Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu đặc điểm khu hệ Bò sát, Lưỡng cư làm cơ sở và đề xuất một số biện pháp bảo tồn tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.41 MB, 99 trang )

i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------

BÙI THỊ THU HẰNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ BÒ SÁT,
LƯỠNG CƯ LÀM CỞ SỞ VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ
BIỆN PHÁP BẢO TỒN TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN NÀ HẨU, TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành : Lâm học
Mã số ngành: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Thái Nguyên, 2015


ii

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------------

BÙI THỊ THU HẰNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ BÒ SÁT,
LƯỠNG CƯ LÀM CỞ SỞ VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ
BIỆN PHÁP BẢO TỒN TẠI KHU BẢO TỒN


THIÊN NHIÊN NÀ HẨU, TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành : Lâm học
Mã số ngành: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Thu Hà

Thái Nguyên, 2015


iii


iv
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả sử dụng trong luận văn là trung thực, do
tôi thu thập và xử lí. Đồng thời, luận văn này chưa từng được bảo vệ trước bất cứ
một hội đồng nào trước đây.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hằng


v
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã
nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của các thầy cô giáo tại khoa

Lâm nghiệp, khoa sau đại học - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên , Ban
quản lý Khu bảo lý khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hầu, cùng các đồng chí Lãnh
đạo, cán bộ kiểm lâm địa bàn Hạt kiểm lâm huyện Văn Yên, Ủy ban nhân dân
các xã Nà Hẩu, Đại Sơn, Mỏ Vàng, Phong Dụ Thượng cùng nhân dân địa
phương trong quá trình tôi thực hiện đề tài tại cơ sở. Tôi cũng nhận được sự
góp ý về chuyên môn của TS. Đồng Thanh Hải trường Đại học Lâm nghiệp
Xuân Mai - Hà Nội. Tôi vô cùng biết ơn vì sự giúp đỡ quý báu đó. Đặc biệt,
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo – PGS. TS Trần Thị Thu Hà đã
cung cấp tài liệu tham khảo có giá trị và trực tiếp hướng dẫn tôi rất tận tình
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự động viên sâu sắc, ủng hộ nhiệt tình
của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn, lại trình độ bản thân còn hạn chế, luận
văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong được sự đóng
góp ý kiến của các thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu để đề tài hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hằng


vi
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ v
MỤC LỤC .............................................................................................................vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................... viii
DANH MỤC CÁC BẢNG....................................................................................ix

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề .......................................................................................................... 1
2. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 2
2.1. Mục đích.......................................................................................................... 2
2.2. Mục tiêu .......................................................................................................... 3
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................................... 4
1.1. Tổng quan thế giới. ......................................................................................... 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về Bò sát, Lưỡng cư ở Việt Nam ................................. 5
1.3. Tóm tắt tình hình nghiên cứu Bò sát, Lưỡng cư ở khu bảo tồn thiên
nhiên Nà Hẩu ................................................................................................. 9
1.4. Đặc điểm các nhóm sinh thái của Lưỡng cư , Bò sát. .................................... 10
1.4.1. Đặc điểm của các nhóm sinh thái của Lưỡng cư theo nơi ở. ..................... 10
1.4.2. Đặc điểm các nhóm sinh thái của Bò sát phân theo nơi ở. ............................ 11
1.5. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ................................................................. 13
1.5.2. Khái quát đặc điểm dân sinh, kinh tế, xã hội ............................................ 16
1.5.3. Hiện trạng tài nguyên rừng và sử dụng đất ................................................ 19
1.5.4. Tài nguyên nước......................................................................................... 26
1.5.5. Tài nguyên nhân văn .................................................................................. 26
1.5.6. Thực trạng cơ sở hạ tầng. ........................................................................... 26
1.5.7. Tiềm năng du lịch....................................................................................... 27
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................... 29
2.1 Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 29
2.2. Địa điểm ......................................................................................................... 29
2.3 .Thời gian ......................................................................................................... 29
2.4. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 29
2.5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 30
2.5.1. Tham khảo tài liệu và công tác chuẩn bị. .................................................. 30


iii



viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BS

Bò sát

ĐVHD

Động vật Hoang dã

ĐDSH

Đa dạng sinh học

HGD

Hộ gia đình

HST

Hệ sinh thái

IUCN2014

Danh lục đỏ IUCN verson 2014.2

IUCN


Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên

KBT

Khu bảo tồn

KBTTN

Khu bảo tồn thiên nhiên

KT-XH

Kinh tế xã hội

LC

Lưỡng cư
Nghị định 32/2006/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày

NĐ32

30/3/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý
hiếm.

