Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Quá trình phát triển kinh tế xã hội ở cộng hoà dân chủ nhân dân lào từ 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.51 MB, 207 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐCr GIA HÀ NỘI
TRUÔNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XẢ HỘI VÀ NHẢN VÃN

TRẨN CAO THÀNH

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIEN k in h t Ế- x ã h ộ i
ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
TỪ 1975 ĐEN n a y

CHUYÊN NGÀNH : LỊCH s ử CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI
MẢ S ố

: 05.03,04

pCv !"■ c.Liò1'. G:A Hí K©1
TT8X i

.-.viũ i r i N . ĩ : :j V ẻ ỉ j

NoV- l i / n 1
LUẬN ÁN PHÓ T IẾ N S ĩ KHOA HỌC LỊC H s ứ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KIIOA HỌC

: GS.

HÀ NỘI- 1996



DƯƠNG NINH



.


MỤC LỤC
MỞ ĐẲU
ĩ, Tính cấp thiết của đề tài luận á n ............................................................3
II. Mục đích nghiên c ứ u ............................................................................

.4

III. Lịch sử nghiên cứu vấn đ ề ..........................................................................5
IV. Phương pháp nghiên cứu,giới hạn vấn đề nghiên c ứ u .................14
V. Các nguồn tài li ệ u ....................................................................................... 16
VI. Ý nghĩa và đóng góp của luận án

..................................................... 17

NỘI DƯNG

CHƯƠNG MỘT: NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA TÌNH HÌNH LÀO
SAU CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.
I. Nhà nước và hệ thống chính trị Nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dán L à o ..................................................... 18
n . Tình hình an ninh và quôc phòng sau cách mạng
giải phóng dân tộc

............................................................ 26

III. Tình hình kinh tê và xã hội Lào sau chiến t r a n h ........................35


CHƯƠNG HAI : QUÁ TRINH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG NHỮNG NĂM SAU GIẢI PHÓNG
(Từ năm 1976 đến năml985)
I. Hai nám khôi phục và xây dựng sau chiến tranh (1976-1977)

. . 52


2

II. Kế hoạch 3 nám ( 1978-1980 ) khôi phục kinh tê,
phát triển văn h o á ........................................................... 61
III. K ế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ I (1981-1985)...13
CHƯƠNG BA : QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
TRONG NHỮNG NẢM Đ ỗ i MỚI.
(Từ năm 1986 đến nay)
L K ế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm lần thứ II (1986-1990)...8â
II. Kê hoạch phát triển kinh tế-xã hội sau Đại hội Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào lần thứ V ( năm 1991 )............................................... 111
CHƯƠNG BỐN: MỘT s ố NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI ở LÀO TỪ SAU GIẢI PHÓNG
NĂM 1975 ĐẾN NAY
I.Các giai đoạn của qúa trìnli phát triển và sự lựa chọn biện pháp,
conđường phát triển trong 20 năm qua (1 9 7 6 -1 9 9 5 )........................ 131
n . Một vài đặc điểm của quá trinh phát triển
từ sau giải phóng đến n a y ..................................................................... 141
III. Một sô" vấn đề đặt ra đối với sự phát triển hiện n a y .....................153
KẾT L U Ậ N ...................................................................................................... 166
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

.............................................................................171

.......................................................................................................183


3

MỞ ĐẦU:
í. TÍNH CẮP THIẾT CỦA ĐE

1.

tà i lu ậ n

ÁN:

N ăm l975, nhân dân các bộ tộc Lào đã giành được thắng lọi

lọi

trọn vẹn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Nhà nước cách
mạng và chế độ dân chủ nhân dân ra đời. Nước Lào bước vào một
thời kỳ mói trong tiến trình lịch

sử dân tộc : Thời k ỳ xây dựng và

bảo vệ c h ế độ dân chủ nhân dân.
Từ đó đến nay, trong một khu vực đầy biến động, tuy có nhiêu

cơ may thuận lợi, nhưng cũng không ít trở ngại khó khán. Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào đang vươn lên giữ vững hoà bình, độc lập, tự
chủ; phấn đấu vượt qua đói nghèo và lạc hậu để tửng bước xây dựng
đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên
cứu qúa trìn h p h át triể n k in h tê - xã h ộ i ở Cộng h ò a Dân chủ
Nhân dân Lào từ sau giải phóng năm 1975 đến nay là cần thiết
nhằm khẳng định những thành tựu của Lào đạt được trong xây dựng
kinh tế và phát triển xã hội; khảng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, thành

qủa của nhân dân các bộ tộc Lào

trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ

đất nước và

2.

chế độ mới.

Đã từ lâu, ở vị tri địa lý nằm sâu trong nội địa, có nhiều nước

láng giềng bao bọc, không có đường biển giao lưu quốc tế, nước Lào
luôn bị xung đột khu vực tác động. Do vậy, Lào vẫn thường bị coi
như một ”khu đệm","hành lang". Người phương Tây ít tin tưởng vào
triển vọng phát triển và khả năng độc lập về kinh tế (thậm chí cả
chính trị và quân sự ) của Lào. Trong một số tài liệu báo chí phương

rót



4

Tây, Lảo bị gọi là "đất nước bị lãng quên’’ (Laos - Forgotten Country).
TỔ chức Ngân hảng thê giới còn kết luận: Lào hoàn toàn phụ thuộc
vào thế giới bên ngoài để trang trải các yêu cầu về phát triển. V.

V.

