Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH HÀ

VẤN ĐỀ BẢO LƢU ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
TRONG LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH HÀ

VẤN ĐỀ BẢO LƢU ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
TRONG LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thanh Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO LƢU ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ ...... 4
1.1.
Đặc điểm, cơ sở pháp lý của Bảo lƣu điều ƣớc quốc tế ................ 4
1.1.1.
Đặc điểm của bảo lưu điều ước quốc tế ............................................ 5
1.1.2.
Cơ sở pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế.................................... 10
1.2.
Một số quy định về bảo lƣu điều ƣớc quốc tế ............................. 12
1.2.1.

Điều kiện bảo lưu điều ước quốc tế ................................................. 12
1.2.2.
Thủ tục liên quan đến bảo lưu điều ước quốc tế.............................. 16
1.2.3.
Hệ quả của bảo lưu điều ước quốc tế .............................................. 20
Chƣơng 2: THỰC TIỄN BẢO LƢU ĐỐI VỚI MỘT SỐ ĐIỀU ƢỚC
QUỐC TẾ ĐA PHƢƠNG ............................................................. 25
2.1.
Bảo lƣu đối với quy định của một số điều ƣớc quốc tế .............. 25
2.1.1.
Bảo lưu đối với quy định của Công ước của Liên hợp quốc về
công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài
(Công ước Newyork năm 1958) ...................................................... 25
2.1.2.
Bảo lưu đối với quy định của công ước quốc tế về bảo hộ người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng (Công ước
rome 1961) ....................................................................................... 29
2.1.3.
Bảo lưu đối với quy định của công ước quốc tế về các chất
hướng thần 1971 .............................................................................. 34
2.1.4.
Bảo lưu đối với quy định của Công ước về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ 1979 .................................. 42
2.1.5.
Bảo lưu đối với quy định của Công ước chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ
nhục con người (CAT, 1984)........................................................... 47


2.2.


Nhận xét, đánh giá về bảo lƣu điều ƣớc quốc tế trong thực
tiễn quan hệ quốc tế ....................................................................... 52

2.2.1.

Một số quy định của điều ước quốc tế thường được bảo lưu .......... 52

2.2.2.

Tính tích cực và Tính hạn chế của bảo lưu điều ước quốc tế .......... 55

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ BẢO LƢU ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM ............................................................................................ 60
3.1.

Pháp luật Việt Nam về bảo lƣu điều ƣớc quốc tế ....................... 60

3.1.1.

Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1989 ............. 60

3.1.2.

Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 ............. 60

3.1.3.

Quy định về bảo lưu điều ước quốc tế theo Luật ký kết, gia

nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 ................................ 62

3.2.

Thực tiễn bảo lƣu điều ƣớc quốc tế của Việt Nam ..................... 63

3.3.

Một số kiến nghị về bảo lƣu điều ƣớc quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ................................................................ 72

3.3.1.

Hoàn thiện pháp luật về bảo lưu điều ước quốc tế .......................... 73

3.3.2.

Nâng cao trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng trong hoạt động bảo lưu điều ước quốc tế .............................. 75

3.3.3.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung điều ước
quốc tế và các vấn đề liên quan đến bảo lưu điều ước quốc tế ....... 76

3.3.4.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ký kết, thực hiện
điều ước quốc tế và bảo lưu điều ước quốc tế ................................. 77


3.3.5.

Thực hiện công tác thống kê các nội dung của điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã bảo lưu .................................................................. 78

3.3.6.

Tiếp tục nghiên cứu tham gia một số điều ước quan trọng và đề
xuất bảo lưu phù hợp ....................................................................... 78

KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, các
mối quan hệ giữa các nước ngày càng mở rộng, điều ước quốc tế đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan hệ quốc
tế. Ngoài ra, điều ước quốc tế còn là công cụ hữu hiệu trong việc thực hiện
các chính sách đối ngoại của các quốc gia.
Về nguyên tắc, khi các quốc gia tham gia ký kết điều ước quốc tế đều
thể hiện ý chí chấp nhận sự ràng buộc với toàn bộ nội dung của điều ước đó.
Tuy nhiên, trong một số điều ước quốc tế quan trọng, thông qua hoạt động
bảo lưu điều ước quốc tế đã cho phép các quốc gia không bị ràng buộc bởi
một hoặc một số điều khoản của điều ước. Hoạt động bảo lưu điều ước quốc
tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quốc gia khi tham gia vào một điều
ước quốc tế, đây cũng là vấn đề tương đối nhạy cảm và phức tạp. Nghiên cứu,
tìm hiểu về bảo lưu điều ước quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong

luật quốc tế hiện đại”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo lưu điều ước quốc tế là một vấn đề quan trọng trong quá trình
tham gia vào quan hệ điều ước quốc tế. Những vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong hoạt động bảo lưu điều ước quốc tế được đề cập trong các bài giảng,
sách chuyên khảo chủ yếu là một hoạt động bổ trợ. Những khó khăn, vướng
mắc trong việc thực hiện bảo lưu điều ước quốc tế đã có nhiều bài viết thể
hiện, nhưng các vấn đề được trình bày chủ yếu là sự phân tích khái quát về
vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế và hiện nay chưa có một công trình nào có
tính chất tổng quan về “Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế

1


hiện đại”. Do đó, đề tài này sẽ hệ thống một cách khoa học về các cơ sở lý
luận thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế của Việt Nam và một số nước trong
một số điều ước quốc tế đa phương, đồng thời so sánh, đối chiếu và đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu có hệ thống các quy định của pháp luật về
bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế hiện đại: tìm hiểu các quy định
của các điều ước quốc tế đa phương về bảo lưu điều ước quốc tế và những
quy định về bảo lưu điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam. Từ đó, chỉ ra
một số điểm bất cập, hạn chế trong vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế, đồng thời
đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lưu điều
ước quốc tế.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định của pháp
luật trong nước và pháp luật quốc tế về bảo lưu điều ước quốc tế. Cụ thể là:
Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo lưu điều ước quốc tế trước khi ban

hành Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005; Quy định
về bảo lưu điều ước quốc tế trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế năm 2005; Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa
các quốc gia; Công ước Viên 1986 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa quốc
gia với các tổ chức quốc tế và giữa tổ chức quốc tế với nhau. Ngoài ra, luận
văn còn đi sâu nghiên cứu về vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong một số
công ước như: Công ước New york 1958 về công nhận và thi hành các quyết
định trọng tài nước ngoài; Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng; Công ước về các chất hướng thần
1971; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
1979; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người 1984.

2


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tế thực hiện về bảo lưu điều ước quốc tế để chỉ ra những
điểm tích cực và hạn chế của các quy định của pháp luật và thực tế thực hiện.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn để
định hướng xây dựng luật; đối chiếu giữa pháp luật trong nước và pháp luật
quốc tế để chỉnh sửa cho phù hợp.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận, các
quy định của pháp luật quốc tế, thực tiễn áp dụng của Việt Nam và một số
nước nhằm:
Đưa ra phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo lưu
điều ước quốc tế.
Đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả

của hoạt động bảo lưu điều ước quốc tế nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được trình bày thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo lưu điều ước quốc tế.
Chương 2: Thực tiễn bảo lưu đối với một số điều ước quốc tế đa phương.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo
lưu điều ước quốc tế ở Việt Nam.

3


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO LƢU ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
1.1. Đặc điểm, cơ sở pháp lý của Bảo lƣu điều ƣớc quốc tế
Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển theo hướng vừa đa dạng, vừa cụ
thể đã làm phong phú thêm các loại hình văn bản pháp lý quốc tế. Điều ước
quốc tế thực sự đã trở nên phổ biến trong sinh hoạt quốc tế, một phương tiện
không thể thiếu và được áp dụng rộng rãi trong việc điều chỉnh các quan hệ
giữa các quốc gia vì lợi ích riêng, chung và vì lợi ích cộng đồng. Điều ước
quốc tế là loại nguồn cơ bản của luật quốc tế. Quá trình tham gia kí kết và trở
thành tổ chức thực hiện điều ước quốc tế không chỉ là quyền mà còn là nghĩa
vụ của các chủ thể luật quốc tế. Vì vậy, trong hệ thống pháp luật quốc tế đã có
những văn bản quan trọng quy định những vấn đề cơ bản về điều ước quốc tế.
Cụ thể là công ước Viên về Luật điều ước quốc tế ngày 23/5/1969 (Công ước
này chỉ áp dụng cho những điều ước quốc tế giữa các quốc gia) và Công ước
Viên về Luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế hoặc
giữa các tổ chức quốc tế (kí tại Viên ngày 21/3/1986).
Hàng năm, mỗi quốc gia ký hàng trăm điều ước quốc tế nên việc tuyên
bố bảo lưu điều ước quốc tế là việc làm đương nhiên khi điều ước có hiệu lực

với họ. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, bảo lưu của quốc gia khi tham gia ký,
phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế là công việc vô cùng quan trọng
và cần thiết.
Bảo lưu là việc tuyên bố đơn phương của quốc gia hoặc tổ chức quốc
tế nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lý của một hoặc một số điều
khoản của điều ước quốc tế đa phương khi áp dụng đối với quốc gia hoặc đối
với tổ chức quốc tế [4].
Việc bảo lưu được thể hiện bằng văn bản dưới bất kỳ tên gọi nào khi ký

4


kết thông qua văn bản điều ước, phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế, hoặc
khi gia nhập điều ước quốc tế. Trường hợp bảo lưu liên quan đến kế thừa điều
ước quốc tế thì áp dụng theo quy định trong Công ước Viên về kế thừa của
các quốc gia đối với các điều ước quốc tế năm 1978.
Từ thế kỷ XIX, chế đinh bảo lưu đã phổ biến trong luật quốc tế, nhưng
đến thế kỷ XX, việc pháp điển hóa thành quy phạm thanh văn mới được thực
hiện. Trong các hội nghị, hội thảo quốc tế, vấn đề bảo lưu đã được đưa ra thảo
luân rất nhiều.Chẳng hạn như tại Hội nghị của các quốc gia châu Mỹ Latinh
về luật điều ước năm 1938, các quốc gia tham dự đã bàn luận nhiều về chế
định này, đặc biệt là sau khi Ủy ban Luật quốc tế bắt đầu pháp điển hóa luật
điều ước. Năm 1951, bảo lưu được ghi nhận trong kết luận tham vấn của Tòa
án quốc tế và năm 1952 bảo lưu được ghi nhận trong Nghị quyết của Đại hội
đồng Liên hợp quốc, trong đó khẳng định rằng: bảo lưu chỉ được áp dụng đối
với điều ước quốc tế đa phương. Rất nhiều các vấn đề liên quan đến bảo lưu
đã được thảo luận tiếp theo vào các năm sau đó. Việc bảo lưu được Tòa án
quốc tế Liên hợp quốc xem là một chế định trong luật điều ước quốc tế và
được ghi nhận trong công ước Viên năm 1969 (Điều 20) đã đánh dấu kết quả
hoạt động thực tiễn của Tòa án quốc tế và của Ủy ban Luật quốc tế, đồng thời