TNR

Tài nguyên rừng

UNEP


Chương trình môi trường Liên hợp quốc

SĐVN

Sách đỏ Việt Nam,2007, phần động vật

VQG

Vườn quốc gia

WWF

Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên

IPGRI

Viện Tài nguyên di truyền quốc tế


ix
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Dân số và thành phần dân tộc xã toàn khu bảo tồn ............................. 16
Bảng 1.2. Hiện trạng sử dụng đất đai các xã khu bảo tồn (đvt: ha) ..................... 20
Bảng 1.3. Thành phần thực vật bậc cao ở Khu bảo tồn Nà Hẩu .......................... 22
Bảng 1.4. So sánh khu hệ thực vật Nà Hẩu với một số khu bảo vệ khác ............ 23
Bảng 1.5. Phân loại thực vật theo công dụng....................................................... 23
Bảng 1.6. Mức độ nguy cấp của các loài thực vật ............................................... 24
Bảng 1.7. Kết quả khảo sát động vật rừng ........................................................... 25
Bảng 2.1: Các tuyến điều tra ................................................................................ 32

Bảng 3.1. Thành phần loài Bò sát ghi nhận tại KBTTN Nà Hẩu ........................ 35
Bảng 3. 2. Thành phần loài Ếch nhái ghi nhận tại KBTTN Nà Hẩu.......................... 38
Bảng 3. 3. Bảng tổng kết số bộ, họ và loài bò sát và ếch nhái ghi nhận tại
KBT Nà Hẩu ................................................................................................... 39
Bảng 3. 4. Danh sách các loài bò sát quý hiếm tại KBT Nà Hẩu............................... 49
Bảng 3.5: Phân bố các loài Bò sát, Lưỡng cư theo sinh cảnh..................................... 51
Bảng 3.6. So sánh với các khu bảo tồn và VQG ......................................................... 54
Bảng 3.7. Hoạt động quản lý bảo tồn ........................................................................... 62


x
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 01. Ếch cây sần – Rhacophorus appendiculatus ......................................... 40
Hình 02. Rắn lục đuôi đỏ - Trimeresurus albolabis ............................................ 41
Hình 03. Rắn sãi – Amphiema ps......................................................................... 42
Hình 04 : Nhái bầu hây môn – Microhyla haymonsi .......................................... 44
Hình 05: Nhái bầu vân – Mocrohyla pulchra ...................................................... 45
Hình 06: Ngóe - Fejervarya limnocharis .................................................................47


1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Vấn đề đa dạng sinh vật và bảo tồn đa dạng sinh học đã trở thành một chiến
lược trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế đã ra đời để hướng dẫn, giúp đỡ và tổ
chức việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh vật trên phạm vi toàn thế
giới. Đó là Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), Chương trình môi trường
Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF), viện Tài
nguyên di truyền quốc tế (IPGRI) …Năm 1992, tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở
Rio de Janeiro đã thông qua công ước đa dạng sinh học. Hiện nay, có rất nhiều định

nghĩa về Đa dạng Sinh học (ĐDSH). Định nghĩa do Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc
tế - WWF) (1989) quan niệm: “ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là
hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các
loài và là những Hệ sinh thái (HST) vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi
trường”. Theo Công ước ĐDSH thì “ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể sống có
từ tất cả các nguồn trong các HST trên cạn, ở biển và các HST dưới nước khác, và
mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa
dạng di truyền hay còn gọi là đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các HST
(đa dạng HST) [6].
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái được
thành lập năm 2006 có diện tích 16.950 ha với điều kiện tự nhiên đặc thù, nguồn tài
nguyên động vật, thực vật phong phú, có nhiều cảnh quan đẹp như: dọc theo sườn
các đỉnh núi cao có các thác nước, dưới khe là các dòng suối chảy, và là nơi hội tụ
của nhiều luồng động thực vật càng làm cho hệ sinh vật, đặc biệt là hệ động vật
Lưỡng cư, bò sát ở đây đa dạng, phong phú và có những nét đặc thù riêng. Hệ động
thực vật Nà Hẩu đến nay chưa bị tác động mạnh, còn diện tích rừng già, rừng giàu
khá lớn, cấu trúc rừng còn tương đối nguyên vẹn, tài nguyên rừng phong phú, đa
dạng, nhiều loài, trong khu vực còn sự xuất hiện của nhiều loài quí hiếm [3].
Theo điều tra của Phạm Nhật, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Đắc Mạnh lớp Bò sát
trong khu bảo tồn có 25 loài trong 8 họ, 2 bộ. Trong đó họ Rắn nước chiếm ưu thế
với 8 loài. Trong số 25 loài kể trên thì chưa ghi nhận được loài Bò sát đặc hữu


iv
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả sử dụng trong luận văn là trung thực, do
tôi thu thập và xử lí. Đồng thời, luận văn này chưa từng được bảo vệ trước bất cứ
một hội đồng nào trước đây.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hằng


3
- Hoạch định các giải pháp và chiến lược cho việc quản lý đa dạng sinh học
và phát triển nguồn tài nguyên động vật theo hướng bền vững.
2.2. Mục tiêu
- Xác định được thành phần loài, tính đa dạng Bò sát, Lưỡng cư tại khu Bảo
tồn thiên nhiên Nà Hẩu.
- Đánh giá được hiện trạng và phân bố của Bò sát, Lưỡng cư tại khu Bảo tồn
thiên nhiên Nà Hẩu.
- Xác định được những mối đe dọa chủ yếu đến Bò sát, Lưỡng cư tại khu
Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu.
- Đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn Bò sát, Lưỡng cư tại khu Bảo tồn thiên
nhiên Nà Hẩu.
3. Ý nghĩa nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Bổ xung các dẫn liệu khoa học về sự đa dạng sinh học của các loài Bò sát,
Lưỡng cư tại khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cho địa phương hoạch định các
chính sách, phương pháp bảo tồn đa dạng sinh học.