Tình hình đó đòi hỏi sự nỗ lực nghiên cứu, phân tích đánh giá
một cách có hệ thông và khoa học qúa trình phát triển kinh tế - xã
hội ở Lào từ sau giải phóng đến nay; khẳng định những cố gắng của
Lào nhằm thoát khỏi tình trạng nước chậm phát triển nhất, cải biến
xả hội cũ lạc hậu thành xã hội mói hiện đại, phát triển trong xu thế
hoà bình, ổn định, họp tác và phồn vinh.
3. Gần đây, do yêu cầu đổi mới của Việt Nam, việc nghiên cứu
các nước trong khu vực được chú trọng hơn, đặc biệt là kinh nghiệm
của các con đường phát triển. Lào lả một quốc gia độc lập, có đặc
điểm xuất phát và quá trinh phát triển riêng. Kết quả nghiên cứu về
Lào chẳng những có ý nghĩa về chính trị và khoa học mà còn mang
ý nghĩa thực tiễn. Việc nghiên cứu về Lào sẽ cung cấp những cứ liệu
khoa học cho việc nghiên cứu cơ bản lâu dài, đồng thời tăng sự hiểu
biết về đất nước láng giềng vốn có quan hệ truyền thông lâu đời VỚI
Việt Nam. Qua đó, góp phần phắt triển mối quan hệ đặc biệt Việt Lào trong tình hình mới.

n . MỤC ĐÍCH NGHIÊN c ứ u .

Nhận thức tính cấp thiết của vấn đề như trên, chúng tôi xác định
mục đích nghiên cứu gồm các điểm sau :
1. Tập hợp tư liệu và phác dựng lại các giai đoạn của quá trình


ứu


5

phát triển kinh tế-xã hội ở Lào từ sau giải phóng đên nay.
2. Bưóc đầu tìm hiểu về quá trình đổi mới kinh tê đang diên ra
ở Lào.
3.

Từ việc phân tích đường lối, chính sách và thực tiễn những

chuyển biến về kinh tế-xã hội sau năm 1975 đến nay, luận án đưa
ra một số nhận xét về quá trình xây dựng và phát triển kinh tế-xã
hội ở Lào trong 20 năm sau chiến tranh giải phóng dân tộc; rút ra
mộtsố đặc điểm của qúa trình phát triển, một sô vấn đề đặt ra hiện
nay đối vói sự phát triển vả triển vọng của Lào trong thời gian tới.

IU. LỊCH SỬ NGHIỀN c ứ u VAN ĐE:

1. C ác tá c giả Lào :
Phát triển kinh tế-xã hội là một trong hai nhiệm vụ chiến lược
của Đảng, Nhà nước và Nhân dân các bộ tộc Lào, Trong các văn kiện,
nghị quyết, chính sách của Đảng và Chính phủ , một sô' tác phẩm
của các vị lãnh tụ đều đề cập đến các vấn đề thực tiễn và chính sách
phát triển kinh tế-xã hội. Các văn kiện đại hội Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào lần thứ III ( năm 1982) , lần thứ IV (năm 1986), lẩn thứ
V (năm 1991) và lần thứ VI (năm. 1996) đều tập trung tổng kết và
đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của các

nhiệm kỳ đại hội; của các kê hoạch nhà nước; vạch ra phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển trong
thời gian tới. Tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Cayxỏn
Phômvihản đá có nhiều tác phẩm, bài viết và phát biểu về vấn đề


6

phát triển đất nước, xây dựng chế độ mới. "Chiến lược quá độ lên chủ
nghĩa x ã hội" [4], "Cách m ạng ở L ào : Thực tiễn và triển vọng" [91],
"Một s ố vấn đ ề quản lý kin h t ế h iện n ay ở Làò' [8]

V .V ..

đều là những

tác phẩm quan trọng phản ánh nội dưng đường lối và chỉ đạo xây
dựng kinh tế, phát triển xã hội của Đảng và Chính phủ.
Hàng năm, Hội đồng nhân dân tôi cao (nay là Quôc hội), các bộ,
các ngành đều có báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội và các lĩnh vực
cụ thể. Năm 1985, Lào tổng kết 10 năm phát triển kinh tế-xă hội,
chấn hưng đất nước sau giải phóng (1975-1985)[97]. Đây là kết quả
nổi bật về công tác thông kê, phản ánh sự phát triển của Lào qua
các con SỐ.
Đặc biệt, ở một sô hội nghị quốc tê như các hội nghị bàn tròn
do UNDP tổ chức, chính phủ Lào đều có báo cáo về chiến lược phát
triển k in h tế -x ã hội [8 5 ,8 6 ,8 7 ,89.V.V.]. Nội dung của nh ữ ng t à i liệu náy
báo cáo về tình hình kinh, tế-xã hội, mục tiêu, chính sách, kế hoạch
phát triển và những đề nghị trợ giúp của Lào. Gần đây, công tác
thống kê của Lào đã có bước phát triển. Trung tâm thông kê quõc

gia đã cung cấp sô' liệu cho việc hoạch định chính sách và kế hoạch
phát triển; cho công- tác nghiên cứu cơ bản và ứng dụng ở trong và
ngoài nước.
Công trình L ịch sử L ào tập I I I của tập thể các nhà sử học Lào
xuất bản năm 1989 được các soạn giả dành một phần đề cập đến giai
đoạn sau nam 1975, coi đó là chặng đường đầu tiên của nhân dân
các bộ tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [75]. Ở nhiều


7

hội nghị quỗc tế, một sô" học giả Lào đọc báo cáo khoa học về những
vấn đề kinh 'cế, xả hội. Năm 1990, nhân kỷ niệm 70 năm ngày sinh
CỐ tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lảo Cayxỏn Phồmvihản,
nhiều nhà lãnh đạo và cán bộ cấp cao, cán bộ khoa học của Lảo đã
viết về Ông. Trong đó phản ánh sự phát triển của đất nước ở các
lĩnh vực [10].
Một số luận án phó tiến sỹ của nghiên cứu sinh Lầo bảo vệ thành
công ở nước ngoài, trong đó có ở Việt Nam [31; 32; 42; 50. v.v...]. Các
đề tầi tập trung đi sâu vào những vấn để đặt ra của sự phát triển
trong thời kỳ đổi mới. Đó là những vấn để đổi mói cơ chế quản lý
kinh tế; Vấn đề phát triển kinh tế hộ gia đình; Đổi mới tác động của
nhà nước nhằm khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp; Kinh tế đõì ngoại trong quá trình chuyển nền kinh tê
tự nhiên sang kinh tế hàng hoá.v.v, Các nghiên cứu sinh đã giải quyết
tương đôi thành công trên các phương diện lý luận chính sách và thực
tiễn. Ngoài ra, báo chí, bản tin của Lào cũng đăng tải thường xuyên
về tình hình kinh tế, xả hội. Tuy tản mạn, có tính, chất thòi sự, nhưng
những tài liệu đó có ý nghĩa thiết thực trong đòi sông xã hội và phục
vụ nghiên cứu.