khẳng định sự phát triển tiến bộ của luật pháp quốc tế [4].
1.1.1. Đặc điểm của bảo lưu điều ước quốc tế
Hiện nay, có nhiều quan điểm và thực tiễn áp dụng khác nhau liên quan
đến vấn đề bảo lưu tuy nhiên có thể nói Công ước Viên 1969 về luật điều ước
quốc tế giữa các quốc gia và Công ước Viên 1986 về luật điều ước quốc tế
giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế được
coi là nguồn pháp luật thành văn chủ yếu của luật quốc tế hiện hành.
Tại điểm d, khoản 1, điều 2 Công ước Viên 1969 đã quy định:
Bảo lưu dùng để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết

5


hoặc tên gọi như thế nào, của một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê
chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, nhằm qua
đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy định của điều
ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó [13, Điều 2].
Từ quy định này, có thể rút ra một số đặc điểm của bảo lưu điều ước
quốc tế như sau:
- Bảo lưu điều ước quốc tế là một tuyên bố đơn phương
Bảo lưu điều ước quốc tế là một tuyên bố đơn phương chứ không phải
là một thỏa thuận mang tính song phương hay đa phương. Bởi vì, với tư cách
là chủ thể tham gia vào điều ước quốc tế, khi ký, phê chuẩn, phê duyệt để trở
thành thành viên của điều ước quốc tế, các quốc gia có thể đưa ra quan điểm
của riêng mình một cách công khai đối với các vấn đề liên quan đến nội dung
của điều ước quốc tế. Qua tuyên bố bảo lưu, quốc gia thể hiện quan điểm của
mình về việc loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực của một số quy định của điều ước
trong việc áp dụng đối với quốc gia. Ví dụ: Khi gia nhập Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Cu Ba bảo lưu Điều 22 về việc
sử dụng Tòa án Quốc tế giải quyết các bất đồng liên quan tới Công ước.

- Chủ thể đưa ra bảo lưu là các thành viên của điều ước quốc tế
Chủ thể đưa ra bảo lưu điều ước quốc tế phải là thực thể tham gia vào
những quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa
vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do
chính các chủ thể đưa ra khi bảo lưu. Bảo lưu điều ước quốc tế được tiến hành
vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi xác nhận sự ràng buộc với một
điều ước. Do đó, chỉ có các quốc gia thành viên mới có thể đưa ra bảo lưu để
việc tham gia điều ước không gây bất lợi cho quốc gia trong quan hệ quốc tế
đồng thời phù hợp với hoàn cảnh khách quan cũng như quan điểm, chính sách
của quốc gia. Phù hợp với mục đích của việc ký kết điều ước quốc tế và lợi

6


ích của các quốc gia thành viên, luật điều ước quốc tế thừa nhận bảo lưu là
quyền của các chủ thể khi tham gia ký kết điều ước quốc tế. Việc vận dụng tốt
quyền bảo lưu sẽ góp phần giúp các quốc gia thực hiện tốt nghĩa vụ điều ước
với tư cách là thành viên của điều ước quốc tế đồng thời bảo đảm được quyền
lợi của quốc gia.
- Thời điểm đưa ra bảo lưu điều ước quốc tế
Đối với những bảo lưu được quốc gia đưa ra trước thời điểm thực hiện
các hành vi ràng buộc với điều ước quốc tế, bảo lưu đươc thực hiện ngay khi
đàm phán tại hội nghị hoặc khi soạn thảo, thông qua điều ước. Trong trường
hợp này bảo lưu thường được ghi nhận trong biên bản của kỳ họp và được gọi
là “bảo lưu trước” hoặc “bảo lưu sơ bộ”. Hành động bảo lưu này chưa làm
phát sinh hệ quả pháp lý.
Đối với bảo lưu đưa ra trước thời điểm thực hiện các hành vi ràng buộc
với điều ước quốc tế sẽ phải được chính thức khẳng định lại khi quốc gia biểu
thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước. Trong trường hợp này, bảo lưu
coi như được đề ra vào ngày mà bảo lưu đó được khẳng định.