4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. Tổng quan thế giới.
Theo các chuyên gia sinh học thì tổ tiên của loài bò sát xuất hiện trên trái
đất chừng 300 triệu năm trước. Hiện nay trên địa cầu có khoảng 9.000 loài bò sát.
Chúng đang phải đối diện với nguy cơ tuyệt chủng cao.
200 chuyên gia sinh học trên toàn thế giới đã tham gia nghiên cứu về nguy
cơ đối với loài bò sát qua 1.500 loài được lấy mẫu ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy
cứ 5 loài bò sát thì có một loài xếp vào nguy cơ tuyệt chủng do mất môi trường
sống mà tác nhân chính là hoạt động của con người. Rắn, rùa, cá sấu, thằn lằn…
đang phải vất vả vật lộn với môi trường để tồn tại. 19% loài bò sát bị xếp vào
dạng có nguy cơ biến mất khỏi hành tinh xanh. Trong số những loài bị đe dọa thì
có 12% bị coi là cực kỳ nguy cấp với khả năng tuyệt chủng cao nhất. 41% được
xếp vào hàng nguy cơ tuyệt chủng và 42% là dễ bị tuyệt chủng. Kết quả nghiên
cứu đã được đăng tải trên tạp chí Bảo tồn sinh học.
Hiệp hội Động vật London và Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên
(IUCN) cho biết mối đe dọa lớn nhất đối với các loài bò sát là môi trường sống
của chúng bị xâm hại nghiêm trọng dưới tác động của con người như nạn phá
rừng, phát triển nông nghiệp, khai thác gỗ, phát triển đô thị tràn lan… Các loài
bò sát sống trong môi trường nước ngọt, các vùng nhiệt đới và biển đảo đang có
nguy cơ lớn nhất với 30% các loài bên bờ tuyệt chủng.
Nghiên cứu cảnh báo rằng có đến một nửa loài rùa nước ngọt không chỉ bị
ảnh hưởng môi trường sống mà còn bị đe dọa bởi giao thương quốc tế. Các loài
bò sát trên mặt đất có nguy cơ thấp hơn, nhưng một số loài bị hạn chế với môi
trường sống riêng biệt hoặc tính cơ động thấp cũng bị đè nặng dưới áp lực của
con người.
Ở Haiti, trong số 9 loài thằn lằn Anolis thì có đến 6 loài đối mặt với nguy
cơ tuyệt chủng cao vì nạn phá rừng đang lan tràn trên đảo. Bản báo cáo cũng chỉ


5
rõ 3 loài trong đó đang cực kỳ nguy cấp vì trong các lần tìm kiếm gần đây các

chuyên gia đã không thành công khi tìm dấu vết 2 loài.
Báo Daily Mail dẫn ý kiến các chuyên gia cho rằng không chỉ đặc biệt
nhạy cảm với sự biến đổi môi trường, loài bò sát còn đóng vai trò quan trọng
trong hệ sinh thái, chúng vừa là kẻ săn mồi vừa là con mồi cho loài khác.
[ .
1.2. Tình hình nghiên cứu về Bò sát, Lưỡng cư ở Việt Nam
Bò sát – Lưỡng cư là nhóm động vật có xương sống có ý nghĩa khoa học
và kinh tế lớn. Nghiên cứu Bò sát – Lưỡng cư Việt Nam trong những năm cuối
của thế kỷ 19 và nửa đầ thề kỷ 20 đều do các nhà khoa học nước ngoài thực hiện.
Mở đầu nghiên cứu Bò sát – Lưỡng cư ở Việt Nam có lẽ là sưu tập mẫu Bò sát –
Lưỡng cư ở Nam Bộ do A.Morice (1875) thực hiện. Những nghiên cứu tiếp theo
được thực hiện ở nhiều địa phương ở Bắc bộ, Nam bộ, Trung bộ và một số đảo,
Lào, Campuchia. Từ năm 1934-1944 trên các cơ sở các mẫu vật thu được ở các
địa phương khác nhau được lưu trữ ở “Bảo Tàng động vật” Trường đại học Đông
Dương, Bourret R. đã công bố hàng loạt công trình nghiên cứu về thành phần
loài Bò sát – Lưỡng cư ở Đông Dương, đáng kể nhất là “ Les Serpents marins de
I’Indochine francaise” (1934), “ Les Toutues de I’Indochine” (1941), “ Les
Batrascinens de I’Indochine” (1942), “ Les leszards de I’Indochine”( không xuất
bản). Tất cả các công trình nghiên cứu Bò sát – Lưỡng cư trong thời gian trước
năm 1945 chủ yếu tập trung điều tra, phát hiện thành phần loài, phân bố của
chúng; chừng mực nhất định Bourret R. đã đề cập tới vấn đề địa động vật học
khu hệ Bò sát – Lưỡng cư ở Đông Dương. Và trong khi mô tả những đặc điểm
hình thái ngoài của cá thể trưởng thành, để giải quyết vấn đề phân loại học,
Bourret R. đã chú ý đến mô tả hình thái, kích thước của nòng nọc một số loài
lưỡng cư sưu tầm được.
Đào Văn Tiến (1997) là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên đã tổng hợp và
xây dựng khoá định loại cho 87 loài ếch nhái, 77 loài thằn lằn, 165 loài rắn, 32


