thông tin
phong phú hơn rất nhiều so với bài giảng trên lớp của GV.
3. Vai trò CNTT trong dạy học
- Lâu nay, với kiểu dạy học bảng đen phấn trắng là chủ yếu, lối dạy chay ngự trị
nhà trường phổ thông đã khiến việc dạy học trở nên đơn điệu, khô khan, nhàm chán, khó
khơi dậy hứng thú, tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh. Nó đã làm
cho việc dạy học thiếu tính hấp dẫn, các em khó hiểu bài, không say mê trong học tập...
dẫn đến HS chán học, một phần không nhỏ bắt nguồn từ việc dạy chay. Vơi sự có mặt
CNTT đem lại công nghệ trong dạy học một sinh khí mới: hiện đại, hấp dẫn, góp phần
đưa công nghệ dạy học thoát khỏi sự thô sơ, khô khan đơn điệu thời trung cổ. CNTT là
công cụ “mầu nhiệm” có tiềm năng to lớn, có thể giúp tiết dạy đạt hiêu quả cao, học sinh
tiếp cận tri thức không còn mơ hồ, chung chung, trừu tượng mà các em có thể nhìn thấy
tri thức trong vóc dáng hình thể sinh động của nó, có thể quan sát được các hiện tượng lý
– hóa mà mắt thương không thể nhìn thấy, như sự vật hiện tượng, sự kiện lịch sử, địa lý,
văn hóa thể thao ở những thời điểm và không gian cách xa...
- CNTT là khâu đột phá đưa PPDH vào quĩ đạo sử dụng sức mạnh của công cụ
hiện đại chuyển tải khối lượng kiến thức lớn, phát huy tính tích cực chủ động trọng học
tập của học sinh. Nếu phát huy thế mạnh, nhất là E-Learning – dạy học qua mạng, thì
CNTT sẻ có hiệu quả to lớn trong việc thục đẩy tinh thần tự học của học sinh. Internet là
nguồn tri thức không lồ...Qua đó, việc học tập không chỉ dừng lại ở nhà trường mà còn tiến
hành một cách chủ động tích cực, sáng tạo ở nhà của học sinh, đem lại một phương pháp học
mới hiệu quả. Như vậy CNTT là mũi nhon đột phá, trong việc đổi mới PPDH của GV và
PPH của học sinh theo tinh thần phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của HS, đảm bảo
vai trò chủ thể của người học trong quá trình nhận thức.
4. Những tồn tại sử dụng CNTT trong dạy học hiện nay


2


- Việc lạm dụng CNTT trong dạy học dẫn đến tiết học quá tải, nên óc sáng tạo học
sinh bị bóp nghẹt, thầy trò quay cuông trong các hiệu ứng âm thanh, mầu sắc, hình ảnh,
học sinh không theo dõi kịp, không ghi được bài nên về nhà khó ôn bài.
- Tiết học lệ thuộc vào CNTT làm cho kiến thức nặng tính sách vở, xa rời thực tế
cuộc sống.
- Một số GV khi ứng dụng CNTT lấn át trí tưởng tượng phong phú của học sinh,
“qui đồng” tất cả tâm hồn, suy nghĩ, tượng tượng của người học, một số hiệu ứng làm mờ
lòa nội dụng bài học, một vài hình hình ảnh không chuẩn xác làm cho học sinh hiểu sai
kiến thức hoặc hiểu meo mó hình tượng văn học...
5. Tổ chức triển khai và quản lý ứng dụng CNTT
Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin ở trường thường gặp rất nhiều khó
khăn. Ngoài khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất, trình độ công nghệ thông tin của cán
bộ nhân viên, còn có các khó khăn khác như nhận thức của cán bộ, giáo viên và học sinh,
sự quan tâm, ủng hộ của các cấp, của chính quyền.
Để tổ chức triển khai và quản lý ứng dụng CNTT có hiệu quả, lãnh đạo nhà trường,
Tổ trưởng các tổ chuyên môn cần chú trọng một số vấn đề sau đây:
- Truyên truyền, vận động, định hướng, giúp đỡ và bồi dưỡng kiến thức một cách
cụ thể để nâng cao nhận thức, kiến thức về công nghệ thông tin cho cán bộ, GV và HS.
- Làm cho giáo viên, cán bộ nhân viên nhà trường thấy rõ tầm quan trọng của việc
ứng dụng công nghệ thông tin đối với sự phát triển của nhà trường, vai trò trách nhiệm
của mỗi người trong việc ứng dụng công nghệ thông tin. Tạo được sự thống nhất về chủ
trương, kế hoạch trong toàn nhà trường.
- Mạnh dạn thể nghiệm các mô hình ứng dụng CNTT nhằm rút ra các kinh nghiệm,
chỉ ra được hiệu quả trong lĩnh vực này.

3



ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC
CHO BỘ MÔN TIN HỌC THPT
Giáo viên: Trần Thị Kim Hoa
Tổ Vật lý – CN – Tin học – THPT Hòa Bình
I. SỰ CẦN THIẾT ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC CỦA BỘ MÔN TIN
Mục đích của quá trình dạy học là quá trình truyền thụ tri thức từ người dạy đến
người học, làm cho học sinh nắm vững hệ thống những tri thức phổ thông cơ bản, hiện
đại, phù hợp với thực tiễn nước ta về tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời rèn luyện cho
học sinh hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Để truyền đạt tri thức đến cho học trò,
người giáo viên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Một
trong những giải pháp quan trọng là đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng phát
huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (phương pháp dạy học tích cực).
Một công cụ hỗ trợ đắc lực cho phương pháp dạy học tích cực là công nghệ thông
tin (CNTT). CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ
thuật hiện đại. Ngày nay, việc ứng dụng CNTT vào dạy học là nhu cầu cấp thiết trong
dạy học nói chung, dạy học bộ môn tin học nói riêng. Với môn Tin học, việc ứng dụng
CNTT vào dạy học lại càng cần thiết hơn vì nó giúp giáo viên có thể cung cấp, giới thiệu
cho học sinh nhiều nguồn thông tin khác nhau để học sinh tự tìm ra tri thức cho bản thân
và cũng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Vấn đề ứng dụng CNTT trong giáo dục được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, yêu
cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại là điều hết sức cần
thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã
thể hiện rõ điều này, như:
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 nêu rõ “CNTT là phương tiện để tiến tới một xã
hội hóa học tập”, nhưng “giáo dục và đào tạo phải đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc

đẩy sự phát triển của CNTT ”.
- Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 về tăng cường giảng dạy, đào tạo
và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 – 2012.
- Công văn 4937/BGDĐT-CNTT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ công nghệ thông tin năm học 2010 - 2011
- Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục.
- Điều 28 của Luật giáo dục sửa đổi (2005) nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh.”
4


III. THỰC TRẠNG VIỆC ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC CỦA BỘ
MÔN TIN HỌC TRƯỜNG THPT HÒA BÌNH
1. Thuận lợi
- BGH quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị: máy chiếu,
máy tính kết nối mạng Internet.
- BGH bố trí sắp xếp TKB khoa học, GV có thể sử dụng hiệu quả phòng học bộ
môn, thiết bị phục vụ bộ môn tin học.
- Giáo viên sử dụng khá thành thạo máy vi tính, thiết kế chỉnh sửa giáo án điện tử,
tháo lắp máy chiều để phục vụ cho bài dạy ứng dụng CNTT.
- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, không ngừng
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, cách sử dụng các trang thiết bị hiện đại.
2. Khó khăn
- Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc dạy tin học
trong nhà trường còn hạn chế.
+ Phòng thực hành: 2 phòng (40 máy) / 32 lớp tin học và 10 lớp nghề.