2. C ác tá c giả Việt Nam :
Lào và Việt Nam vốn có quan hệ từ lâu đời. Trong chiến tranh
giải phóng dân tộc, nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh chống kẻ
thù chung. Trong giai đoạn xây dựng chế độ mới sau chiến tranh, hai
nước vẩn giữ vững và phát triển quan hệ hợp tác toàn diện. Nhiều


8

đoàn chuyên gia Việt Nam đâ sang giúp cách mạng Lào. Nửa đầu
những năm 80 trở về trước, việc nghiên cứu về kinh tê xã hội Lào
giai đoạn sau chiến tranh được thực hiện nhằm phục vụ cách mạng
và sự hợp tác giữa hai nước. Hoạt động của các cán bộ CP.38 , Bộ
Quốc phòng, các bộ và các ngành là điều tra, khảo sát tình hình kmh
tế, xã hội phục vụ công tác hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào.
Các tài liệu về Lào ở giai đoạn này thường lưu hành nội bộ, là tài
liệu mật để làm việc. Công tác nghiên cứu khoa học cơ bản về kính
tế- xã hội Lào sau năm 1975 chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
của cách mạng, chưa có nhiều kết quả công bô công khai trên các
xuất bản phẩm,
Từ giữa những năm 80 trở lại đâv, việc nghiên cứu về Lào được
đẩy n anh. Nhiều kết quả nghiên cứu bước đầu được công bố. Những
công trình nghiên cứu của Việt Nam giới thiệu về kinh tế, xã hội sau
năm 1975 được đăng trong một sô tạp chí nghiên cứu chuyên ngành
và kỷ yếu hội nghị khoa học. Các tác giả Lê Bá Thảo, Dương Phú
Hiệp, Nguyễn Kim Sơn, Hồng Giao, Mai Sĩ Hùng, Phạm Xuân Quế,
Hoàng Xuân Lựu, Đào Văn Tiến,

Uông Trần Quang đã đóng góp tạo


lập một đội ngứ cán bộ nghiên cứu về kinh tế xã hội Lào giai đoạn
sau chiến tranh. Nhà xuất bản Sự thật năm 1983 đá biên soạn giới
thiệu khái quát về Nước Cộng h oà Dân chủ N hân dân L ào [37]. Giáo
sư Lê B á Thảo từ góc nhìn địa lý kinh tế đã đưa ra nhiều kiến giải,
nhận thức về vấn đề phát triển kinh tế.

Phó Giáo sư Dương Phú

Hiệp từ giác độ triết học đá nghiên cứu trên cơ sở đường lối chính
sách và đưa ra nhiều ý kiên đánh giá có tính chất lý luận về thời


9

kỳ quá đô. Các tác giả Nguyễn Kim Son, Hồng Giao, Mai Sĩ Hùng,
Phạm Xuân Quế, Đảo Văn Tiến .v.v..., nhiều người vốn đã từng lăn
lộn trên đất Lào trong cả hai giai đoạn cách mạng trước và sau nãm
1975 đã nghiên cứu về tình hình Lào, phục vụ nhiệm vụ hợp tác toàn
diện giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.
Viện Kinh tế thế giới của Việt Nam đã có một vài công trình
nghiên cứu lưu hành nội bộ giói thiệu về kinh tế-xã hội Lào sau 1975
[66; 69], Là những bước khai phá ban đầu dưới góc độ khoa học,
những công trình này còn nhiều hạn chế về tư liệu, về độ dày thòi
gian của quá trình phát triển và chiều sâu của vấn đề. Tuy nhiên,
dù chì là tài liệu tham khảo, không phổ biến, những công trình này
có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện việc nghiên cứu kinh tế xã hội
Lào sau giải phóng còn là mảnh đất khoa học xã hội chưa cày xới.
Năm 1993, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phối hợp với Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản cuốn sách " Quan hệ Việt-Lào,
Lào-Việt. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của các nhà chính trị, các

nhà khoa học, các nhà văn hoá ở Việt Nam và Lào. Các tác giả

tập

trung vào ba chủ đề lớn : Chủ Tịch Hổ Chí Minh với quan hệ đoàn
kết Việt-Lào, Lào-Việt; lịch sử quan hệ Việt-Lào, Lào-Việt; một sô' nét
về

đất nước, lịch sử, văn hoá và kinh tế Lào. Những bài viết nhằm

góp phần tăng cường củng cố và phát triển tình đoàn kết hữu nghị
giữa hai nước Việt Nam-Lào. Đồng thời, góp phần cung cấp thêm cho
bạn đọc nhiều tư liệu phong phú, bổ ích trong việc tìm hiểu nghiên
cứu về Lào và quan hệ giữa hai nước. Trong cuôn sách này, mặc dù
số bài viết về kính tế

sau 1975 chiếm một phần rất nhỏ (4/51) và


10

mới chỉ là "một số nét", song cũng đả bước đầu phản ánh được chặng
đường 15 năm hợp tác kinh tế giữa hai nước (1976-1990); thực trạng
và chiều hướng đi lên của nền kinh tế; và công cuộc đổi mới kinh tế
đang diễn ra ỏ' Lào.
Năm 1994 Viện nghiên cứu Đông Nam Á đã tập hợp được sự
tham gia của các nhà nghiên cứu về Lào. Kết quả này là tuyển tập
các bài nghiên cứu của nhiều học giả Việt Nam và Lào trong "Tìm
hiểu lịch sử văn hoá Lào, tập I I I ’ do Nhà xuất bản Khoa học Xả hội
xuất bản. Trong đó, vấn đề phát triển kinh tế - xã. hội được phản