6

loài rùa và 2 loài cá sấu [23]. Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (2005) cùng
Nguyễn Quảng Trường đã bổ xung thêm 38 loài Bò sát và 80 loài Lưỡng cư nâng
số Bò sát được phát hiện lên thành 296 loài và 162 loài Lưỡng cư [17,18]; đây là
kết quả nghiên cứu Lưỡng cư, Bò sát ở nhiều vùng khác nhau, nhất là vùng núi,
vùng sâu, vùng xa trên lãnh thổ Việt Nam. Không dừng lại ở đó, 3 năm sau khi
công bố 458 loài Bò sát, Lưỡng cư được xác định, ba tác giả này lại tiếp tục công
bố thêm 84 loài mới và tổng hợp đầy đủ được 369 loài Bò sát và 176 loài Lưỡng
cư thuộc 6 bộ và 34 họ trong danh lục Bò sát, Lưỡng cư Việt Nam 2009[19].
Lê Nguyên Ngật và đồng tác giả đã thống kê có 32 loài ếch nhái ở rừng Tam
Đảo (1995) [11]. Năm 2004, công bố thành phần loài ở Hồ Núi Cốc gồm 18 loài
LC, 44 loài BS trong đó có 13 loài ghi trong Sách Đỏ Việt Nam 2000, 3 loài trong
Danh lục Đỏ IUCN 2000 [12], tới 2005 ghi nhận ở vùng này có 22 loài LC, 49 loài
BS, xác định được 22 loài quý, hiếm; cùng nghiên cứu ở khu vực Thần SaPhượng Hoàng để bổ sung 16 loài cho danh sách LC, BS ở Thái Nguyên, tổng kết
danh sách này có 80 loài [13]. Năm 2007, thống kê ở 3 huyện Chiêm Hóa, Nà
Hang, Sơn Dương của Tuyên Quang có 97 loài LC, BS (trong đó 43 loài LC thuộc
8 họ, 3 bộ và 54 loài BS thuộc 14 họ, 2 bộ) với 22 loài quý, hiếm; bổ sung 48 loài so
với danh lục 2005 [15]; thống kê Hà Giang có 86 loài, gồm 49 loài LC, 37 loài BS
(bổ sung 8 loài LC, 23 loài BS cho Hà Giang so với danh lục 2005) [16]. Năm
2008, bổ sung Sơn Động (Bắc Giang) thuộc vùng núi Tây Yên Tử vào khu phân
bố đã biết của Thằn lằn cá sấu Shinisaurus crocodilusus là Quảng Tây (Trung
Quốc) và Quảng Ninh. Hoàng Văn Ngọc, Lê Nguyên Ngật và đồng tác giả (2009)
đã bổ sung Na Hang (Tuyên Quang) vào khu phân bố của Thằn lằn tốt mã bốn vạch
Plestiodon quadrilineatus và Vị Xuyên (Hà Giang) vào khu phân bố của Thằn
lằn tốt mã tam đảo Plestiodon tamdaoensis, ghi nhận vùng phân bố mới của thạch
sùng đuôi dẹp Hemidactylus garnotii ở Hà Giang, Tuyên Quang và Chợ Đồn.
Những nghiên cứu của một số tác giả như Lê Nguyên Ngật, Hoàng Văn
Ngọc, Nguyễn Đức Hùng, thực hiện điều tra về thành phần loài loài Bò sát –
Lưỡng cư tại các vùng núi, các khu bảo tồn, các vườn quốc gia trên khắp đất



7
nước nhằm khẳng định lần nữa tính đa dạng sinh học về các loài Bò sát – Lưỡng
cư ở Việt Nam. Thông qua các điều tra, nghiên cứu này đã phát hiện ra các loài
Bò sát – Lưỡng cư mới ở Việt Nam. Những phát hiện mới này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc đóng góp các loài mới cho khoa học, khẳng định
được sự đa dạng và phong phú của thế giới các loài động thực vật ở Việt
Nam [10].
Có thể nói, nghiên cứu về thành phần loài Bò sát, Lưỡng cư ở Việt Nam
được nhiều tác giả quan tâm. Kể từ năm 1996 đến nay, số loài mới được biết đến
ngày càng nhiều, đã chứng tỏ sự đầu tư nghiên cứu trên lĩnh vực này ngày càng
tăng cả về số lượng và chất lượng, đây còn là lĩnh vực hứa hẹn sẽ mang lại thành
công cho các tổ chức, cá nhân quan tâm đến nó. Ví dụ như năm 2008 các nhà
khoa học thuộc Bộ môn Động vật, khoa Sinh học – Đại học Vinh, vừa phát hiện
một loài thạch sùng mới có tên gọi là Thạch sùng ngón châu quang, tại vùng núi
đá vôi xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, Nghệ An nằm trong vùng đệm Khu bảo
tồn thiên nhiên Pù Huống [22] . Năm 2011, nhà nghiên cứu động vật Ngô Văn
Trí, phòng công nghệ và quản lý môi trường, viện Sinh học nhiệt đới (thuộc viện
Khoa học và công nghệ Việt Nam) và tiến sĩ Tony Gamble, khoa di truyền – sinh
học tế bào và phát triển, trường đại học Minnesota (Mỹ) công bố thêm một loài
thằn lằn đá mới ở mũi Cà Ná, tỉnh Bình Thuận. Loài thằn lằn này được đặt tên
theo địa danh thu mẫu – thằn lằn đá Cà Ná – Gekko canaensis sp. nov. Ngô &
Gamble, 2011. Công trình này được công bố trên tạp chí phân loại động vật quốc
tế Zootaxa 2890, số ra cuối tháng 5.2011 [20]. Hay gần đây nhất, năm 2013, các
nhà khoa học đã phát hiện ra loài mới tên là Ễnh ương Đông Dương Kaloula
indochinensis dựa theo vùng phân bố của chúng ở ba nước Đông Dương gồm
Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là loài ễnh ương thứ ba ghi nhận ở Việt Nam
bên cạnh loài ễnh ương thường và Ễnh ương vạc. Kết quả nghiên cứu công bố
trên tạp chí chuyên về bò sát lưỡng cư Herpetologica tháng 9/2013 [28]. Không
thể kể hết các đóng góp của các nhà khoa học trong việc bảo tồn và giữ gìn sự đa
dạng sinh học của các loài Bò sát – Lưỡng cư tại Việt Nam . Tuy nhiên trong