+ Máy chiếu: 5 máy cho toàn trường.
+ Chưa có phòng chức năng riêng nên việc sử dụng các phương tiện dạy học còn
hạn chế. Khi muốn dạy học ứng dụng CNTT, GV phải tháo và lắp máy chiếu tại lớp
học mình dạy. Dẫn đến việc ứng dụng CNTT trong dạy học chưa được sử dụng một
cách thường xuyên, liên tục trong quá trình dạy học. Giáo viên dạy học sử dụng
CNTT trong các tiết hội thảo, hội giảng, tiết thanh tra hay tiết chuyên đề là chủ yếu.
- Phần lớn giáo viên rất ngại việc sử dụng CNTT trong dạy học vì thiết kế một bài
giảng điện tử công phu đạt hiệu quả trong các giờ học, đòi hỏi phải mất nhiều thời
gian chuẩn bị. Do đó, các bài giảng điện tử thông thường được download từ mạng
internet về chỉnh sửa hoặc tự thiết kế và chủ yếu là trình chiếu nội dung bài học, chất
lượng chưa cao, chưa phát huy được điểm mạnh của CNTT. Có rất ít những giáo án
được tích hợp Multimedia, các tư liệu cần thiết cho mỗi bài giảng.
IV. BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC CHO BỘ
MÔN TIN HỌC THPT
1. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được
dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người dạy. Do đó, PPDH tích cực không phải là một PPDH cụ thể nào,
mà bao gồm nhiều PPDH, hình thức tổ chức và kĩ thuật dạy học khác nhau, nhằm
tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện phát triển tối đa khả năng học
tập, năng lực giải quyết vấn đề của người học. Từ đó đem lại niềm say mê, hứng thú
trong học tập và nghiên cứu cho người học.
 Các dấu hiệu đặc trưng của PPDH tích cực:
* Dạy học thông qua các tổ chức hoạt động của HS và chú trọng rèn luyện
phương pháp tự học
5



* Tăng cường hoạt động học tập của mỗi cá nhân, phân phối với hợp tác
* Dạy và học tích cực quan tâm chú trọng đến hứng thú của người học, nhu cầu
và lợi ích của xã hội
* Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi
* Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
2. Công nghệ thông tin trong dạy học tích cực
Ứng dụng CNTT vào dạy học là một quá trình thường xuyên, liên tục theo từng
giai đoạn, từ việc tiếp cận công nghệ, bồi dưỡng kĩ năng. Các giáo viên đã được tập
huấn về CNTT cần phải hiểu rằng đạt được kĩ năng CNTT, điều đó có nghĩa không
những giáo viên mà người học cũng cần phải biết cách làm việc với các phương tiện
và công nghệ. Một yếu tố quan trọng khác là tập huấn về phương pháp sử dụng
CNTT trong dạy & học. Bồi dưỡng kĩ năng cũng như bồi dưỡng về mặt phương pháp
là những yếu tố bắt buộc của quá trình phát triển chuyên môn liên tục để có thể tự tin
sử dụng CNTT trong dạy học. Tất nhiên giáo viên cần có hiểu biết sâu sắc về nội
dung họ đang giảng dạy.
Theo Mô hình TPACK (Teachnological pedagogical content knowledge - Kiến
thức nội dung, phương pháp và công nghệ) đưa ra cách nhìn tổng quát về ba dạng cơ
bản của kiến thức mà một giáo viên cần có để ứng dụng CNTT vào việc dạy học của
mình: kiến thức công nghệ (TK), kiến thức phương pháp (PK) và kiến thức nội dung
(CK), cũng như mối quan hệ và tương tác giữa chúng.

Mô hình TPACK
Một giáo viên có khả năng kết hợp được cả ba dạng cơ bản của kiến thức trong dạy
học sẽ đạt được kết quả cao trong giảng dạy.
3. Biện pháp ứng dụng CNTT trong dạy học tích cực
3.1. Công cụ soạn bài tập thực hành & luyện tập
Mục đích của thực hành và luyện tập là giúp người học ghi nhớ thông tin. Nó là
một dạng bài tập tự động. Trong hoạt động thực hành và luyện tập, các câu hỏi được đưa
ra, người học trả lời và phần mềm cung cấp đáp án và phản hồi.

Hoạt động thực hành và luyện tập có thể được sử dụng trong các bài dạy môn tin
học ở các gia đoạn khác nhau của quá trình dạy học:
Giớ thiệu bài học mới: định hướng cho các em vào một vấn đề cụ thể của bài học,
từ đó kích thích trí tò mò, tập trung hơn của học sinh vào bài giảng.
6


Sử dụng trong giờ học: các bài tập thực hành & luyện tập ngắn có thể cung cấp
ngay cho giáo viên phản hồi về sự tiếp thu kiến thức của học sinh.
Ôn tập và đánh giá kết quả học tập: kiểm tra kiến thức đã học, củng cố kiến thức
của từng bài, từng chương của môn tin. Phương pháp này hỗ trợ giáo viên kiểm tra kiến
thức và kĩ năng của học sinh vào đầu giờ học và so sánh với kết quả cuối giờ học. Kiểm
tra trắc nghiệm là một công cụ nhanh chóng và dễ sử dụng để đánh giá học sinh có đạt
được một mục tiêu cụ thể nào không. Các câu hỏi trắc nghiệm nên điều chỉnh sao cho
không sáo mòn, thiết kế đa dạng.
Các bài tập thực hành & luyện tập có thể tạo bằng các phần mềm ứng dụng như:
MS PowerPoint hay các phần mền chuyên biệt: Hot Potatoes, Violet hoặc ExE Learning
(Adobe Presenter, Adobe Captivate, iSpring Presenter, Lecture Maker…) cho phép tạo
các bài tập khác nhau như bài tập ô chữ, câu đố, bài tập sắp xếp, bài tập điền khuyết, bài
tập trắc nghiệm, v.v.
Một số ví dụ:
+ Bài tập ô chữ (Mạng máy tính – tin học 10): phần mềm MS PowerPoint

+ Bài tập tương tác (Kiểu xâu – tin học 11): phần mềm Adobe Presenter

+ Bài tập kéo thả (Làm việc với bảng – tin học 10): phần mềm Violet

3.2. Công cụ trình chiếu
Trình chiếu là một trong những tiết kế thúc đẩy công nghệ phổ biến nhất vì thiết kế
này có thể hỗ trợ hướng dẫn trực tiếp và các phương pháp giảng dạy. Chương trình trình

7


chiếu hỗ trợ giáo viên cũng như học sinh dễ dàng tiếp cận ý tưởng mới qua thông tin trực
quan. Nó là công cụ hỗ trợ giáo viên chuyển tải thông điệp.
Trình chiếu có thể sử dụng trong các phần khác nhau của bài giảng, với các mục
đích khác nhau:
Để giới thiệu các bài học mới: một hoạt động khởi động, thông báo cho học sinh
mục tiêu của bài học, để nhớ lại bài học cũ.
Giúp người học đạt được kiến thức mới: giới thiệu các khái niệm mới, hướng dẫn
học tập, cung cấp thông tin phản hồi.
Ôn tập và đánh giá kết quả học tập: củng cố kiến thức của học sinh, tổng quan hóa
bài học và để tổng kết.
Một số lưu ý khi sử dụng trình chiếu:
+ Có thể tạo ra sự quá tải về thông tin, dẫn đến quá tải về mặt thời gian và cuối
cùng là người học trở nên bị động.
+ Đôi khi các yếu tố trực quan của bài trình chiếu trở nên quan trọng hơn nội dung
và hoạt động học tập. Có một số giáo viên thường trú trọng bài trình bày trông như thế
nào hơn là học sinh tích cực học tập như thế nào.
+ Để tăng hiệu quả của trình chiếu và tránh cho học sinh bị động, giáo viên cần
phải xây dựng nhiều hoạt động đa dạng song song với trình chiếu.
+ Chú ý đến: thời gian trình chiếu, màu sắc cho trang trình chiếu, font chữ và size
chữ phải phù hợp, hạn chế số lượng chữ trên mỗi trang chiếu, không nên sử dụng quá
nhiều hiệu ứng để tránh làm sao lãng sự tập trung của học sinh vào nội dung chính.
Một số phần mềm trình chiếu phổ biến: MS PowerPoint hoặc các phần
mềm/chương trình mã nguồn mở (Open Impress từ bộ Open Office).
3.3. Công cụ tạo sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một hình thức “ghi chép” đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự
tư duy tích cực, nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung,
hệ thống hóa kiến thức của một chủ đề, các cách giải một dạng bài tập,…