ánh qua các bài viết : "Những thay
phát

đ ổ ỉ về chính sách kin h t ế và sự

triển kừih t ế của L ào trong những năm gần đ â y " [60]. "Một sô

vấn đ ề thực trạng kinh t ế - xã h ội ở Cộng ho à Dân chủ N hân dân
L ào ’[49]. "Sự lựa chọn con đường p h á t triển trong quá trình đổi m ới
ở Cộng h oà Dân chú Nhân dân L ào "[25] và "Nước L ào trong chiến
lược m ở cửa kinh t ế cứa tính Vân Nam Trung Q uốc" [67, 354 - 362].
Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng nước Lào, công
trinh

'Cộng hoà Dân chủ N hân dân

L ào : 20 năm xây dựng và p h át

triển

của Trần Cao Thành [63] và

'Lào : Đ ất nước, con ngườỉ' của

Hoài Nguyên [40] đã kịp thời ra mắt bạn đọc. Tác giả Hoài Ngmyên
đã

giới thiệu về đất nước và con người Lào truyền thống trong cuốn

sách dầy 695 trang. Đây là thành quả của tác giả, đồng thời là kết

quả của nhiều năm nghiên cứu, tích lũy của nhiều cán bộ Việt Nam
và Lào. Với những trang tư liệu quý báu, mang tính khoa học cao
qua điều tra khảo sát thực tiễn, công trình giới thiệu vói bạn đọc
trong và ngoài nước về đất nước và con người Lào. Trọng tâm của


11

cuốn sách giới thiệu sự hình thành các nhóm tộc người và các tộc
người ở Lào. Tác giả cũng dành một phần giới thiệu khái quát về địa
lý tự nhiên và lịch sư; về kinh tế-xã hội

truyền thống. Kết quả này

góp phần lý giải ảnh hưởng của các yếu tô lịch sử và truyền thòng
đối với sự phát triển của nước Lào ngày nay. Cuốn "Cộng hoà Dân
chủ N hân dân L ào : 20 năm x ây dựng và p h á t triển "đả phác dựng
bức tranh toàn cảnh nước Lào và quá trình biến đổi của nó trong
suốt 20 năm (1975 - 1995). Đó là quá trình xây dựng và bảo vệ chính
quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến địa phương; là đường lối
xây dựng đất nước và những thành tựu trên các mặt kinh tế - xã hội
và an ninh quốc phòng; là những thu hoạch trong chính sách đôi ngoại
và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhầ nước Lào ; nhất là công cuộc
đổi mới trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội vói những thành tựu bước
đầu đạt được; con đường phát triển của Lào trên tinh thần đôì mới
đầy triển vọng và cứng không ít khó khăn thách thức [63,7], Các công
trinh của giới nghiên cứu nước ta là những đóng góp khoa học đáng
kể vầo việc nghiên cứu kinh tê-xã hội Lào dưới chế độ dân chủ nhân
dân, góp phần lấp khoảng trõng trong công tác nghiên cứu về Lào
hiện nay.

3. Học giả cá c nư ớc khác:
Trong số các bài viết về Lào bằng tiếng Anh và tiếng Pháp đăng
rải rác trên một số tạp chí, xuất bản phẩm, đáng chú ý là của các
tác giả Nayan Chanda, William Womer

.V .V ..

Tiêu biểu nhất là Grant

Evans; giáo sư nhân chủng học Đại học Tổng hợp Hồng Kông. Trong
những năm gần đây, Grant Evans đã công bố một số công trình nghiên


12

cứu vể Lầo, chủ yếu lả vê vân đê nông nghiệp vả nông dân
[82;83;84.v.v.]. Đáng lưu ý, năm 1990 -1991, Viện phát triển quôc tê
Harvard thuộc Trường Đại học Harvard tổ chức hội thảo về công cuộc
đổi mới ở ba nước Đông Dương. Trong đó có một số bài nghiên cứu
về đổi mới ở Lào [68]. Các tác giả tập trung xem xét cải cách kinh
tế ở Lào từ góc độ vĩ mô, theo đặc thù của Lào. Bên cạnh việc nhấn
mạnh những tiến bộ đạt được, các tác giả có nhiều ý kiến đánh giá
về đổi mới trước những năm 90; về những thách thức trên con đường
cải cách đang bắt đầu. Qua đó, chúng ta có thể thấy được quan điểm
của các nhà quan sát phương Tây đối với công cuộc đổi mới nước Lào.
Giới khoa học Pháp cũng quan tâm nghiên cứu về sự phát triển của
Lào. Chẳng hạn, C.Taíllard là tác giả cuồn "Le Laos" (Nước L à o ) xuất
bản năm 1988. Các chuyên viên của các tổ chức quốc tế tại Lào (IMF,
WB, ƯNDP.V.V.) đã có nhiều báo cáo nghiên cứu về tình hình kinh tế
xả hội [90; 94; 95; 96; 100.V.V...]. Trong điều kiện công tác nghiên cứu

và thống kê của Lào còn chưa phát triển, các chỉ sô thống kê tổng
hợp về kinh tế, xả hội khá chính xác của các cơ quan này có ý nghĩa
cần thiết và quan trọng.
Sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lảo trước và sau giải phóng đã
được nhiều học giả Xô Viết sớm giới thiệu trên báo, tạp chí và xuất
bản phẩm. Trong các xuất bản phẩm bằng tiếng Nga, một số đã được
dịch ra tiếng Yiệt. Ngoài các công trình ”'Nước Lào" của Viện Phương
Đông học thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Liên Xô xuất bản năm 1980
[64] và "Cộng h oà Dân chứ N hân dân Lào" của Ioanexian X.I xuất
bản năm 1979 [28], tiêu biểu nhất là công trình nghiên cứu của