8
khuân khổ của đề tài này, tôi lựa chọn sự phân loại Bò sát - Lưỡng cư theo
Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc và Nguyễn Quảng Trường năm 2009 để làm cơ
sở cho việc định loại các loài Bò sát - Lưỡng cư trong khu bảo tồn thiên nhiên Nà
Hẩu. Theo các tác giả này, đến năm 2009, Việt Nam có 369 loài Bò sát thuộc 24
họ của 3 bộ, 176 loài Lưỡng cư thuộc 10 họ của 3 bộ [18].
Nhìn chung công tác nghiên cứu Bò sát, Lưỡng cư từ năm 1954 đến nay
ngày càng được quan tâm. Những năm gần đây, từ nghiên cứu khu hệ đã chuyển
dần sang nghiên cứu sinh thái, sinh học một số loài có giá trị kinh tế. Lê Vũ Khôi
(2007) đã chỉ ra rằng Bò sát, Lưỡng cư có ý nghĩa quan trọng trong quần xã sinh
vật, nhất là ở miền nhiệt đới. Chúng bắt nhiều loài sâu bệnh hại cây trồng, côn
trùng…hại nông nghiệp; bên cạnh đó chúng còn là thức ăn cho nhiều loài động
vật khác như chim, thú và cả bò sát lớn, chúng là mắt xích trong thành phần hệ
sinh thái. Ngoài ra, Bò sát, Lưỡng cư là nguồn thực phẩm, làm nguồn dược liệu,
là các mặt hàng có giá trị cho con người [19]. Giá trị kinh tế, sinh thái, bảo tồn
của Bò sát, Lưỡng cư còn đề cập tới trong sách đỏ Việt Nam 2007 từ trang 219
đến trang 262. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp rất nhiều
thông tin về thành phần loài Bò sát, Lưỡng cư ở các khu vực nghiên cứu cũng
như những đóng góp loài mới cho khoa học. Ngoài ra, sự phân bố của Bò sát,
Lưỡng cư theo sinh cảnh được nhiều tác giả đề cập tới khác nhau trên các vùng
như nghiên cứu của Nguyễn Quảng Trường và Hồ Thu Cúc ở vùng Đông Bắc và
nghiên cứu của Ngô Đắc Trứng và Trần Hậu Khanh thuộc trường Đại học Sư
Phạm Huế. Nghiên cứu ở phía Tây tỉnh Đắc Nông không đề cập tới vấn đề này.
Việc nghiên cứu Bò sát, Lưỡng cư theo sinh cảnh có ý nghĩa rất lớn trong việc
xác định phân bố của chúng trong khu vực để phục vụ cho công tác quản lý bảo
tồn Bò sát, Lưỡng cư khi môi trường sống của chúng bị tác động. Tuy nhiên, hầu
hết các công trình nghiên cứu khoa học đều chưa đề cập sâu tới phương pháp
nghiên cứu. Mặc dù phương pháp nghiên cứu được giới thiệu nhưng sẽ hạn chế

rất nhiều cho những ai đang quan tâm trên lĩnh vực này vì không nắm được các
tác giả điều tra nghiên cứu như thế nào.


9
1.3. Tóm tắt tình hình nghiên cứu Bò sát, Lưỡng cư ở khu bảo tồn thiên
nhiên Nà Hẩu
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Nà Hẩu được thành lập theo Quyết
định số 512/QĐ-UB ngày 09/10/2006 của UBND tỉnh Yên Bái. Khu bảo tồn
thiên nhiên Nà Hẩu nằm trên địa bàn các xã Nà Hẩu, Đại Sơn, Mỏ Vàng và
Phong Dụ Thượng thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái với diện tích 16.950 ha.
Đây là khu vực có các hệ sinh thái rừng tự nhiên mang tính điển hình của vùng
núi phía Bắc nước ta.
Những kết quả điều tra, nghiên cứu ban đầu cho thấy, khu rừng này ngoài
tính đa dạng sinh học về thảm thực vật, khu hệ thực vật và động vật, còn có
những mẫu rừng tương đối nguyên sinh là kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á
nhiệt đới tiêu biểu cho vùng Trung tâm ẩm miền Bắc Việt Nam. Theo báo cáo về
điều tra thực vật của trường Đại học Lâm Nghiệp năm 2009 đã thống kê được
516 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 332 chi và 126 họ; 129 loài động vật có
xương sống thuộc 54 họ và 17 bộ của 4 lớp thú, chim, bò sát và ếch nhái đã được
ghi nhận trong báo cáo điều tra ĐDSH của VCF năm 2012. Trong số đó nhiều
loài thuộc diện quý hiếm được ghi trong sách đỏ và nghị định 32/2006/NĐ-CP
của Chính phủ [4]. Trong khu vực có những hệ sinh thái rừng đặc trưng cho vùng
trung tâm ẩm Bắc bộ còn tương đối nguyên vẹn. Những kiểu địa hình thuộc hệ
thống núi cao tiếp nối của dãy Hoàng Liên Sơn cùng với rừng nguyên sinh đã tạo
nên một cảnh quan tự nhiên hùng vĩ, sinh động và hấp dẫn.
Tài nguyên Bò sát – Lưỡng cư ở Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu từ ngày
thành lập chưa có nhiều nghiên cứu chi tiết và cụ thể. Theo kết quả nghiên cứu
gần đây nhất của Lê Văn Phúc được ghi nhận như sau:
Lớp Bò sát - Reptilia