Sơ đồ tư duy có thể được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau:
+ Cách truyền thống: dùng bút chì, bút màu, giấy bìa, phấn màu, bảng đen,…
+ Ứng dụng công nghệ thông tin: các phần mềm ứng dụng MS PowerPoint, MS
Word hay các phần mềm chuyên biệt Freemind, Inspiration hay iMindMap.
Sơ đồ tư duy là một sơ đồ rất mở, không yêu cầu tỉ lệ. Khi sử dụng giáo viên có thể
thêm hoặc bớt đi các nhánh. Cùng một chủ đề, nhưng mỗi người có thể “thể hiện” sơ đồ
tư duy theo cách riêng thông qua dùng màu sắc, hình ảnh, cụm từ diễn đạt. Do đó, sử
dụng sơ đồ tư duy sẽ phát huy được tối đa năng lực sáng tạo của người dạy và người học.
Đối với môn tin học giáo viên có thể vận dụng sư đồ tư duy để hỗ trợ dạy học các
dạng bài tìm hiểu kiến thức mới, bài ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh
sau mỗi bài học, mỗi chương hay học kì.
GV có thể hướng dẫn cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động dạy học, như:
+ Tìm hiểu nội dung chủ đề mới: giáo viên cung cấp chủ đề cho học sinh, yêu cầu
các em liệt kê các ý tưởng quanh chủ đề đó.
8


+ Để học sinh tiếp thu kiến thức: giáo viên yêu cầu các em thống kê, hệ thống các
vấn đề cơ bản mà các em vừa được học bằng sơ đồ tư duy giúp các em củng cố bước đầu,
khắc sâu trọng tâm bài học.
+ Để kiểm tra đánh giá kết quả học tập: giáo viên yêu cầu các em vẽ sơ đồ tư duy
về một chủ đề học tập, qua đó giúp giáo viên đánh giá được mức độ lĩnh hội kiến thức
của của em.
Ví dụ sử dụng sơ đồ tư duy củng cố kiến thức “Bài 18: Các công cụ trợ giúp soạn
thảo - tin học 10”

3.4. Công cụ mô phỏng
Mô phỏng trên máy tính biểu diễn các hiện tượng trong sự phối hợp với màu sắc,
hình ảnh, âm thanh, lời giải thích, tạo sự cuốn hút học sinh, kích thích hứng thú học tập,
tạo cho học sinh chú ý tiếp thu kiến thức mới. Do đó hiệu quả bài giảng và chất lượng

tiếp thu kiến thức của học sinh được nâng cao hơn.
Một số phần mềm xây dựng mô hình mô phỏng: MS Excel, MS PowerPoint,
Adobe Flash, Marcomedia Flash MX
Trong môn tin học, có thể sử dụng phần mềm Flash để xây dựng mô hình mô
phỏng động giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức.
Ví dụ: Sử dụng Flash xây dụng mô hình mô phỏng thuật toán tìm Max “bài 4: Bài
toán và thuật toán – tin học 10”.

3.5. Công cụ quay phim làm tư liệu phục vụ bài giảng
Trong quá trình hướng dẫn cho học sinh về cách cài đặt và cách sử dụng một
chương trình hay những thao tác về các bài giảng trong môn tin học, ngoài những hình
ảnh cũng như ngôn từ thì việc sử dụng video để hướng dẫn cho học sinh học tập và thực
hành là cần thiết. Các clip này sẽ giúp tăng tính độc lập và sự tự tin cho học sinh, giúp
giáo viên giảm đi đáng kể thời gian trả lời những thắc mắc của học sinh mà đôi khi đi quá
xa so với những điều căn bản.
Một số phần mềm có khả năng ghi lại những hình ảnh, những thao tác trên màn hình và xuất ra
dạng video mà giáo viên có thể sử dụng: ActivePresenter, Camtasia Studio, Snagit …
9


V.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và trong dạy học tích cực nói riêng tạo
điều kiện thuận lợi để học sinh tự đổi mới phương pháp học tập, tự chủ hành động xây
dựng kiến thức, đồng thời phát huy được vai trò tương tác của tập thể lớp đối với quá
trình nhận thức của mỗi học sinh. Song để thực sự sử dụng một phương tiện dạy học đa
tác dụng thì đòi hỏi giáo viên phải tự rèn luyện, tự học nhiều hơn, phải sử dụng thành
thạo máy vi tính, nâng cao kĩ năng về soạn giảng giáo án điện tử và các kĩ năng sư phạm,

phải biết kết hợp tất cả các yếu tố truyền thống cũng như hiện đại để tổ chức hoạt động
dạy – học đạt kết quả cao.
2. Khuyến nghị
Việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học
là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính
và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả ứng dụng
CNTT vào dạy học tích cực cho giáo viên trong nhà trường, tôi xin có một số khuyến
nghị:
- Nhà trường cần trang bị cở sở vật chất, trang thiết bị CNTT đáp ứng tốt nhu cầu
dạy và học của giáo viên, học sinh.
- Thường xuyên tổ chức hơn nữa các đợt tập huấn về ứng dụng CNTT vào dạy học,
mở các hội nghị, hội thảo, các buổi tọa đàm, thảo luận …vê chủ đề ứng dụng CNTT trong
dạy học.
- Mở rộng, nâng cấp website của trường, thêm các chuyên mục liên quan đến vấn đề
ứng dụng CNTT trong dạy học, giúp giáo viên có thể trao đổi chuyên môn, thảo luận,
trình bày ý kiến, đánh giá ý kiến của giáo viên, học sinh về ứng dụng CNTT trong dạy
học, biến trang web của trường trở thành diễn đàn lớn dành cho giáo viên, học sinh.
- Bản thân mỗi giáo viên phải nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc ứng dụng
CNTT vào dạy học, không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao kĩ năng CNTT, kĩ năng ứng
dụng CNTT của mình.
- Mỗi giáo viên cần chú trọng gắn việc ứng dụng CNTT vào dạy học với việc đổi
mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực
và năng lực hướng tới của học sinh.

10


THAM LUẬN
Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Bộ Môn Tin Học
GV: Trương Thị Nam Thủy

Tổ Vật lý – Công nghệ - Tin học
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo Dục - Đào Tạo đã chọn là năm Công nghệ thông
tin, bao hàm: CNTT trong quản lý, điều hành tác nghiệp và trong giảng dạy, học tập.
Trong Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
nêu rõ : “Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay
đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới
một xã hội học tập”.
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước, nhất là chỉ thị 58-CT/UW của
Bộ Chính Trị ngày 07 tháng 10 năm 2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự
nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đã chỉ rõ trọng tâm của ngành giáo dục là đào tạo
nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo,
hiện nay trường chúng ta đã đáp ứng cơ sở vật chất phục vụ tốt việc ứng dụng CNTT.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Từ năm học 2006 - 2007, Tin học đã là bộ môn học bắt buộc ở khối THPT. Vì vậy,
100% các trường THPT trên toàn quốc đã được trang bị máy tính và một số trang thiết bị
CNTT hiện đại khác để phục vụ giảng dạy.
Bản thân tôi cũng đã ứng dụng để soạn giáo án điện tử, xây dựng các mô phỏng
thuật toán, chạy các chương trình, các câu lệnh, yêu cầu học sinh tìm hiểu nội dung rồi
trình bày kiến thức dưới dạng một sản phẩm công nghệ...
Như vậy, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là
nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo
dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép”, học sinh
được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá
trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
 Ưu điểm (so với phương pháp truyền thống)
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh video, camera … với âm
thanh, văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt
hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.
- Kĩ thuật đồ hoạ nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng trong tự nhiên,

xã hội trong con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra trong điều kiện nhà trường.
Ví dụ: mô phỏng các thí nghiệm nguy hiểm, độc hại: axit; thí nghiệm với bạc, vàng ...
Film về thế giới động vật...
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với
người sử dụng qua những mạng máy tính, kể cả Internet … có thể được khai thác để tạo
nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học sinh học tập.
- Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm
thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể
có những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới.
11