v.v


13

Ximônôp về "Sự p h á t triển kin h t ế L ào (từ những năm 50 đến những
năn: 80)" [103]. Trọng tâm của tác giả nghiên cứu những vấn đề lịch
sử kinh tê của nước Lào trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với cơ sở vật chất kỹ thuât kém phát triển; phân tích sự phát triển
cùa các linh vực sản xuất và lưu thông trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau ; nhấn mạnh vai trò của các môi quan hệ kinh tế đôi ngoại
như là sự biểu

hiện của khía cạnh liên minh

quôc tế giữa giai cáp

vô sản và giai cấp nông dân; xem xét hệ thông kế hoạch hóa xã hội
chù nghĩa trong nền kinh tế và sự vận dụng sáng tạo NEP của Lênin

vào hoàn cảnh đặc thù Lào của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Tư
khi Liên bang Xô Viết tan rã, hệ thông các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, biến động phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội ở những nước này đả ảnh hưởng trực tiẽp đẽn việc nghiên cứu
và trao đổi của các nhà khoa học. Vì thế, cùng với sự hạn chế về
trình độ tiếng Nga, việc tiếp cận những xuất bản phẩm giói thiệu về
sự phát triển kinh tế-xã hội Lào những nám gần đây bằng tiêng Nga
của Luận án còn chưa thật đầy đủ.
Chúng tôi không đọc trực tiếp các tải liệu Trung Quốc. Qua giói
thiệu về tình hình nghiên

cứu Lào ờ Trung Quốc của các chuyên gia

Trung Quốc học ở Việt Nam, chúng tồi được biết việc nghiên cứu về
Lào ở Trung Quốc cúng được đẩy mạnh. Không chỉ chú trọng nghiên
cứu Lào ở giai đoạn này, các học giả Trung

Quốc còn chú ý giới

thiệu những kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết và xuất bản
phẩm của các học giả ở trong và ngoài nước

đều đề cập đến tình


14

hình kinh tế - xá hội Lào ở những mức độ và giác độ khác nhau.
Tuy nhiên, ngoài công trình "Cộng h òa Dân chủ N hân dân L ào: 20

nảm x ây dựng và p h át triển", cho đến nay, ở Việt Nam còn thiếu
vắng chuyên khảo về sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lào trong 20
năm sau chiến tranh giải
cho rằng, dù chỉ

phóng dân tộc (1976 - 1995). Chúng tôi

là bước đầu, việc nghiên cứu kinh tế - xã

hội Lào

ở giai đoạn này lầ rất cần thiết. Một mặt, việc làm đó tổng kết

lại

chặng đường xây dựng và phát triển ở Lào từ khi giải phóng đến nay;
lấp dần đi khoảng trống trong nghiên cứu vê nước Lào dân chủ nhân
dân. Mặt khác, kết quả nghiên cứu góp phần phản ánh những bước
đi sáng tạo của Lào trong quá trình xây dựng để phát triển;

khảng

định việc nghiên cứu về nước Lào ngày nay là cần thiết, không chỉ
có giới thiệu để tăng sự hiểu biết, mà còn cần phải*, kiến giải và đề
xuất những kiến nghị khoa học, những trao đổi kinh nghiệm giữa các
nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u , GIỚI HẠN VẤN ĐỂ
NGHIÊN CỨU.
1 Phương pháp nghiên cứu :

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vói nhận thức
và nhằm cố gắng đạt các mục đích đặt ra, khi viết luận án, một mặt
chúng tôi dùng phương pháp lịch sử để phân chia giai

đoạn của qúa

trình phát triển; mô tả và phân tích theo trục thời gian để thấy rõ
sự vận động của tiến trình phát triển. Đồng thòi, phương pháp lôgic


15

được sử dụng đảm bảo kết cấu của luận án giải quyết những nhiệm
vụ đặt ra. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tổng họp
thông kê phân tích so sánh,

để minh chứng nội dung các ván đề cần

giải quyết.
2. G iói h ạn vân đề n ghiên cứu:
Để viết luận án, chung tôi thừa hưởng nhiều kết quả nghiên cứu
của nhiều học giả và cán bộ chuyên trách ở trong và ngoài nước. Song,
do phạm vi đề tài rộng về không gian và thời gian, tư liệu tản man,
các kết quả nghiên cứu về vân đề này chưa nhiều và thiếu hệ thống,
các sự việc vẫn còn đang diễn ra, điều kiện đi nghiên cứu thực địa
khó khăn v.v..., luận án tập trung tìm hiểu sự phát triển qua các giai
đoạn với những' đặc trưng về đường lối chính sách và thực tiễn. Là
một luận án sử học, chúng tôi nghiên cứu về kinh tế - xả hội của
một nước để tìm hiểu quá trình phát triển, song không đi sâu vào
từng ngành kinh tế, từng ỉĩnh vực xã hội cụ thể.

Đế tài được giải quyết từ giác độ lịch sử, những khái niệm về
kinh

tế chúng tôi không đề cập phân tích hoặc giải thích. Do

tình

hình

nghiên cứu về Lào giai đoạn sau chiến tranh có rất nhiều

khó

khăn và hạn chế, nhất là nguồn tư liệu còn ít ỏi, nhiều sô liệu tản
mạn chúng tôi không chú thich nguồn cụ thể. Một sô" số liệu từ các
nguồn tài liệu khác nhau còn chưa thông nhất, luận án chưa thể chỉnh
lý chính xác đầy đủ. Dù sao, theo chúng tôi, luận án cũng đã cố gắng
thê hiện tổng hợp các nguồn tài liệu, các sô" liệu thống kê một cach
cơ bản và chính xác hơn. Hy vọng rằng, trong quá trình nghiên cứu


16

sau này, chúng tôi có điều kiện tiếp tục đóng góp vào việc nghiên cứu
lịch sử hiện đại Lào.