Mới chỉ ghi nhận được 25 loài trong 8 họ, 2 bộ. Trong đó họ Rắn nước
chiếm ưu thế với 8 loài. Trong số 25 loài kể trên thì chưa ghi nhận được loài Bò


10
sát đặc hữu nhưng đã thống kê được 8 loài Bò sát được ghi nhận trong sách đỏ
Việt Nam [4].
Lớp Lưỡng cư – Amphybia

Đã thống kê được 10 loài trong 4 họ ở 1 bộ. Ngoài ra, lớp Lưỡng cư còn
là lớp duy nhất chỉ có 1 bộ và chưa xác định được loài đặc hữu cũng như loài quý
hiếm nào. Như vậy, khu hệ Lưỡng cư ở khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu tương
đối nghèo và chưa được nghiên cứu đào sâu [4].
1.4. Đặc điểm các nhóm sinh thái của Lưỡng cư , Bò sát.
1.4.1. Đặc điểm của các nhóm sinh thái của Lưỡng cư theo nơi ở.
Do có sự thích nghi riêng với các yếu tố của môi trường mà người ta chia
lương cư thành 3 nhóm sinh thái. Tuy vậy sự phân chia này chỉ mang tính tương
đối, vì trong thực tế có nhiều loài sống được trong 2 hay cả 3 nơi ở [11]:
- Nhóm LC ở nước: chủ yếu thuộc bộ Lưỡng cư Có đuôi (Caudata) và một
số loài Lưỡng cư không đuôi (Anura). Tuy nhiên, mức độ quan hệ với nước ở từng
loài có khác nhau.
Thường xuyên ở nước là các loài cá cóc, chúng bơi được nhờ cử động của
chiếc đuôi dài và rộng trong khi 4 chi nhỏ được ép vào dọc thân. Sống ở nơi
nước chảy, chúng có đuôi lớn (Cá cóc khổng lồ- Megalobatrachus) hoặc chi có
vuốt để bám vào giá thể. Cá cóc có vuốt (Onichodactylus) ở suối nước chảy mạnh,
nồng độ oxi cao chỉ hô hấp bằng da do chúng không có phổi.
Lưỡng cư Không đuôi (Anura) thường xuyên sống trong nước có thể kể đến là
Cóc nước (Occidozyga lima), Nhái bám đá (Amolop ricketti) cũng ít khi lên cạn,
chân sau của chúng thường có màng bơi rộng hoặc đầu ngón chân có đĩa bám để
bám vào đáy nước. Một số loài khác ít khi đi xa khỏi khu vực nước như Ếch suối

(Rana nigrovittata), Ếch xanh (Rana virida), Ếch vạch (Chaparana delacouri), Ếch
nhẽo (Limnonectes kuhlii). Đa số loài chỉ xuống nước sinh đẻ hoặc tránh kẻ thù.
- Nhóm Lưỡng cư sống ở đất, hang hốc tự nhiên và trên mặt đất: bao gồm


11
hầu hết các loài Lưỡng cư. Mối quan hệ của chúng đối với đất cũng khác nhau.
Lưỡng cư có đuôi chủ yếu ở nước, thỉnh thoảng mới lên cạn, mặc dù có loài đi xa
nguồn nước hàng trăm mét, lại có loài đến mùa khô hạn lại ở trong cỏ lá hoặc gốc
cây nhiều tháng chờ mưa. Đa số Lưỡng cư không đuôi tạm trú trong những hang
hốc có sẵn, một số loài biết đào hang như Cóc bùn (Pelobatidae) dùng chân sau
ngắn đạp và ép phần sau thân vào đất mềm. Lưỡng cư không chân chuyên đào hang
trong đất nhờ chiếc đầu rắn chắc.
- Nhóm Lưỡng cư ở cây: chủ yếu ở bộ Lưỡng cư không đuôi. Riêng họ Ếch cây
(Rhacophoridae) và họ Nhái bén (Hylidae) có tới 90% số loài ở cây, chúng có đầu
ngón chân mở rộng thành đĩa kiểu giác bám, có tuyến dính, có sụn trung gian giữa
2 đốt đầu tiên của ngón chân giúp chúng bám chặt vào cây, lá. Một số loài có màng
da rộng giữa các ngón chân trước và chân sau, có tác dụng như một chiếc ô đỡ khi
chúng nhảy từ cành này sang cành khác hoặc từ cây xuống mặt đất.
1.4.2. Đặc điểm các nhóm sinh thái của Bò sát phân theo nơi ở
Bò sát có thể sống ở nước, trong hang, trên mặt đất, trên cây và vùng cát, sa
mạc khô nóng. Tuy nhiên, ứng với mỗi loại môi trường chỉ có một số loài sinh sống.
Mỗi loài BS chỉ có thể tồn tại trong những điều kiện nhất định của môi trường.
Tùy theo nơi ở và cách di chuyển, người ta chia Bò sát thành 4 nhóm sinh thái [11]:
- Nhóm sống trên mặt đất: phần lớn BS có những đặc điểm thích nghi với
việc di chuyển và sống trên mặt đất như thân thuôn dài, chân khỏe và cân đối,
đuôi dài và nhỏ giúp chúng chạy nhanh trên mặt đất (các nhóm thằn lằn Lacerta,
Amaga, Eumeces, Eremias, Mabuya). Bò sát chạy nhanh trên mặt đất nhờ giảm
được ma sát bằng cách thu nhỏ diện tích cơ thể tiếp xúc với đất, điều chỉnh khối
lượng cơ thể đều trên 4 chân, bàn chân hướng ra ngoài và hướng về phía trước, đầu