Rõ ràng, CNTT chắc chắn có những tác động tích cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh.
 Nhược điểm:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong
một mức độ nào đó thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn
trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không
phải toàn bộ chương trình
VD: những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo
phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội
dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến
cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính điện tử.
- Kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn hạn chế,
thậm chí còn né tránh.
- Việc sử dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học chưa được nghiên cứu kỹ,
dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng.
III. THỰC TRẠNG
- Giáo viên: biết sử dụng máy vi tính và có thể thiết kế, chỉnh sửa giáo án trên
Powerpoint và Violet. GV tích cực đổi mới, không ngừng học tập phương pháp hiệu quả,
tự rèn luyện nâng cao trình độ tin học, sử dụng các trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt GV

luôn chuẩn bị kĩ bài giảng trước khi đến lớp. Tuy nhiên cơ sở vật chất của nhà trường còn
chưa được hoàn thiện: Trường có máy projecter, máy tính nhưng chưa có phòng chức năng
riêng nên việc sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế. Khi giáo viên muốn sử dụng thì
phải tháo và lắp đặt tại lớp học của mình.. Việc thiết kế 1 bài giáo án trên Powerpoint hay
Violet cũng mất rất nhiều thời gian (ít nhất là 2 giờ) nên việc đưa giáo án điện tử vào giảng dạy
các tiết học nói chung cũng như tiết học TNXH nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập.
- Tính đến thời điểm này, vẫn chưa có một loại giáo trình hay tài liệu nào dùng để
hướng dẫn sinh viên các trường sư phạm hoặc giáo viên phổ thông về việc ứng dụng
CNTT như thế nào để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy.
- Các lớp bồi dưỡng về CNTT còn ít và chất lượng chưa cao.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc
dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế: Thiếu các phòng học
chức năng; số máy tính phục vụ cho học tin học của học sinh còn ít (chỉ có 02 phòng với
40 máy tính). Được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp cùng với sự tích cực tham mưu của
nhà trường, đến nay tình trạng cơ sở vật chất về tin học và công nghệ thông tin của nhà
trường đã được cải thiện đáng kể: Số máy tính phục vụ cho văn phòng BGH, phòng
chuyên môn, giáo viên, kế toán, thư viện là 08 máy; phục vụ cho dạy học là 40 máy.
Trong đó tất cả các máy đều được nối mạng Internet. Nhà trường có 04 máy chiếu
projector, 06 máy in, 02 máy photo và một số phương tiện khác.
IV. BIỆN PHÁP
1.Công tác bồi dưỡng giáo viên
Xác định Con người là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công
trong việc ứng dụng CNTT vào trong quản lý và giảng dạy. Do đó, nhà trường đặc biệt
quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học, đặc biệt là các kỹ năng ứng dụng
12


CNTT cho đội ngũ giáo viên. Để hiểu rõ trình độ và kỹ năng Tin học của đội ngũ, ngoài
việc tìm hiểu hồ sơ giáo viên, nhà trường đã tiến hành khảo sát thực tế. Kết quả cho thấy
100% giáo viên có chứng chỉ Tin học từ A trở lên nhưng trong đó kỹ năng sử dụng máy

tính của một số giáo viên còn hạn chế.
2. Công tác xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị
- Nhà trường luôn cố gắng bố trí sắp xếp khoa học để khai thác hiệu quả và sử
dụng tối đa số trang thiết bị hiện có.
- Các máy chiếu nên được lắp đặt cố định trên lớp học, tiện cho giáo viên sử dụng
- Khuyến khích cán bộ giáo viên trong nhà trường kết nối Internet theo chương
trình khuyến mại dành riêng cho ngành giáo dục;
- Song song với việc khai thác sử dụng, nhà trường luôn chú trọng khâu quản lý cơ
sở vật chất, trang thiết bị như: giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận, thường xuyên bảo
dưỡng, quan tâm bồi dưỡng kiến thức cho người sử dụng với phương châm “ giữ tốtdùng bền” nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả trang thiết bị được cung cấp.
3. Các hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học
- Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp CNTT vào từng
môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Mỗi giáo viên dạy trung bình ít nhất 1
tiết có ứng dụng CNTT/ tháng, hàng tháng cán bộ phụ trách thiết bị báo cáo tổng hợp số
tiết dạy học có ứng dụng CNTT của mỗi giáo viên. Chuyên môn nhà trường chú trọng dự
giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm và tổ chức sinh hoạt chuyên môn trao đổi về cách ứng
dụng CNTT một cách chọn lọc, phù hợp với đối tượng, nhằm phát huy có hiệu quả tác
dụng của phương tiện, tránh lạm dụng quá mức.
Các hình thức sử dụng hiệu quả được nhiều giáo viên sử dụng là: Dạy trình chiếu
với cách thiết kế các sile về hình thức gần giống với bảng truyền thống (màu sắc, cách
chia bảng, cách trình bày đầu bài, đề mục,...); sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ
trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải
mang vác nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác; CNTT với nhiều phần mềm
tiện ích là công cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, quản lý điểm, đánh giá
xếp loại học sinh… được tiện lợi và nhanh chóng.
- Tham gia lập và sử dụng “nguồn học liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo trên
website của Bộ, Sở và các trường bạn, tài nguyên dùng chung trên website của trường.
- Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác quản lý
và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa chỉ hoặc mở liên

kết với trang web của trường.
- Tăng cường việc khai thác sử dụng hệ thống thư điện tử để tăng tiện ích, hiệu quả trong
trao đổi cập nhật thông tin. Yêu cầu mỗi GV lập và đăng ký một địa chỉ mail cố định với nhà
trường.
- Xây dựng và triển khai kế hoạch tham gia thi giờ dạy có ứng dụng CNTT.
- Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy
học và sự phát triển của học sinh, công nghệ mô phỏng nếu không phản ánh đúng nội
dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử dụng.
13


- Giáo viên cần học, tập huấn các lớp soạn, giảng bài giảng điện tử, thường xuyên
truy vào các trang web và thành viên của diễn đàn: bachkim.vn, dayhocintel.org,
giaovien.net, moet.edu.vn, …
- Khi thiết kế bài giảng điện tử, cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video, hình
ảnh, bảng đồ, ….), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào soạn
giảng. Nếu sử dụng MS PowerPiont thì cần lưu ý về Font chữ, màu chữ và hiệu ứng thích
hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh gây mất tập trung vào nội dung bài giảng)
4. Phương tiện CNTT ứng dụng cho bài giảng trên lớp thường gồm:
- Máy móc, thiết bị điện tử.
- Phần mềm trình chiếu như powerpoint (đơn giản và thuận tiện nhất) hay một số
phần mềm trình chiếu khác. Đây là dạng phổ biến nhất hiện song hay nhầm lẫn gọi đây là
giáo án điện tử. Vì vậy việc sử dụng powerpoint soạn bài, có thể gọi là bản trình chiếu.
- Các phần mềm dạy học như phần mềm thí nghiệm ảo, soạn bài giảng violet,
adobe presenter, mô phỏng flash, phần mềm quay phim camtasia, snap it…
- Các công cụ thể hiện multimedia. Một sản phẩm, một phần mềm, một thiết bị tin
học được cho là multimedia khi nó cho phép khai thác thông tin đa thức, nhiều kiểu như:
văn bản văn bản (text), âm thanh (sound), tiếng nói (voice), hình ảnh tĩnh (image), videoclip, hình động (animation), đồ hoạ (graphic)...
5. Kiểm tra, đánh giá
Giáo viên cũng có thể sử dụng các phần mềm trên để kiểm tra bài cũ của học sinh.