Ngoài ra, Tuyên bố bảo lưu còn được quốc gia đưa ra khi tiến hành
biểu thị sự chấp nhận ràng buộc với một điều ước quốc tế. Phụ thuộc vào quy
định của mỗi điều ước quốc tế mà hình thức chấp nhận sự ràng buộc của quốc
gia với một điều ước quốc tế có thể là ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt
hay gia nhập điều ước quốc tế. Như vậy, thời điểm đưa ra bảo lưu điều ước
quốc tế có thể là khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập.
- Mục đích của bảo lưu điều ước quốc tế
Bảo lưu điều ước quốc tế nhằm loại trừ hay thay đổi hiệu lực của một
hay một số điều khoản của điều ước. Thông qua hoạt động bảo lưu mà các
quốc gia thể hiện ý chí của riêng mình nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực
pháp lý của một hoặc một số điều khoản cụ thể của điều ước khi áp dụng và

7


chỉ những tuyên bố nào làm phát sinh hệ quả pháp lý nêu trên thì mới được
ghi nhận là tuyên bố bảo lưu. Bảo lưu không phụ thuộc vào tên gọi hoặc hình
thức thể hiện mà phụ thuộc vào nội dung và mục đích của nó.
Như vậy, thực chất của hành vi bảo lưu điều ước quốc tế là việc giải
thoát cho quốc gia ký kết khỏi nghĩa vụ thực thi một số điều khoản của điều
ước do việc thực thi điều khoản đó dẫn tới khả năng gây bất lợi cho quốc gia
thành viên. Bảo lưu được đưa ra dưới hình thức tuyên bố đơn phương, tuy
nhiên không phải tuyên bố đơn phương nào của quốc gia khi ký, phê chuẩn,
chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập điều ước quốc tế đều được coi là bảo lưu
điều ước quốc tế. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, tuyên bố đơn phương là
một hành vi pháp lý thể hiện quan điểm của riêng quốc gia một cách công
khai đối với các vấn đề phát sinh. Như vậy, bảo lưu điều ước quốc tế có
những điểm khác với tuyên bố đơn phương của các quốc gia khi trở thành
thành viên điều ước quốc tế như sau:
 Tuyên bố đơn phương của quốc gia thành viên đưa ra nhằm làm sáng

tỏ một thuật ngữ, một quy định nào đó của điều ước quốc tế mà không nhằm
loại bỏ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lý của một số điều khoản của điều ước
trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia thì không được coi là bảo lưu. Có
thể coi đây là các tuyên bố giải thích điều ước quốc tế. Tuy nhiên, sự giải
thích này là giải thích không chính thức và không có giá trị pháp lý ràng buộc
đối với các quốc gia thành viên điều ước quốc tế. Ví dụ: Ngày 9/6/2000, khi
phê chuẩn Quy chế Rome về Tòa hình sự quốc tế (ICC), Pháp đã kèm theo
văn kiện phê chuẩn một tuyên bố có nội dung: Một số quy định của điều 8
Quy chế đề cập đến việc sử dụng một số loại vũ khí bị cấm phải được hiểu là
vũ khí thông thường. Điều 8 không điều chỉnh và cũng không cấm việc sử
dụng vũ khí hạt nhân.
 Tuyên bố đơn phương của quốc gia thể hiện quan điểm của quốc gia

8


về một vấn đề nào đó mà không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước
quốc tế cũng không được coi là bảo lưu. Ví dụ: Khi ký Công ước Viên năm
1969 về luật điều ước quốc tế, các quốc gia Algeria, Syria, Ma-rốc, Kuwait,
đã tuyên bố rằng sự tham gia của họ vào Công ước Vienna năm 1969 về luật
điều ước quốc tế không bao hàm sự công nhận Nhà nước Israel, cũng như
việc thiết lập quan hệ điều ước quốc tế với Israel. Hoặc nhà nước Liên Xô gia
nhập Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế với tuyên bố: Liên
Xô giữ cho mình quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ các lợi
ích của chính mình, trong trường hợp các quốc gia khác không tuân thủ các
điều khoản của Công ước này có liên quan đến lợi ích của Liên Xô [4].
 Tuyên bố đơn phương của quốc gia nhằm hủy bỏ hay bãi bỏ điều
ước quốc tế: Tuyên bố bảo lưu và tuyên bố hủy bỏ hay bãi bỏ điều ước quốc
tế đều là các tuyên bố thể hiện quan điểm cũng như thái độ của quốc gia
thành viên đối với điều ước quốc tế mà quốc gia đã hoặc sẽ tham gia và đều

dẫn tới những hệ quả nhất định. Tuy nhiên, nếu như tuyên bố hủy bỏ hoặc
bãi bỏ điều ước quốc tế với mục đích loại trừ hoặc hủy bỏ toàn bộ hiệu lực
của điều ước quốc tế đối với quốc gia đồng thời từ hoạt động này chấm dứt
quan hệ điều ước giữa quốc gia đưa ra tuyên bố với tất cả các quốc gia thành
viên khác thì bảo lưu có mục đích và hệ quả pháp lý khác. Bản chất của bảo
lưu không nhằm đưa ra các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của điều
ước. Về tổng thể quan hệ giữa các thành viên của điều ước sẽ thay đổi trong
phạm vi có bảo lưu. Sự thay đổi liên quan đến bảo lưu khác nhau tùy thuộc
vào việc phản đối hoặc chấp nhận bảo lưu. Từ việc phản đối bảo lưu do một
quốc gia đưa ra có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo
lưu không có quan hệ điều ước hoặc không áp dụng điều khoản bảo lưu
trong quan hệ giữa hai bên, còn đối với các điều khoản còn lại quan hệ điều
ước vẫn diễn ra bình thường.