gối ép sát thân, cơ thể dựa lên phần trong của bàn chân nhiều hơn so với phần ngoài.
Do vậy, một số loài có ngón ngoài tiêu giảm. Bò sát thuộc đại Trung sinh có xu
hướng chạy bằng 2 chi sau thì có 2 chi trước nhỏ hoặc tiêu giảm. Bò sát thuộc bộ
Có vảy sống ở vùng cây cỏ rậm rạp có chi tiêu giảm hoặc có kích thước nhỏ bé, số


12
ngón giảm, một số thiếu hẳn chi (như Thằn lằn rắn (Anguidae), Thằn lằn giun
(Dibamidae) và rõ ràng nhất là Rắn (Serpentes), tuy một số loài rắn còn di tích của
chi sau).
Các loài thằn lằn chạy nhanh như rồng đất, nhông xanh thường có chi khỏe,
đuôi dài vừa phải. Khi gặp nguy hiểm, rồng đất chạy bằng cách tựa 2 chi sau vào
đuôi để giữ thăng bằng, 2 chi trước áp sát vào thân. Một vài loài Bò sát nhảy bằng
cách duỗi đồng thời 2 chi sau hất thân lên khỏi mặt đất.
Các loài rùa sống hoàn toàn trên cạn (rùa núi vàng, rùa núi viền) có mai
cứng, chân hình trụ phủ vảy lớn, bàn chân chắc và khỏe, không có màng da nối
các ngón.
- Sống ở trên cây: Để leo nhanh lên cây, nhiều loài nhông, thằn lằn có chi
khỏe, ngón dài, có vuốt sắc giúp chúng bám chắc vào thân và cành cây. Tắc kè
hoa có đuôi dài quấn được vào cây, chi dài và mảnh, có 2 nhóm ngón đối nhau để
cầm nắm. Ở họ Tắc kè, mặt dưới ngón chân nở rộng, có nhiều nếp gấp da tạo
thành những giác bám. Nhông cánh (hay Thằn lằn bay) có màng da ở 2 bên thân,
giúp chúng bay từ trên xuống trong khoảng cách xa hàng chục mét.
Nhiều loài rắn ở trên cây có thân nhỏ và dài, đuôi rất dài để quấn quanh cành
cây rồi quăng mình từ trên xuống, lúc đó xương sườn ở hai bên thân bạnh ra, bụng
thót nhỏ lại, vảy hai bên sườn nâng lên làm tăng sức cản của không khí, rắn lướt đi
trong một khoảng xa trong không khí.
- Nhóm sống trong đất: Số loài có khả năng đào hang không nhiều. Những
loài chuyên hóa thường có các gờ da cứng tạo thành góc cạnh, 2 mí mắt thường
gắn với nhau hoặc có gai trên mí, lỗ tai nhỏ có vảy che để ngăn đất lọt vào. Thằn lằn

chân ngắn có chi mảnh và ngắn. Thằn lằn giun thiếu chi, hình dạng giống giun
đất, đuôi có gai cứng giúp chúng tì vào giá thể để đẩy thân lên phía trước.
- Nhóm sống trong nước: Khác với Lưỡng cư, Bò sát không chỉ sống trong các
môi trường nước có độ muối giới hạn (sông suối, ao hồ...) mà nhiều loài còn sống
trong các biển và đại dương (rùa biển, rắn biển, cá sấu nước mặn). Đây là hiện


v
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã
nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của các thầy cô giáo tại khoa
Lâm nghiệp, khoa sau đại học - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên , Ban
quản lý Khu bảo lý khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hầu, cùng các đồng chí Lãnh
đạo, cán bộ kiểm lâm địa bàn Hạt kiểm lâm huyện Văn Yên, Ủy ban nhân dân
các xã Nà Hẩu, Đại Sơn, Mỏ Vàng, Phong Dụ Thượng cùng nhân dân địa
phương trong quá trình tôi thực hiện đề tài tại cơ sở. Tôi cũng nhận được sự
góp ý về chuyên môn của TS. Đồng Thanh Hải trường Đại học Lâm nghiệp
Xuân Mai - Hà Nội. Tôi vô cùng biết ơn vì sự giúp đỡ quý báu đó. Đặc biệt,
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo – PGS. TS Trần Thị Thu Hà đã
cung cấp tài liệu tham khảo có giá trị và trực tiếp hướng dẫn tôi rất tận tình
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự động viên sâu sắc, ủng hộ nhiệt tình
của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn, lại trình độ bản thân còn hạn chế, luận
văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong được sự đóng
góp ý kiến của các thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu để đề tài hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn


Bùi Thị Thu Hằng


14
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu nằm trong vùng địa hình đồi núi trung
bình và cao thuộc lưu vực sông Hồng của dãy Hoàng Liên Sơn. Nhìn toàn cảnh,
các dãy núi cao phổ biến từ 1000-1400m, chạy theo hướng từ Tây – Bắc đến
Đông – Nam và thoải dần về phía Đông – Bắc. Cao nhất trong khu vực là đỉnh
núi ở phía Nam, là điểm tiếp giáp ranh giới giữa Nà Hẩu – Phong Dụ Thượng và
Văn Chấn, cao khoảng 1783m. Tiếp đến là đỉnh phía Bắc thuộc Núi Khe Vàng
cao 1412m, là điểm tiếp giáp ranh giới của ba xã Xuân Tầm, Đại Sơn và Phong
Dụ Thượng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu là đầu nguồn của hai lưu vực suối lớn
chảy theo hướng Bắc đổ ra sông Hồng, đó là lưu vực Ngòi Thia trên địa phận ba
xã Nà Hẩu, Đại Sơn và Mỏ Vàng, lưu vực thứ hai trên địa phận xã Phong Dụ
Thượng thuộc Ngòi Hút. Phân chia giữa hai lưu vực này chính là dãy núi cao
1000m nối 2 đỉnh cao nhất kể trên, là ranh giới giữa Phong Dụ Thượng với Nà
Hẩu và Đại Sơn.
Khu vực có các kiểu địa hình chính :Kiểu địa hình núi cao (N1), Kiểu địa
hình Núi trung bình (N2), Kiểu địa hình Núi thấp (N3), Kiểu địa hình Đồi (Đ),
Kiểu địa hình thung lũng (T).
1.5.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
Theo tài liệu địa chất miền Bắc Việt Nam năm 1984 cho biết: Khu vực
KBT có quá trình hình thành và phát triển địa chất rất phức tạp. Toàn vùng có cấu
trúc dạng nếp lồi. Nham thạch gồm nhiều loại và có tuổi khác nhau nằm xen kẽ.
Được hình thành trong điều kiện địa chất phức tạp vời nhiều kiểu dạng địa
hình và đá mẹ khác nhau, nên có nhiều loại đất được hình thành trong khu vực.
Chủ yếu gồm các loại đất Feralit với tầng đất được phong hoá từ đá trầm tích, đá
mác ma và đá vôi. Do khí hậu nóng ẩm tạo nên tầng đất dày với các khoáng vật
khó phong hoá như Thạch anh và Silíc. Thành phần cơ giới chủ yếu từ trung bình

đến nặng.
Những nhóm loại đất chính có trong khu vực gồm: đất alít có mùn trên núi
cao, đất feralit có mùn trên núi cao và núi trung bình, đất feralit đỏ vàng phát


15
triển trên vùng đồi và núi thấp, đất dốc tụ chân đồi và ven suối, đất biến đổi do
trồng lúa.
1.5.1.4. Khí hậu, thủy văn
Khí hậu
Khí hậu khu vực Nà Hẩu mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới núi cao,
hàng năm có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng tư đến tháng 10, thời tiết nóng và
ẩm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thời tiết lạnh và khô. Khí hậu
này phù hợp với hệ sinh thái đa dạng và phong phú.
Chế độ nhiệt:
Nhiệt độ trung bình năm biến động từ 220C đến 230C. Tổng bức xạ 147
Kcl/cm2 (nằm trong vành đai nhiệt đới).
Mùa lạnh chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông – Bắc, nhiệt độ trung bình
các tháng này thường dưới 200C, nhiệt độ thường thấp nhất vào thàng 1 hàng
năm với trung bình là 15,10C.
Mùa nóng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam, thời tiết luôn nóng
ẩm, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình thường trên 250C, nhiệt độ cao nhất vào
tháng 7, với nhiệt độ trung bình tháng bảy từ 27,6 đến 280C.
Chế độ mưa ẩm:
Lượng mưa trung bình năm từ 1547mm ở Văn Chấn đến 2126mm ở Lục
Yên, tập trung gần 90% lượng mưa vào mùa mưa, hai tháng có lượng mưa cao
nhất là tháng 7 và tháng 8 hàng năm.
Mùa khô lượng mưa chỉ chiếm hơn 10% tổng lượng mưa cả năm. Hạn hán
ít khi xảy ra. Độ ẩm không khí bình quân năm khoảng 84 – 86%.
Thuỷ văn

Với lượng mưa tương đối cao và số ngày sương mù trong năm khoảng 40
ngày cho nên nguồn nước trong khu vực tương đối dồi dào. Các con suối chính
thường có nước quanh năm. Lượng nước đảm bảo cho sinh hoạt cũng như sản
xuất nông nghiệp ở các xã. Tuy nhiên, vùng thượng nguồn các con ngòi, suối
thường dốc nên vào mùa mưa có thể sảy ra lũ quét.


×