Thông qua các trò chơi ô chữ, kéo thả chữ giáo viên cũng có thể tổ chức vào các buổi
kiểm tra miệng, sinh hoạt lớp.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Ứng dụng CNTT trong dạy học không phải là một phương pháp mà chỉ là sự hỗ
trợ đổi mới phương pháp dạy học bằng các công cụ, phương tiện CNTT. Do đó điều cần
tránh là tuyệt đối không thể đồng nhất việc thực hiện tiết dạy có ứng dụng CNTT với bài
trình chiếu powerpoint đơn thuần.
- Cần tránh việc lạm dụng ứng dụng CNTT mà không xem xét kĩ những nội dung
nào cần thiết và khi nào cần thiết, hoặc loại bỏ hẵn những phương tiện khác.
- Việc ứng dụng CNTT trong một tiết dạy-học không có nghĩa là thời lượng toàn
bộ tiết dạy-học chỉ dành duy nhất cho ứng dụng CNTT. Giáo viên cần linh hoạt sử dụng
phương tiện CNTT hay phương tiện truyền thống khác trong tiết dạy-học khi nào xét thấy
cần thiết và hiệu quả.
Ứng dụng CNTT vào giảng dạy ban đầu là một bài toán khó với giáo viên, nhưng
qua một thời gian không dài, chủ trương này đã cho thấy hiệu quả tích cực khi CNTT
mang lại cho cả thầy và trò không gian mới nhiều hứng thú trong lớp học. Với sự hỗ trợ
của máy tính và một số phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, giáo viên có thể tổ
chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện
đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với
các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.
Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong dạy học có hiệu quả
cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo sâu sát của ngành, sự
14


vào cuộc thực sự của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nhiệt tình, nỗ lực học hỏi, rút kinh
nghiệm của bản thân mỗi giáo viên. Cần cung cấp cho họ “công cụ” để họ bớt khó khăn
trong việc chuẩn bị bài lên lớp. Theo tôi, công cụ này bao gồm : Tài liệu hướng dẫn
phương pháp dạy học có ứng dụng CNTT, kho tư liệu hình ảnh thực (đoạn phim ngắn)
hoặc hình ảnh mô phỏng các thí nghiệm khó, đồng thời giới thiệu các phần mềm có thể

ứng dụng hoặc các trang web để truy cập khai thác thông tin phục vụ việc dạy học. Người
thiết kế thư viện tư liệu hình ảnh không những phải giỏi về lĩnh vực CNTT mà còn phải
nắm vững về phương pháp dạy học. Chính vì vậy, không phải giáo viên nào cũng tự mình
thiết kế được các thí nghiệm mô phỏng hoặc các hình ảnh phục vụ bài giảng. Để có được
phần mềm cũng như bộ tài liệu và kho tư liệu hình ảnh có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu
dạy học theo chương trình, các cơ quan có chức năng về sản xuất đồ dùng dạy học cần
khẩn chương tìm hiểu nhu cầu thị trường, sản xuất và cung ứng kịp thời về các địa
phương. Nếu giáo viên được trang bị những công cụ này thì họ chỉ cần đầu tư thời gian để
thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh và cơ sở vật chất của nhà
trường. Đồng thời họ cũng định hướng được việc sử dụng các trang thiết bị CNTT cho
phù hợp với bài học và yêu cầu sư phạm. Tránh được hiện tượng "nhìn chép" hoặc "chiếu
chép " như đã từng xảy ra ở một số nơi có ứng dụng CNTT như hiện nay.

15


ỨNG DỤNG CNTT TRONG VẤN ĐỀ
SOẠN GIẢNG VÀ DẠY HỌC MÔN HÓA HỌC
Đặng Xuân Huy
Tổ Hóa – Sinh trường THPT Hòa Bình
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, khi công nghệ thông tin (CNTT) càng phát triển thì việc ứng dụng
CNTT vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT
bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng
dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong
giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao
chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, không nên từ chối những gì có sẵn
mà lĩnh vực CNTT mang lại, nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả
cho công việc của mình,mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với GD & ĐT, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung,

PPDH. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, GD & ĐT đóng vai
trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực
cho CNTT. Bộ GD & ĐT cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong GD & ĐT ở tất
cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới PPDH ở các môn”.
Trong quá trình dạy học hầu hết các giáo viên đều thấy khó khăn trong khâu giảng
dạy những kiến thức trừu tượng, những phần mà học sinh không thể hoặc không có điều
kiện để quan sát trực tiếp. Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của KH – KT, đặc biệt là sự
ra đời của máy vi tính đã làm cho quá trình nhận thức của học sinh trở nên đơn giản hơn
thông qua những bài giảng điện tử mà giáo viên đã chuẩn bị. Việc sử dụng máy vi tính
ngày nay không còn xa lạ với giáo viên. Tuy nhiên, để soạn giảng được một bài học có
ứng dụng CNTT đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng thành thạo máy vi tính và biết một
số phần mềm để sử dụng trong quá trình dạy học.
Mặt khác, hóa học là một môn khoa học thực nghiệm, thí nghiệm hóa học giữ vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình Dạy - Học. Tuy nhiên, trong hóa học có nhiều khái
niệm khó và trừu tượng, nhiều phản ứng diễn ra quá nhanh hoặc quá chậm, diễn tiến của
các quá trình và hiện tượng rất khó quan sát, một số thí nghiệm lại độc hại, nguy hiểm
vv.. Vì vậy rất cần có sự hỗ trợ của CNTT.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một môn học nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Ứng dụng CNTT trong dạy học
- Ứng dụng trong soạn thảo giáo án
- Ứng dụng trong thực hiện bài giảng
- Nghiên cứu các phần mềm tin hóa để sử dụng trong việc mô phỏng các thí
nghiệm hoá học, vẽ công thức hóa học các chất..
- Sử dụng phần mềm đó để mô phỏng các thí nghiệm hóa học.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Tiến hành soạn giảng giáo án và bài giảng điện tử.
2. Dạy học ứng dụng CNTT trong các tiết học.

3. Phỏng vấn học sinh sau giờ học sử dụng bài soạn giảng giáo án điện tử.
4. Dự giờ, thăm lớp những giờ có sử dụng bài soạn giảng giáo án điện tử và những
giờ sử dụng theo phương pháp soạn giảng truyền thống.
5. Ý kiến phản hồi từ giáo viên dự giờ.
16


6. Kiểm tra khả năng tiếp thu bài của học sinh ở những giờ có sử dụng bài soạn giảng
giáo án điện tử và những giờ sử dụng theo phương pháp soạn giảng truyền thống.
IV. NỘI DUNG
1. Ứng dụng CNTT trong dạy học
a. Ứng dụng trong soạn thảo giáo án
Một trong những ứng dụng của công nghệ thông tin trong dạy học là soạn thảo
giáo án. Hiện nay có nhiều phần mềm soạn thảo giúp cho giáo viên soạn thảo giáo án,
trong đó phần mềm thông dụng nhất hiện nay là MS Word. Tuy nhiên, để sử dụng MS
word một cách hiệu quả, ngoài thao tác cơ bản, giáo viên cần nắm thêm một số tính năng
nâng cao: Chèn tự động đoạn văn bản, trộn thư, tạo thẻ đoạn mục lục, vẽ hình đơn giản.
Ngoài ra, có thể biết một số phần mềm bổ trợ: Phần mềm hỗ trợ soạn thảo giáo án môn
Lý, Hóa, Sinh: Novoasoft Science Word 6.0, phần mềm vẽ công thức hóa học, phần mềm
vẽ dụng cụ thí nghiệm môn hóa học, ...
Bên cạnh soạn giáo án thông thường, tỷ lệ giáo viên sử dụng bản trình chiếu điện
tử trong giảng dạy cũng tăng đáng kể. Một trong các phần mềm soạn thảo bản trình chiếu
điện tử thông dụng và đơn giản nhất hiện nay mà giáo viên thường dùng là MS
PowerPoint. Để có thể soạn được các bản trình chiếu điện tử chất lượng tốt, giáo viên có
thể tìm hiểu thêm một số tính năng nâng cao của PowerPoint: Chèn video clip, chèn âm
thanh, tạo ảnh động, biên tập video hay một số phần mềm sau: Adobe Photoshop,
Macromedia Flash, Violet.
Nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả nhờ ứng dụng CNTT mang lại, một số
trường, sở giáo dục và đào tạo đã yêu cầu, động viên, khuyến khích giáo viên soạn giáo
án bằng máy vi tính, sử dụng bản trình chiếu điện tử trong dạy học, điều mà cách đây