V. CẤC NGUồN TÀI LIỆU.

1. Tài liệu gốc :
Nguổn tài liệu gốc là tài liệu tiếng Lào bằng nguyên


bản hay

đã được dịch ra tiếng Việt. Các tài liệu này bao gồm chủ yêu là các
văn

kiện của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; các nghị quyết chính

sách của Đảng; các báo cáo kế hoạch và tổng kết của Chính phủ và
Quốc hội; những bài phát biểu và xưât bản phẩm của các lãnh tụ
Lào.
2. Tài liệu tham khảo khác:
Ngoài tài liệu tham khảo gốc, chúng tôi sử dụng nhiều

tài liệu

tham khảo khác của các chuyên viên các tổ chức quốc tế, của các học
giả ở trong và ngoài Việt Nam.
Chúng tôi khai thác tư liệu trong các thư viện, ở một sô' bộ,
ban, ngành và cơ quan đối ngoại, tổ chức

quốc tế có quan hệ với

Lào. Viện nghiên cứu Đông Nam Á cũng là nơi cung cấp nhiều tài
liệu tham khảo. Các nguồn tài liệu từ báo, tạp chí, bản tin; những
tài liệu về dân tộc học, xả hội học, địa lý kinh tế, văn hóa dân gian
cũng được sử dụng để giải quyết những nội dung của luận án.


17


VI. Ý NGHĨA VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN:

1.

Trên cơ sở sưu tầm và hệ thông hoá tài liệu, luận án

giới thiệu về qúa trình xây dựng kinh tế-xã hội và công cuộc đổi mới
đang diễn ra ở Lào mà từ trước đến nay mới được trình bày

tản

mạn trên một số sách báo ồ Việt Nam. Qua đó, góp phần vào việc
nghiên cứu về con đường phát triển của

Cộng hoà Dân Chủ Nhân

dân Lào.
2. Khẳng định những kết quả đạt được, những nỗ lực của Công
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong quá trình khôi phục, cải tạo và xây
dựng để phát triển đất nước hoà bình, độc lập tự chủ và ngày càng
thịnh vượng; cũng như những đóng góp của Lào trong việc xây dựng
khu vực Đông Nam Á hoà bình ổn định, họp tác và phát triển. Trên
cơ sở đó, luận án bác bỏ những ý kiến phủ nhận hoặc đánh giá thấp
thành tựu của chê độ mới ở Lào. Luận án khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và những thánh tựu mà
nhân dân các bộ tộc Lào đã giành được trong sự nghiệp xây dựng chê
độ mới và bảo vệ đất nước.
3. Luận án có thể góp phần kiến giải một sô câu hỏi đang đặt
ra về con đường phát


triển của Lảo : Những khó khăn và thuận lợi

của Lào khi bước vào

xây dựng xã hội mới ?Tiến trình xây dựng và

phát triển đất nước đã diễn ra như thế nào và sẽ như thế nào ?
Những kết luận bước đầu về các vấn đề trên, nhất là về những khó
khăn, thuận lợi và biện pháp giải quyết của

Lào có thể là tài liệu

tham khảo trong quátrình đổi mới và phát triển
'y.

'

của nước nhà.

■'

i

T R U K Ç lĩ,'-- v ;'í ’.'’ ' íí T P T N iT V * ¿ ’

N o X L Ì ị i ff* Ị


18


CHƯƠNG MỘT
NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA TÌNH HÌNH LÀO
SAU CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.
I. NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THốNG CHÍNH TRỊ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO.
1. Sự ra đòi Nhà nuức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân.

Trong sự chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào nhận thức sâu sắc rằng : ”có lực lượng mới tạo được
thời cơ và mới lợi dụng được thời cơ, ngược lại, thời cơ lại nhân lên
và tạo ra được lực lượng mói, thời cơ cũng là lực lượng” [5,237]. Bước
sang năm 1975, cục diện cách mạng Đông Dương và so sánh tương
quan lực lượng trong nước đã tạo thòi cơ thuận lợi "ngàn năm có một"
cho cách mạng Lào.
Ở trong nước, mặc dù việc chuẩn bị của cách mạng còn có những
hạn chế, thế và lực của đôi phương còn mạnh và còn ngoan cô, song
khả năng giành chính quyền trong phạm vi cả nước đang chín muồi.
Hai thảnh phố' lớn được trung lập hoá là ViêngChăn và Luổng
Phạbang đã có lực lượng quân đội Neo Lào hắcxạt (Mặt trận Lào yêu
nước), o một số nơi trong vùng địch kiểm soát, nhiều đơn vị lực lượng
vũ trang cách mạng đã xâm nhập và áp sát đôi phương, làm hậu
thuẫn cho phong trào đấu tranh cúa quần chúng. Trong nhân dân và
quân đội Vương quốc đã xuất hiện hình thái nổi dậy bộ phận.

Từ

cuối tháng 12 năm 1974 đến đầu tháng 1 năm 1975, tiểu đoàn 102
thuộc quân khu I đóng ở HứaKhoỏng làm binh biến, lật đổ chính
quyền tỉnh, chiếm thị xã HuộiXàl đuổi cô" vấn Mỹ đội lốt dân sự ra