9


Qua những phân tích trên, có thể thấy, để xác định một tuyên bố có
phải là tuyên bố bảo lưu điều ước quốc tế hay không phải căn cứ bốn đặc
điểm của bảo lưu điều ước quốc tế trong đó đặc biệt quan trọng là mục đích
của việc đưa ra tuyên bố có nhằm loại bỏ hoặc thay đổi hiệu lực của một hay
một số điều khoản của điều ước quốc tế hay không.
1.1.2. Cơ sở pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế
Về phương diện pháp lý thì nguồn pháp luật chủ yếu hiện nay quy định
về vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế là Công ước Viên năm 1969 về luật điều
ước quốc tế giữa các quốc gia và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước
quốc tế giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế.
1.1.2.1. Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa các
quốc gia
Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia

(có hiệu lực ngày 27 tháng 1 năm 1980) là văn bản quan trọng nhất trong hệ
thống văn bản pháp lý quốc tế quy định về bảo lưu điều ước quốc tế. Sự ra
đời của Công ước Viên năm 1969 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của
điều ước quốc tế và Luật điều ước quốc tế. Khác với nhiều công ước đa
phương khác, Công ước Viên 1969 là khuôn mẫu của một điều ước quốc tế
(nhìn từ phương diện hình thức), đồng thời có giá trị là luật của luật, khi các
điều khoản trong nội dung của công ước được chủ thể luật quốc tế viện dẫn
để hình thành nên các điều ước quốc tế khác [1]. Công ước Viên năm 1969
ra đời không chỉ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước mà đã góp phần làm rõ vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế.
Theo đó, lần đầu tiên bảo lưu điều ước quốc tế đã được pháp điển hóa một
cách chi tiết, cụ thể cả về định nghĩa, các thủ tục cũng như hệ quả của việc
bảo lưu. Tuy nhiên, Công ước Viên năm 1969 không phải là khung pháp lý
duy nhất điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phát sinh

10


giữa các chủ thể luật quốc tế mặc dù Công ước đã bao trùm phần lớn các vấn
đề quan trọng trong lĩnh vực này.
1.1.2.2. Công ước Viên 1986 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa quốc
gia với các tổ chức quốc tế và giữa tổ chức quốc tế với nhau
Việc ký kết Công ước Viên năm 1986 xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
quan hệ quốc tế khi mà các tổ chức quốc tế tham gia ngày càng nhiều vào các
điều ước quốc tế. Khi nhắc đến luật điều ước quốc tế cũng như vấn đề bảo lưu
điều ước thường đề cập nhiều tới Công ước Viên năm 1969, tuy nhiên không
thể phủ nhận được vị trí của Công ước Viên 1986, mặc dù Công ước này hiện
nay chưa chính thức có hiệu lực vì chưa đủ số lượng quốc gia phê chuẩn (theo
Điều 85 của công ước quy định rằng phải có 35 quốc gia phê chuẩn thì công
ước mới có hiệu lực, nhưng đến nay công ước chỉ được phê chuẩn bởi 31

quốc gia và 12 tổ chức quốc tế). Mặc dù hiện nay Công ước Viên 1986 về luật
điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia với tổ chức quốc tế và giữa tổ chức
quốc tế với nhau chưa có hiệu lực nhưng chắc chắn trong tương lai công ước
sẽ là khung pháp lý quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia cũng
như tổ chức quốc tế tham gia vào việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
nói chung cũng như bảo lưu điều ước quốc tế nói riêng.
1.1.2.3. Các điều ước quốc tế quy định cụ thể về việc bảo lưu
Ngoài những quy định chung tại hai văn bản nói trên, thực tiễn hoạt
động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đã cho thấy có nhiều điều ước
quốc tế quy định cụ thể về việc bảo lưu điều ước quốc tế trong chính nội
dung của nó. Các điều ước quốc tế thường quy định việc cho phép bảo lưu
và các thủ tục cụ thể đối với việc bảo lưu. Trong thực tiễn thường có hai
trường hợp quy định về vấn đề bảo lưu điều ước, đó là trường hợp điều ước
có điều khoản quy định về bảo lưu và trường hợp điều ước không có điều
khoản quy định về bảo lưu:

11


- Trường hợp thứ nhất, nếu điều ước quốc tế cho phép bảo lưu và chỉ
được bảo lưu ở những điều khoản cụ thể thì những vấn đề bảo lưu sẽ tuân
theo các quy định của chính điều ước quốc tế đó.
Ví dụ: Điều 99 Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế thì các nước tham gia hay gia nhập Công ước này
đều không có quyền đưa ra các bảo lưu riêng và nếu có bảo lưu thì chỉ bảo lưu
trong các trường hợp mà Công ước cho phép.
- Trường hợp thứ hai, nếu điều ước quốc tế không quy định về bảo lưu
thì vấn đề bảo lưu sẽ được thực hiện trên các quy định của luật điều ước quốc
tế cụ thể là quy định của Công ước Viên năm 1969 và trong tương lai là cả
Công ước Viên năm 1986.