chưa lâu được xem là không cho phép.
b. Ứng dụng trong thực hiện bài giảng
Một trong các yếu tố để đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy
học là phương tiện dạy học. Đặc biệt khi sử dụng bài giảng điện tử, giáo viên không thể
không sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Công nghệ thông tin và truyền thông
mới đã cung cấp cho chúng ta những phương tiện dạy học hiện đại: Máy chiếu projector,
smart board (bảng thông minh), mạng nội bộ, các phần mềm dạy học, các trang web… Để
sử dụng các phương tiện dạy học, giáo viên cần làm chủ phương tiện dạy học, trong đó
projector là thiết bị dạy học phổ biến nhất hiện nay. Mặc dù vậy, nhiều giáo viên vẫn còn
gặp nhiều khó khăn khi sử dụng nó.
c. Ứng dụng trong khai thác dữ liệu
Để khai thác được các thông tin trên Internet, ta phải sử dụng các công cụ tìm
kiếm: google, search.netnam, vinaseek, socbay,… Một trong các công cụ được sử dụng
phổ biến và hiệu quả là công cụ tìm kiếm google.
Như chúng ta đã biết, để tạo được một bài giảng điện tử tốt, giáo viên cần rất nhiều
kỹ năng: Soạn thảo văn bản, đồ họa, quay phim, chụp ảnh, biên tập video, lồng tiếng…
nhưng không phải giáo viên nào cũng có thể thực hiện được. Vì vậy, GV cần biết khai
thác thông tin trên Internet để tìm kiếm các tư liệu phục vụ cho bài giảng của mình.
d. Ứng dụng trong đánh giá
Nhờ công nghệ thông tin mà học sinh có thể tự đánh giá kiến thức của mình bằng
các phần mềm trắc nghiệm để từ đó tự bổ sung, hoàn thiện kiến thức.
Việc sử dụng các phần mềm thi trắc nghiệm trong đánh giá kết quả học tập của học
sinh mang lại những lợi ích cơ bản sau:
- Thuận tiện trong việc tạo đề thi.
- Cho kết quả chính xác, khách quan.
17


- Có các số liệu thống kê, tổng hợp nhanh chóng, chính xác.
- Xây dựng được ngân hàng đề thi để sử dụng nhiều lần.

- Có khả năng kiểm tra lượng kiến thức, kỹ năng của toàn bộ chương trình trong
một khoảng thời gian ngắn.
e. Ứng dụng trong học tập của học sinh
Giáo dục đang thay đổi một cách mạnh mẽ, nhiều phương pháp, quan điểm dạy
học mới ra đời, hướng tới mục tiêu “dạy ít, học nhiều”, tăng tính chủ động, khả năng tự
học của người học. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, khối lượng tri thức
được tạo ra nhanh chóng, đòi hỏi mỗi người phải học thường xuyên, học liên tục, học suốt
đời, học mọi lúc, học mọi nơi. CNTT và truyền thông đang trở thành phương tiện không
thể thiếu được để thực hiện các mục tiêu trên. Ngoài ra, Công nghệ thông tin và truyền
thông cũng hỗ trợ rất tốt cho việc học tập của học sinh dưới nhiều hình thức:
- Tìm kiếm, tra cứu tài liệu học tập trên mạng internet.
- Tham gia các lớp học qua mạng.
- Tự đánh giá kiến thức của mình bằng các phần mềm trắc nghiệm.
- Chia sẻ thông tin với giáo viên, bạn bè qua các diễn đàn.
- Tham gia các cuộc thi trực tuyến (online).
2. Sử dụng phần mềm thiết kế bài trình bày
a. Phần mềm Microsoft Powerpoint: Microsoft Powerpoint là phần mềm trình diễn
trong bộ Offiec của hãng Microsoft chuyên cho việc soạn thảo các bài trình bày phục vụ
hội thảo, hội nghị, giảng dạy,…Ưu điểm chính của Microsoft Powerpoint là: Mạnh về
ứng dụng Multimedia, Khả năng tạo hiệu ứng cho các đối tượng tốt, Đơn giản, dễ sử
dụng, phù hợp với mọi đối tượng
b. Phần mềm Mindmap: Mind Map hay còn gọi là bản đồ tư duy là phương pháp nhận
thức và trình bày vấn đề trên một bình diện phẳng, dựa vào mối liên hệ có tính logic giữa
các yếu tố cấu thành vấn đề, thay cho cách thức cũ chủ yếu theo trình tự thời gian. Nó
giúp chúng ta giải quyết mọi vấn đề đồng bộ, toàn diện và hiệu quả hơn rất nhiều so với
những phương pháp thông thường.
3. Giới thiệu một số phần mềm trình bày các công thức hóa học
a. Phầm mềm CHEMWINDOW
b. Chương trình CHEMDRAW ULTRA
- ChemDraw Ultra là phần mềm vẽ và xử lý công thức hóa học tương đối mạnh,là một

phần trong bộ CS ChemOffice 2004 của CambridgeSoft Corporation, trong bộ này bao
gồm các chương trình sau:
- ChemDraw Ultra 8.0: chương trình viết công thức hóa học trên mặt phẳng tương đối
hoàn chỉnh với nhiều công cụ tiện dụng.
- Chem 3D Ultra 8.0 : chương trình chuyển công thức phẳng thành công thức cấu tạo lập
thể trong không gian ba chiều với nhiều tính toán hóa lượng tử.
- ChemFinder for Office 8.0 và ChemFinder Ultra 8.0: chương trình tìm kiếm thông tin về
các chất hóa học và phản ứng hóa học. Và nhiều chương trình khác.
Ngoài ra chương trình cũng cho phép vẽ các dụng cụ thí nghiệm, và có thể lắp
ghép các dụng cụ với nhau thành bộ, từ trang vẽ sẵn (Templates) có tên Clipware.

18


c. Chương trình HYPERCHEM
Chương trình HyperChem của HyperCube Inc là một chương trình mô phỏng và mô hình
hóa phân tử cho phép thực hiện các tính toán hóa học phức tạp. Màn hình chính của
chương trình Hyperchem 7.0 được thể hiện trong hình dưới đây:

Cửa sổ làm việc của chương trình Hyperchem 7.0
4. Chương trình thí nghiệm mô phỏng
a. Chương trình Chemlab:Của Model Science Software, chương trình có thể mô phỏng được
một số bài thí nghiệm từ cơ bản đến chuyên sâu phuc vụ cho quá trình dạy học ở bậc phổ
thông cũng như đại học. Các bài thí nghiệm cho chương trình một số được cho miễm phí
nhưng một số khác cần phải mua mới có được. Màn hình làm việc của chương trình Chemlab
version 2.5 xuất hiện như trong hình dưới đây sau khi đã kích hoạt chương trình.

Màn hình làm việc của chương trình Chemlab 2.5
b. Chương trình Macromedia Flash 8 để mô phỏng một số thí nghiệm hóa học
Macromedia Flash là các công cụ mà bạn có thể dùng để tạo ra các bản trình diễn

multimedia, các website hoặc CD-ROM tương tác và hấp dẫn. Flash vượt trội nhờ khả năng vẽ
và tạo hình vector. Tuy nhiên, phần mềm này còn có thể được dùng để thao tác hoặc hiển thị
các đồ họa bitmap, chỉnh sửa video hoặc thậm chí thao tác các tập tin âm thanh.
Thí nghiệm: Amoniac cháy trong khí oxi
Mô tả thí nghiệm: Khi đốt trong khí oxi, amoniac cháy với ngọn lửa màu vàng, tạo ra
t
2 N 2 + 6H 2O
khí nitơ và hơi nước: 4 NH 3 + 3O2 →
0