khỏi tỉnh, tuyên bố HứaKhoỏng là địa phương trung lập thuộc Chính


19

phủ liên hiệp. Từ đầu tháng 1 năm 1975 đến CUỐI tháng 2 năm 1975,
nhân dân ThàKhẹt, NọngBỐc, ViêngChăn, PắcXê nổi dậy chông chính
quyền ViêngChán, thu hút nhiều tầng lóp nhân dân tham gia.
Trong Chính phủ liên hiệp, lực lượng cách mạng tiêp tục đấu
tranh với phía chính quyền Vương quốc đòi thi hành đầy đủ nội dung
Hiệp định ViêngChăn; tích cực tranh thủ lực lượng trưng gian, từng
*sjbước phân hoá, cô lập và làm tê liệt phái cực đoan thân Mỹ.
Trong khi đó ở bên ngoài, cách mạng Cainpuchia thắng lợi ngày
17.4.1975 và cách mạng Việt Nam toàn thắng ngày 30.4.1975. Thắng
lợi của Việt Nam và CamPuChia là "nhân tố trực tiếp" và đã "tác
động trực tiếp" [5,237] đến cuộc kháng chiến của Lào. Vì "cách mạng
Lào là một bộ phận khăng khít của cách mạng Đông Dương và cách
mạng thế giói" [5,252], Trước những thời cơ thuận lợi của cục diện
cách mạng Đông Dương, gồm cả thuận lợi của so sánh lực lượng trong
nước tạo ra, đầu tháng 5 năm 1975, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
"hạ quyết tâm khởi nghĩa giành chính quyền". Quá trình giành chính
quyển diễn ra theo ba bước :
Bước một, Đảng phát động phong trào đấu tranh chính trị của
quần chúng ở thành phố, Mục tiêu nhằm đánh đuổi cố vấn Mỹ, đánh
đo các tập đoản phản động nhất lả Xixuc NaChămpaxắc, Phủi
Xananikon và BunUm để "châm ngòi khởi nghĩa trong cả nước", tiếp
tục đưa lực lượng vũ trang cách mạng áp sát và tiến sâu vào vùng
đối phương kiểm soát.
Bước hai, sau khi ở ViêngChăn, PăkXế, XêĐôn " châm ngòi" (ngầy
1.5,1975), quần chúng ở các địa phương được huy động đứng lên khỏi

nghĩa: Phong trào

đấu tranh của nhân dân phát triển thành cao trào,

có sự tác chiến của quân độí giải phóng Lào và binh biến ìy khai


20

trong quân đội Vương quôc. Bằng ba mũi tiến công, kết họp đâu tranh
phap lý trong Chính phủ liên hiệp, phong trào nổi dậy giành chính
quyền diễn ra trên phạm vi cả nước. Quá trình này phát triển liên
tục từ 1.5.1975 đến 25.8.1975. Các uỷ ban khởi nghĩa được thành lập.
Chính quyền ViêngChăn bao gồm hệ thông các công cụ bạo lực ngụỵ
quân và

ngụy quyền

bị lật đổ. Ranh giới giữa vùng giải phóng cũ

của cách mạng với vùng địch hậu do chính quyền ViêngChăn kiểm
soát bị xoá bỏ.
Ngày 23.8.1975, Đảng- Nhân dân Cách mạng Lào ra hoạt động
công khai. Đảng tuyên bố thông nhất đất nước, xoá bỏ ách thõng trị
của thực dân đế quốc. Đến lúc này, chính quyền ở 15 tỉnh , 4 thành
phố lớn (bao gồm cả hai thành phố' ViêngChăn và Luổng Phạbang),
các thị xã và 67 mường đả thuộc về cách mạng [43,307].
Bước ba, sau khi đập tan toàn bộ hệ thông chính quyền Vương
quốc, thành lập chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương, cách
mạng tiến lên giành chính quyền trung ương. Ngày 1 và 2 tháng 12

năm 1975, Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào hắcxạt) triệu tập đại hội
đại biểu nhân dân toàn quốc. Đại hội ra tuyên bô" xoá bỏ chẽ độ quàn
chủ, tiếp nhận việc vua Xixavang Vatthana tự nguyện thoái vị ngày
29.11.1975; tuyên bố giải thể Chính phủ liên hiệp dân tộc lâm thời
và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp; thiết lập chế độ và Nhà
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân.
Đối với nhân dân các bộ tộc Lào, sự ra đời N hà nước Cộng hoà
Dần chủ N hân dân lả thành quả cơ bẩn của cách m ạn g dân tộc dân
chủ. Cuộc kháng chiến toàn thắng đâ chấm dứt chế độ quân chủ, xoá
bỏ ách thông trị của thực dân đế quốc, giành độc lập tự do trọn vẹn.
Thắng lợi năm 1975 là mốc son lớn trong lịch sử dân tộc, là điều


21

kiện tiên quyết để nhân dân các bộ tộc xây dựng đất nước đảm bảo
có "hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, phồn vinh và tiến bộ xã
hội" [5,181].
Đôi với cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới, sự toàn
thắng của nhân dân các bộ tộc L ào đâ góp

phẩn vào thắng lợi trọn

vẹn của nhân dân ba nước Đông Dương chống k ẻ thù chung ; góp
phần làm thất bại chủ nghĩa thực dân mói của Mỹ, tạo ra cục diên
"sau Việt Nam " VỚI những biến đổi mới trong khu vực và trên thê
giới, Liên minh đoàn k ế t giữa ba dân tộc trên bán đảo Đồng Dương
bước sang g iai đoạn mới, "đồng thời là nhân tô' cực k ỳ quan trọng đôi
vói hoà bình và ổn định ở Đông Nam Á" [20, 146-147].
2. Hệ thống chính trị Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.


Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 2.12.1975 đã lựa chọn
chính th ể Cộng h oà Dân chủ N hân dân để xây dựng nhà nước cách
mạng. Để kiến thiết một chế độ xã hội mới, nhà nước mới cần phải
có đầy đủ sức mạnh thực hiện các chức năng đối nội và đôi ngoại.
Bộ máy các cơ quan quyền lực nhà nước kiểu mới từ trung ương đến
địa phương đã nhanh chóng được xây dựng và kiện toàn. Bên cạnh
chức năng chuyên chính trấn áp các thế lực phản động, bảo vệ thành
quả cách mạng, chính quyền các cấp còn phải cải tạo, xây dựng và
quản lý mọi mặt đời sống kinh tê, xă hội trong điều kiện và hoàn
cảnh mới.
N hà nước Cộng h oà Dân chủ N hân dân L ào được tổ chức và thực
hiện theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước,
Mặt trận, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng.