1.2. Một số quy định về bảo lƣu điều ƣớc quốc tế
1.2.1. Điều kiện bảo lưu điều ước quốc tế
Khi quốc gia thực hiện các hành vi ràng buộc với điều ước quốc tế như
ký, phê chuẩn, phê duyệt hay gia nhập điều ước quốc tế thì toàn bộ các quy
định của điều ước được xem là có hiệu lực đối với quốc gia. Tuy nhiên, quốc
gia cũng có thể thay đổi hoặc loại trừ hiệu lực của một hay một số điều khoản
của điều ước quốc tế. Đối với các điều ước quốc tế đa phương, bảo lưu là một
giải pháp pháp lý hữu hiệu để giải quyết hài hòa lợi ích riêng của mỗi quốc
gia với lợi ích chung của tất cả các quốc gia tham gia điều ước. Tuy nhiên,
bảo lưu là một vấn đề rất phức tạp, có thể ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của
các bên tham gia điều ước. Do vậy, mặc dù bảo lưu là quyền không thể phủ
nhận của các bên tham gia điều ước nhưng nó không phải là quyền tuyệt đối
mà có những hạn chế nhất định. Hành động bảo lưu mà các quốc gia thành
viên đưa ra không phải hành động nào cũng hợp pháp, có giá trị ràng buộc các
bên tham gia điều ước mà các bảo lưu này chỉ có giá trị pháp lý khi thỏa mãn
những điều kiện nhất định, không thuộc các trường hợp cấm, hạn chế bảo lưu.

12


Theo quy định tại Điều 19 Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc
tế giữa các quốc gia: Khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập
một điều ước, một quốc gia có thể đề ra một bảo lưu, trừ khi:
- Điều ước đó ngăn cấm việc bảo lưu;
- Điều ước đó quy định rằng chỉ có thể có những bảo lưu cụ thể, nhưng
bảo lưu của quốc gia không nằm trong số đó;
- Bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước;
Qua thực tiễn bảo lưu của các chủ thể luật quốc tế và căn cứ vào các
quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các
quốc gia, một bảo lưu sẽ được coi là hợp pháp khi thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, bảo lưu chỉ được đặt ra đối với điều ước quốc tế đa phương
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về
bảo lưu. Có nhiều ý kiến tranh luận nên quy định chế định này cho loại điều
ước quốc tế nào là phù hợp? Theo giáo sư M.Iasin (Irắc) thì bảo lưu chỉ
đúng với điều ước đa phương vì nó phù hợp với Điều 2 Công ước Viên 1969
còn đối với điều ước song phương thì điều đó chỉ có nghĩa là một đề nghị
mới mà không thể xem đó là một bảo lưu. Giáo sư R.Ago (Ý) cũng có quan
điểm tương tự khi Ông cho rằng không nên áp dụng bảo lưu đối với điều ước
song phương kể cả khi nó được các bên điều ước thể hiện bằng các cách
thức khác nhau [4]. Mặc dù công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc
tế giữa các quốc gia không phân biệt cũng như không chỉ ra bảo lưu được áp
dụng cho loại điều ước quốc tế nào, nhưng rõ ràng vấn đề bảo lưu chỉ đặt ra
đối với các điều ước quốc tế đa phương mà không áp dụng đối với điều ước
quốc tế song phương. Bởi vì:
- Điều ước quốc tế song phương là kết quả của quá trình đàm phán mà
mỗi quốc gia đều có thể đưa ra những bảo lưu của mình dưới dạng các đề
nghị và những đề nghị này đòi hỏi các quốc gia phải tiếp tục đàm phán, thỏa

13


thuận. Vì vậy, khi ký, phê chuẩn hay phê duyệt điều ước quốc tế song
phương, việc bảo lưu do một quốc gia đưa ra sẽ được hiểu là một đề nghị
mới. Trong trường hợp này, các quốc gia phải tổ chức đàm phán, thỏa thuận
lại nếu không điều ước quốc tế không thể được ký phê chuẩn hay phê duyệt.
- Điều ước quốc tế song phương chỉ liên quan và ràng buộc lợi ích giữa
hai bên ký kết. Bất kỳ bảo lưu từ bên nào cũng có thể gây phương hại tới lợi
ích của bên kia. Hai bên có nghĩa vụ phải tôn trọng và thực hiện các thỏa
thuận đã đạt được.
Với phân tích nêu trên có thể thấy bảo lưu chỉ có thể đặt ra đối với điều

ước quốc tế đa phương. Việc bảo lưu được đặt ra trong những trường hợp nào
với nội dung và điều kiện như thế nào lại phụ thuộc vào những điều kiện cụ
thể được quy định tại điều ước quốc tế.
Thứ hai, bảo lưu phải phù hợp với những quy định trong điều ước quốc tế.
Mỗi điều ước khác nhau lại có những quy định khác nhau về bảo lưu,
có điều ước cho phép bảo lưu, cũng có điều ước cấm bảo lưu hoặc hạn chế
bảo lưu, quốc gia thành viên chỉ được bảo lưu trong phạm vi những điều
khoản mà điều ước quốc tế đã giới hạn trước.
- Với điều ước quốc tế đa phương chỉ cho phép bảo lưu một số điều
khoản nhất định thì quốc gia thành viên chỉ được đưa ra bảo lưu đối với điều
khoản mà điều ước cho phép. Xét trong thực tiễn hoạt động ký kết điều ước
quốc tế thì phần lớn các điều ước quốc tế quy định về việc cho phép bảo lưu
một hoặc một số điều khoản nhất định. Theo đó các quốc gia khi thực hiện
các hành vi ràng buộc với điều ước quốc tế có thể đưa ra bảo lưu đối với điều
khoản đó. Quốc gia đưa ra tuyên bố bảo lưu sẽ không bị ràng buộc bởi những
điều khoản mà họ đã bảo lưu cho dù quốc gia thành viên khác phản đối hay
chấp thuận. Ví dụ: Điều 32 Công ước về các chất hướng thần 1971, không
cho phép có sự bảo lưu nào khác ngoài những bảo lưu phù hợp với quy định
tại khoản 2,3,4 của Điều 32.