19


Amoniac cháy trong khí oxi
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1.Kết luận
-Với việc nghiên cứu một số phần mềm soạn bài giảng điện tử, vẽ công thức và
mô phỏng thí nghiệm Hóa học THPT, tôi hi vọng sẽ góp phần tích cực vào việc bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực khai thác và sử dụng thí nghiệm trong dạy học môn Hóa
học của HS, giáo viên.
- Các phần mềm đó thể được sử dụng để đào tạo giáo viên phổ thông, bồi dưỡng để
nâng cao khả năng khai thác và sử dụng thí nghiệm trong dạy học. Không loại trừ khả
năng, ở những trường còn thiếu thốn về trang thiết bị thí nghiệm, giáo viên có thể sử dụng
phần mềm điện tử này để dạy học ở trên lớp. Học sinh có thể sử dụng phần mềm mô
phỏng thí nghiệm làm tài liệu tự học.- Khi trình chiếu trong giờ dạy học trên lớp, HS hay
tò mò chú ý đến phim, hình ảnh, hiệu ứng mà ít chú ý đến nội dung của bài học và it ghi
chép những nội dung quan trọng của bài học.
2. Một số đề xuất:
Từ thực tế giảng dạy tôi xin đưa ra một số đề xuất và kinh nghiệm trong việc ứng dụng
CNTT trong dạy học như sau:

a. Chuẩn bị bài giảng có ứng dụng CNTT
- Tùy theo điều kiện thực tế của trường, tùy theo nội dung của bài dạy, có thể lựa
chọn ứng dụng của tin học vào giảng dạy, không lạm dụng.
- Xem xét nội dung bài học, có những nội dung nào cần sự hỗ trợ của CNTT. Chỉ
nên ứng dụng khi dạy các quá trình khó mô tả bằng lời, các đồ thị, phim, biểu đồ, hình
ảnh minh hoạ...
- Xây dựng các nguồn học liệu từ các website, các địa chỉ trên internet và bằng
cách scan các hình ảnh, sử dụng các đĩa CD, VCD,...
b. Một số vấn đề cần lưu ý khi lên lớp:
- Khó khăn của HS trong tiết học CNTT là việc ghi bài do đó GV nên ghi bảng như
những tiết dạy bình thường để HS có thể ghi chép được.
- Việc sử dụng kênh màu, kênh chữ phải hài hoà, hợp lý, rõ ràng.
- Do thời gian dành cho các thao tác thực hành của GV được rút ngắn nên cần lưu
ý tiến độ thực hiện bài dạy phải phù hợp với tốc độ thao tác của HS.
Trong khuôn khổ cho phép của bài tham luận tôi đã trình bày những phần còn ít gặp,
những phần mang tính chất chuyên biệt áp dụng cho Hóa học trong giảng dạy và nghiên
cứu. Rất mong nhận được sự phản hồi và góp ý chân thành của quý thầy cô đồng nghiệp
để bài tham luận được hoàn thiện hơn.

20


ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN
NGỮ VĂN TẠI TRƯỜNG THPT HÒA BÌNH
Tác giả: Phạm Thị Ý Nguyện
Tổ: Ngữ văn
1. Sự cần thiết ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn
Môn Ngữ văn có vị trí quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng nói, viết, góp phần
giáo dục tư tưởng, tình cảm, hình thành nhân cách cho học sinh, hướng tới những tình
cảm tốt đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng.

Nhưng thực tế chất lượng môn Ngữ văn trong trường THPT Hòa Bình hiện nay chưa
cao, bộ môn Ngữ văn chưa thu hút sự yêu thích của các em học sinh. Không ít học sinh
vẫn tỏ ra bàng quan, thờ ơ với văn chương. Nhiều bài văn của học sinh mắc những sai sót
quá cơ bản như tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm,
nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác, sai chính tả, lỗi dùng từ và đặt câu, sai
kiến thức, suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết, không biết
tổ chức các đoạn văn. Ngoài những yếu tố khách quan (xu hướng chọn nghề, năng lực
cảm thụ văn chương của học sinh), thì nguyên nhân phần lớn là do giáo viên dạy học
chưa có sức lôi cuốn học sinh do tình trạng dạy chay, học chay, phương pháp dạy học còn
cứng nhắc vì thiếu thốn về phương tiện thiết bị dạy học như: tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ
nghe, nhìn để minh họa cho bài giảng, tài liệu tham khảo, các tác phẩm văn học... cho
giáo viên. Như vậy, để nâng cao chất lượng dạy, học môn Ngữ văn trong nhà trường cần
thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá và trong đó
không thể thiếu việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học.
Khái niệm Công nghệ Thông tin được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính
phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn
thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin
rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội".
Công nhgệ thông tin trước hết giúp giáo viên Ngữ văn nâng cao hiểu biết, tri thức và
kỹ năng, năng lực và trình độ.
CNTT là một trong những phương tiện rất hữu hiệu đáp ứng nhu cầu tự bồi dưỡng,
nâng cao trình độ, năng lực, trau dồi nghề nghiệp của người giáo viên, giúp người giáo
viên không bị lạc hậu trước sự phát triển của xã hội và khoa học công nghệ. Internet cung
cấp cả một kho tư liệu gần như vô tận về hình ảnh, biểu tượng, âm thanh, các videoclip
sinh động, phong phú.
CNTT góp phần làm cho bài dạy sinh động và cuốn hút hơn. Thiết kế giáo án bằng
phần mềm Powerpoint và tích hợp giảng dạy Ngữ văn với âm nhạc, phim ảnh, với băng
hình, tư liệu… sinh động làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng
hứng thú học tập. Thông qua bài giảng điện tử, giáo viên có nhiều thời gian để đặt các câu

hỏi gợi mở, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học phát huy tính
tích cực tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên của các em. Sử dụng các kĩ thuật tương tác đa phương
21


tiện theo các yêu cầu trực quan, sinh động, đa chiều, đa kênh, đa dạng, đa chức năng sẽ
kích thích được quá trình học tập, huy động những tiềm năng khác nhau của người học
trong hoạt động vất chất và hoạt động tâm lý.
Từ góc độ tâm lý học, chúng ta thấy con người tiếp nhận các thông tin nhờ vào năm
giác quan: Cảm giác, tri giác, thính giác, vị giác, khứu giác. Theo cách giảng dạy trước
đây chỉ có một giác quan duy nhất được huy động đó là thính giác. Truyền thụ kiến thức
chỉ thông qua lời nói, còn các giác quan khác chưa được sử dụng cho việc tiếp thu các bài
giảng, phần lớn tiềm năng học tập chưa được phát huy.
Người ta thống kê rằng: nếu chỉ có đọc thì người học chỉ nhớ được 10%, chỉ có nghe
thôi thì khả năng tiếp thu được 20%, cả nghe và nhìn tiếp thu được 50%, nếu được trình
bày thì khả năng nhớ có thể lên đến 70%. Đặc biệt, nếu được kết hợp cả nghe, đọc,
nghiên cứu, tự trình bày thì mức độ nhớ lên đến 90%.
Các kĩ năng nghe – nhìn – chia sẻ và thực hành được thực hiện đồng thời đã mang
lại kết quả giáo dục cao nhất. Chỉ riêng điều đó thôi cũng nói lên sự đòi hỏi phải áp dụng
các phương tiện nghe nhìn vào việc giảng bài.
1. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin là một thành tựu lớn của cuộc CMKH-KT hiện nay. Nó thâm
nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong
sản xuất, giáo dục, đào tạo và các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trong giáo dục – đào
tạo, CNTT được sử dụng vào tất cả các môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn.
Hiệu quả rõ rệt là chất lựơng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết và thực hành. Vì thế,
nó là chủ đề lớn được tổ chức văn hóa giáo dục thế giới UNESCO chính thức đưa ra
thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI và dự đoán “sẽ có sự
thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT ”.

Như vậy, CNTT đã ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong đổi
mới phương pháp dạy học (PPDH), đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng
giáo dục. Việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT góp phần rất lớn trong việc đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bắt buộc đã được đề cập
đến tại điều 4 Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “phương pháp
giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động , tư duy sáng tạo của người học,
bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Ở nước ta, vấn đề ứng dụng CNTT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước
rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện
đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ
Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về
chương trình quốc gia đưa CNTT vào giáo dục đào tạo (1993),
Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và
phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã yêu cầu các cấp, các
ngành cần "Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo
ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho
22


nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ
cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo".
Trong Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định,
phải “đổi mới phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp
tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh,...
Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường giảng
dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 nêu rõ
“CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội hóa học tập”, nhưng “giáo dục và đào tạo
phải đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của CNTT ”.