22

Nhầ nước là bộ phận lớn nhất của hệ thông chính trị. Đây là
công cụ điều tiết các quan hệ xả hội, đặc biệt là quan hệ chính tri
và quan hệ kinh tế. Hệ thông Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào được xây dựng theo 4 cấp : Trung ưcmg, tỉnh, huyện và xã. Các
cấp chính quyền được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc chung thông
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ. Hệ thõng các cơ quan nhà nước
từ trung ương tới địa phương đảm bảo sự thống nhất phân công, phân
cấp về quyền hạn và trách nhiệm.
Hệ thông cơ quan quyền lực Nhà nước trung ương gồm Hội đồng
Nhân dân tôi cao và Hội đổng Bộ trưởng. Hội đồng Nhân dân tôi cao
lả cơ quan lập pháp cao nhất của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.

Hội đổng do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 2.12.1975 bầu,
gồm 45 thành viên. Trong đó có một chủ tịch và bôn phó chủ tịch.
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao đồng thời cũng là Chủ tịch nước
Hoàng thân Xuphanuvông. Vua Xixavang Vatthana được giữ làm cố
vấn tôi cao của Chủ tịch nước. Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan hành
pháp cao nhất, do Chủ tịch nước và Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quôc thông qua. Thành phần Hội đổng bộ trưởng đầu tiên của Lào
gồm 39 thành viên. Trong đó có một Thủ tướng và bốn Phó thủ tướng.
Tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản được
cử làm Thủ tướng đầu tiên. Hoàng thân Xuvănna Phuma là cố vấn
của Chính phủ.
Hệ thông các bộ bao gồm : Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục, Bộ Quốc
phòng, Bộ Ngoại griao, Bộ Nội vụ, Bộ Thương binh và xã hội, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Thông tin tuyên truyền Văn hóa và Du lịch, Bộ Y
tế, Bộ Tư pháp, Bộ Nông Lâm nghiệp và Thuỷ lợi, Bộ Công nghiệp
Thương mại và Thư tín. Ngoài ra, các cơ quan ngang bộ gồm Uỷ ban


23

Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Dân tộc, Ngân hàng Quốc gia và Văn
phòng Hội đồng Bộ trưởng [64,170-171],
Ở địa phương, hệ thông chính quyền có Hội đổng nhân dân các
cấp từ tỉnh (khoẻng) đến huyện (mường) và xã (tà xẻng). Hội đồng
nhân dân các cấp địa phương do nhân dân địa phương bầu cử và bãi
miến.
Như vậy, Nhà nước dân chú nhân dân do dân bầu ra, ỉà biểu
hiện tập trung nhất quyền lực của lứiân dân, là công cụ thực hiện
quyền lực của nhân dân cả về đôi nội và đôi ngoại. Khác với thòi kỳ
chê độ quân chủ, từ đây, nhân dân các bộ tộc có quyền và có điều

kiện cần thiết để tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thực tê lịch sử đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến
bộ xã hội ở Lào đã chứng minh và khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong hệ thõng chính trị. Đây là
"nhân tô' cơ bản quyết định nhất đối với sự thành công của cách mạng"
[5,262], Trong giai đoạn cách mạng sau chiến tranh giải phóng dân
tộc, Đ ảng N hân dân Cách m ạn g L ào vẫn ỉà nhân t ố quyết định đối
với sự p h á t triển của h ệ thống chính trị, là h ạ t nhân đảm bảo sự
thống n h ất của h ệ thống chính trị.
Trong lịch sử cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được
thành lập ngày 22.5.1955. Tiền thân của Đảng là Đảng Cộng sản Đông
Dương. Trước đại hội Đảng lần thứ II năm 1972, Đảng có tên gọi là
Đảng Nhân dân Lào. Suốt 20 năm (từ 22.5.1955 đến 23.8,1975), Đảng
bí mật lãnh đạo nhân dân các bộ tộc đấu tranh giành độc lập. Vai
trò lãnh đạo phong trào cách mạng của Đảng thông qua Mặt trận Lào
yêu nước (Neo Lào hắc xạt). Đảng Nhân dân Cách mạng là Đảng của
mọi tầng lớp nhân dân lao động các bộ tộc, là đại diện tiên tiến của


24

giai cấp công nhân, lây chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Từ tháng 8 năm 1975, Đảng ra hoạt động cóng khai , tiếp tục lãnh
đạo nhân dân các bộ tộc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ,
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới.
Hệ thống chính trị Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lầo còn có các
tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Trong đó, nổi bật lả vai trò
rất quan trọng của Mặt trận Lào vêu nước, Liên đoàn lao động (Công
đoàn) , Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng và Hội liên hiệp phụ
nữ.

Mặt trận Lào yêu nước được thành lập ngày 6,1.1956. Nhàm mở
rộng Mặt trận dân tộc thông nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền
cách mạng, tập trung lực lượng chông chiến tranh xâm ìược của Mỹ,
Đảng triệt để thực hiện chiến lược hoà hợp dân tộc, thu hút mọi người
Lào có tinh thần yêu nước tham gia Mặt trận chông kẻ thù chung.
Sau thắng lợi năm 1975, Mặt trận Lào yêu nước do Chủ tịch
nước Hoàng thân Xuphanuvông làm chủ tịch. Mặt trận tiếp tục sự
nghiệp tập hợp và đoàn kết nhân dân các bộ tộc thực hiên hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày 16.2.1979, trước
tình hình mói , Mặt trận Lào yêu nước đổi tên thành Mặt trận Lào
xây dựng đất nước (Neo Lào xạngxạt). Mặt trận tiếp tục củng cố và
mở rộng khối đại đoàn kết thông nhất dán tộc. Ngoài các đoàn thể
quần chúng, các thành phần khác như nhân sỉ, trí thức, tù trưởng,
tộc trưởng và Hội phật giáo đều là thành viên của Mặt trận. Ngày
9.9.1987, Mặt trận Lào xây dựng đất nước họp đại hội lần thứ II. Đại
hội đánh giá kết quả đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bầo vệ
đất nước. Đồng thời , Đại hội sửa đổi điều lệ, đề ra chương trình


×