Chỉ thị số 58-CT/TƯ của Bộ Chính Trị ngày 7/10/2001 đã chỉ rõ trọng tâm của
ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo.
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 81/2001/QĐTTg giao cho ngành Giáo dục
xây dựng chiến lược phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 2001 - 2005.
Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng
cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai
đoạn 2008-2012. Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và
định hướng đến năm 2020.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá
trình dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chọn năm học 2008-2009 làm năm
học ứng dụng công nghệ thông tin nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục
theo định hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”. Công nghệ thông tin sẽ mở ra triển vọng to
lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy - học cho học sinh.
Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ về quản lý đầu tư
ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục.
Trong “Chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010” của Bộ Giáo dục –
Đào tạo đã yêu cầu ngành giáo dục phải từng bước phát triển giáo dục dựa trên CNTT, vì
“CNTT và đa phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lý hệ thống giáo dục,
trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về
phương pháp dạy và học”
Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường
sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước
Công văn Số: 6072/BGDĐT-CNTTV/v Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm
học 2013 – 2014 của Bộ giáo dục đào tạo “Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường
phổ thông nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng giáo viên tự tích hợp
CNTT vào từng môn học thay vì học trong môn tin học. Giáo viên các bộ môn chủ động

23


tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để giảng dạy ứng dụng CNTT”
(Theo Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Công văn số 4099/BGDĐT-GDTrH V/v Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục
Trung học năm học 2014-2015 của Bộ giáo dục đào tạo đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm và
một trong năm nhiệm vụ trọng tâm đó là “...Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học. Tăng cường xây dựng "Nguồn học liệu mở" (thư viện) câu
hỏi, bài tập, đề thi, kế hoạch bài dạy, tài liệu tham khảo có chất lượng trên website của
Bộ (tại địa chỉ ) của sở/phòng GDĐT và các trường học.
Chỉ đạo cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh tích cực tham gia Diễn đàn trên mạng
() về đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh”.
Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ phần mềm nói chung và phần mềm
giáo dục nói riêng đã giúp chúng ta có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học.
BGH Nhà trường rất quan tâm tới việc ứng dụng CNTT vào dạy học, mở ra hội thảo
chuyên đề và các buổi bồi dưỡng tin học cho giáo viên. Đầu tư máy tính kết nối internet ở
thư viện phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm thông tin của giáo viên.
2. Thực trạng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn
trường THPT Hòa Bình
Tổ Ngữ văn có 10 thầy cô trong đó các thầy cô giáo đều biết sử dụng máy tính, và
phần mềm Microsoft PowerPoint, biết sử dụng các chương trình tìm kiếm trên trình duyệt
Internet Explorer để tìm kiếm thông tin cho bài giảng. Nhà trường có các thiết bị cần thiết
phục vụ cho việc ứng dụng CNTT. Nhìn chung qua các tiết dạy có ứng dụng CNTT của
tổ đều đạt hiệu quả cao, học sinh rất hứng thú.
Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT trong dạy học môn Văn còn rất ít hầu như chỉ sử
dụng trong các tiết hội giảng, thực hiện chuyên đề, các tiết thanh tra. Một số giáo viên
cũng đã hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT vào việc học như tìm kiếm tranh ảnh, nhạc,
phim tư liệu, làm bài thuyết trình nhóm, tổ bằng PowerPoint trong các tiết chuyên đề, nộp

bài qua thư điện tử, nhưng việc này cũng không diễn ra được thường xuyên. Qua các tiết
dạy ứng dụng CNTT của tổ một số thầy cô gặp phải chục chặc về máy móc lại lúng túng
trong cách xử lý nên đã ảnh hưởng ít nhiều đến tiết dạy.
Lí do là việc ứng dụng CNTT trong dạy học của bộ môn còn gặp phải một số khó
khăn như:
Trình độ tin học chủ yếu là tự học cho nên quá trình soạn giảng gặp nhiều khó khăn. Soạn
giáo án điện tử đòi hỏi một sự chuẩn bị công phu đầu tư nhiều thời gian và công sức, việc
sử dụng máy tính và một số phần mềm của một số thầy cô vẫn chưa được thành thạo.
Cơ sở vật chất nhà trường còn hạn chế, số lượng máy móc không nhiều, không có
phòng máy và cũng không có phòng chức năng cho bộ môn Văn. Mỗi khi muốn sử dụng
trên lớp thì phải mượn máy rồi lắp ráp tốn nhiều thời gian, các thiết bị không được lắp cố
định nên máy, đường dây điện chạy không được ổn định.
3. Biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn
24


Văn chương hấp dẫn người đọc bởi tính hình tượng, tính gợi cảm, Môn Ngữ văn ở
trường phổ thông bao gồm các phân môn tiếng Việt, Tập làm văn và Văn bản. Trong các
phân môn này không phải phân môn nào và không phải bài nào, phần nào của mỗi phân
môn cũng đều có thể ứng dụng công nghệ thông tin để giảng dạy được. Và đương nhiên
không phải bất cứ tiết nào, bài nào cũng biến thành bài giảng điện tử để trình chiếu được.
Muốn ứng dụng CNTT thật sự hiệu quả phải chọn các nội dung, các vấn đề phù hợp. Chỉ
nên sử dụng công nghệ thông tin khi thật cần thiết và sử dụng với tỷ lệ ít hơn so với các
dạng hoạt động và các phương tiện dạy học khác (như thuyết giảng, đàm thoại, thảo luận
nhóm, phát vấn, nêu vấn đề …)
Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao, giáo
viên phải thường xuyên không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên môn mà còn
phải nâng cao khả năng sử dụng vi tính, thiết kế bài giảng điện tử và cập nhật thông tin
qua mạng. Giáo viên phải biết sử dụng thành thạo máy tính và một số phần mềm hỗ trợ
cho việc soạn giáo án điện tử như PowerPoint, Adobe Presenter, sơ đồ tư duy Mind mads,

cắt ghép đổi đuôi phim, nhạc.
Giáo viên có thể tham khảo cách soạn giáo án điện tử trên một số trang web như:
; ; ...
Hướng dẫn cho học sinh truy cập các website về văn học để tìm kiếm tài liệu tham
khảo, tra cứu thông tin như: ; ;
;;;
; ; ;

Tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử: Một số địa chỉ thông dụng để giáo viên và học sinh có
thể truy cập tìm sách và giáo trình phục vụ việc dạy - học môn Ngữ văn là:
(mạng thư viện Việt Nam); (siêu thị sách trực
tuyến lớn nhất Việt Nam); (website chia sẻ tư liệu dạy học với hơn 60.000 mục
tư liệu); ; (Thư viện giáo trình điện
tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo), ; (Khoa Ngữ
văn Trường ĐHSP TP HCM)
Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể cho học sinh xem những trích đoạn phim,
các vở chèo, tuồng, nghe các bài thơ, bài hát phổ thơ do các nghệ sĩ nổi tiếng trình bày để
minh hoạ cho nội dung bài giảng.
Ngoài ra, giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh tìm xem bộ phim chuyển thể từ các
tác phẩm văn học được giảng dạy trong nhà trường như: Tắt đèn, Chí Phèo, Số đỏ, Những
người khốn khổ, Chiến tranh và hoà bình, Sông Đông êm đềm, Hamlet, Ông già và biển
cả, Tam quốc diễn nghĩa...
Giảng dạy bằng bài giảng vận dụng CNTT vào giảng dạy Ngữ văn bằng hình thức
vận dụng phần mềm Powerpoint để thiết kế giáo án dạy học là hình thức vận dụng CNTT
dễ dàng nhất, khả thi nhất mà mang lại hiệu quả không nhỏ. Sau đây là một số biện pháp
đối với từng phân môn trong bộ môn Ngữ văn.
Với phân môn Đọc – Hiểu văn bản
25



×