14


- Với điều ước quốc tế đa phương, có điều khoản cấm bảo lưu thì quốc
gia muốn trở thành thành viên của điều ước đó phải tuân thủ toàn bộ điều ước.
Nếu quốc gia không có khả năng thực hiện dù chỉ một hay một số điều khoản
thì họ cũng không thể là thành viên của điều ước. Trên thực tế, có một số điều
ước quy định về việc cấm bảo lưu. Ví dụ: Công ước La Haye 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế tại Điều 40 có quy định:
“Không chấp nhận việc bảo lưu đối với Công ước”. Công ước không chấp

nhận bảo lưu, có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi
quốc gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Nếu Công ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con
nuôi quốc tế không cấm bảo lưu thì rất có thể việc thực hiện quyền bảo lưu
của các quốc gia thành viên sẽ phá vỡ tính toàn vẹn của Công ước. Với quy
định tại Điều 40 của Công ước, các quốc gia muốn trở thành thành viên Công
ước thì phải tuân thủ toàn bộ điều ước mà không được phép bảo lưu.
- Thứ ba, bảo lưu phải phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước
quốc tế
Điều ước quốc tế ra đời là nhằm hướng tới đối tượng và thực hiện mục
đích đã đặt ra. Những bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của
điều ước đương nhiên không có hiệu lực. Các điều ước quốc tế có đối tượng
và mục đích điều chỉnh không giống nhau vì vậy để đánh giá bảo lưu như thế
nào là không phù hợp thì phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể.
Khi phân tích về tính pháp lý của bảo lưu K.Zemanek đã nhấn mạnh
rằng: “Bảo lưu sẽ vô nghĩa nếu nó không phù hợp với đối tượng và mục đích
của điều ước và khi đó việc phản đối bảo lưu này là đúng” [3]. Ví dụ như tại
khoản 2 Điều 20 của Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc năm 1965(Công ước được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia
ký, phê chuẩn theo Nghị quyết số 2106 A (XX) ngày 21/12/1965 của Đại Hội

15


đồng Liên Hợp Quốc và có hiệu lực từ ngày 4/1/1969, căn cứ theo Điều 19)
đã quy định rõ việc bảo lưu của quốc gia sẽ không được chấp nhận nếu việc
bảo lưu không thích hợp với đối tượng và mục đích của Công ước và những
bảo lưu có tác động làm hạn chế công việc của bất cứ cơ quan nào được lập ra
bởi Công ước. Đồng thời, việc xem xét một bảo lưu được coi là không thích
hợp hoặc bị coi là cản trở các cơ quan được lập ra bởi Công ước nếu ít nhất

2/3 số quốc gia thành viên của Công ước phản đối.
Như vậy, bảo lưu được coi là hợp pháp khi nó không trái với quy định
của chính điều ước quốc tế đó. Nếu điều ước quốc tế không quy định thì việc
bảo lưu là hợp pháp khi không trái với quy định của Luật điều ước quốc tế.
1.2.2. Thủ tục liên quan đến bảo lưu điều ước quốc tế
Với các điều ước quốc tế đa phương cho phép bảo lưu, có quốc gia bảo
lưu, có quốc gia chấp nhận bảo lưu, lại có quốc gia phản đối bảo lưu….Nếu
không có những quy định hay thỏa thuận trước về cách thức, trình tự, thủ tục
tiến hành bảo lưu thì giữa các bên rất có thể xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp
xung quanh vấn đề này. Với điều ước quốc tế có quy định về thủ tục bảo lưu
thì các quốc gia thành viên tiến hành bảo lưu phải theo quy định của điều ước
quốc tế đó. Nếu điều ước không có quy định thì quốc gia thành viên sẽ tiến
hành thỏa thuận về trình tự, thủ tục bảo lưu. Các quốc gia có thể thỏa thuận
bảo lưu được thể hiện bằng bất cứ hình thức nào, miễn là không trái với
nguyên tắc và quy phạm chung của luật quốc tế. Trường hợp khi các bên
không có bất kỳ thỏa thuận nào khác và nếu các bên đều là thành viên của
Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia hoặc thể
hiện rõ sự chấp thuận áp dụng Công ước như một tập quán quốc tế thì trình
tự, thủ tục bảo lưu sẽ được thực hiện theo quy định của Công ước này. Cụ thể:
- Thủ tục bảo lưu
Với điều ước quốc tế cho phép bảo lưu, khi quốc gia tham gia điều ước

16


và thực hiện hành vi bảo lưu một hay một số điều khoản của điều ước thì phải
tuân thủ thủ tục bảo lưu. Theo điều 23 Công ước Viên năm 1969 về luật điều
ước quốc tế giữa các quốc gia, tuyên bố bảo lưu của quốc gia phải được lập
thành văn bản và thông báo cho các quốc gia thành viên khác của điều ước.
Một bảo lưu được nêu ra vào thời điểm ký một điều ước là đối tượng cần

được phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt, sẽ phải được quốc gia đề ra bảo
lưu chính thức khẳng định khi quốc gia đó biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng
buộc của điều ước. Trong trường hợp này, bảo lưu coi như được đề ra vào
ngày mà bảo lưu đó được khẳng định.
- Thủ tục chấp thuận, phản đối bảo lưu.
Khi một quốc gia đưa ra bảo lưu đối với một số điều khoản nhất định
của điều ước quốc tế, các quốc gia thành viên khác có thể chấp thuận hoặc
phản đối bảo lưu. Chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu là hành vi thể hiện
quan điểm, thái độ của quốc gia thành viên khác đối với bảo lưu của quốc
gia đưa ra bảo lưu trong một điều ước quốc tế đa phương. Xuất phát từ lập
trường quan điểm, lợi ích khác nhau mà có quốc gia thành viên chấp thuận
bảo lưu nhưng cũng có quốc gia phản đối bảo lưu. Việc chấp thuận hay
phản đối bảo lưu cũng cần phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất
định để quốc gia đưa ra bảo lưu có thể biết thái độ của các quốc gia khác
một cách công khai, rõ ràng.
Theo quy định tại Điều 20 Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước
quốc tế giữa các quốc gia:
 Một bảo lưu được một điều ước rõ ràng cho phép thì không cần
được các quốc gia ký kết chấp thuận, trừ khi điều ước quy định việc chấp
thuận này.
 Khi số lượng quốc gia tham gia đàm phán có hạn cũng như theo đối
tượng và mục đích của điều ước, mà việc thi hành toàn bộ điều ước giữa tất cả

17


các bên là một điều kiện chủ yếu của việc đồng ý nhận sự ràng buộc các điều
ước của mỗi bên thì một bảo lưu cần phải được tất cả các bên chấp nhận
 Khi một điều ước là một văn kiện về việc thành lập một tổ chức quốc
tế thì một bảo lưu đòi hỏi có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ

chức này, trừ khi điều ước có quy định khác.
 Với các bảo lưu còn lại, nếu điều ước quốc tế không có quy định, các
bên không có thỏa thuận khác, bảo lưu sẽ có giá trị khi ít nhất có một quốc gia
ký kết khác chấp thuận bảo lưu đó.
Ngoài công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc
gia, một số điều ước quốc tế khác cũng quy định về thủ tục chấp thuận và
phản đối bảo lưu. Ví dụ: Quy định về bảo lưu trong Hiệp định TRIPS (Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ) là
một ví dụ thực tế cho trường hợp này. Theo đó, tại Điều 72 Hiệp định TRIPS
có quy định như sau: “Những bảo lưu liên quan đến bất kỳ quy định nào của
Hiệp định này đều không được ghi nhận nếu không được tất cả các Thành
viên khác nhất trí”. Quy định về bảo lưu này tưởng chừng như là một quy
định mở, nhưng thực ra lại là một quy định đóng, vì rõ ràng việc được tất cả
các quốc gia thành viên khác chấp thuận bảo lưu là điều rất khó có thể xảy ra.
Với quy định này, Hiệp định TRIPS đã hạn chế quyền bảo lưu của các quốc
gia tham gia [24].
Về hình thức, Tuyên bố chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu phải được
thực hiện bằng văn bản và thông báo cho các quốc gia liên quan giống như
tuyên bố bảo lưu. Tuy nhiên, Tại Công ước Viên năm 1969 đã quy định:
“Việc chấp thuận rõ ràng một bảo lưu hoặc phản đối một bảo lưu không cần
phải khẳng định lại nếu đã được đưa ra trước khi có sự khẳng định bảo lưu
đó” [13, Điều 23, Khoản 3]. Quy định này là hợp lý vì mục đích của tuyên bố
chấp thuận hay phản đối bảo lưu là nhằm thể hiện quan điểm của quốc gia

18


thành viên đối với nội dung của chính bảo lưu đó, việc khẳng định lại sẽ là
không cần thiết.
Bên cạnh đó, việc chấp thuận một bảo lưu có thể được thể hiện bằng

sự im lặng. Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp thuận nếu quốc
gia này không đưa ra phản đối bảo lưu trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày
nhận được thông báo của điều ước, nếu hành vi này xảy ra sau ngày bảo
lưu được đề ra [13, Điều 20, khoản 5].
- Thủ tục rút bảo lưu, rút phản đối bảo lưu.
Phù hợp với nguyên tắc Pacta sunt servanda trong hoạt động thực hiện
điều ước quốc tế, luật quốc tế quy định theo hướng luôn khuyến khích các
quốc gia tham gia điều ước quốc tế nỗ lực, tận tâm thực hiện các cam kết của
mình. Do vậy, khác với bảo lưu, việc rút bảo lưu, rút phản đối bảo lưu được
Điều 22 Công ước Viên năm 1969 quy định theo hướng mở, tạo điều kiện cho
quốc gia tiếp tục thực hiện điều khoản đã cam kết, theo đó: Nếu điều ước
quốc tế không có quy định khác hoặc không có sự thỏa thuận nào khác thì bất
cứ lúc nào quốc gia thành viên điều ước quốc tế cũng có thể rút một bảo lưu,
rút một phản đối bảo lưu. Việc rút bảo lưu này không cần có sự đồng ý của
quốc gia đã chấp thuận bảo lưu. Việc rút một bảo lưu chỉ có hiệu lực đối với
một quốc gia ký kết khác khi quốc gia này nhận được thông báo rút bảo lưu.
Tương tự như vậy, việc rút một phản đối bảo lưu chỉ có hiệu lực khi quốc gia
đưa ra bảo lưu nhận được thông báo rút phản đối bảo lưu.
Vì bảo lưu làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế do đó
quốc gia rút bảo lưu cần thông báo cho các bên điều ước biết, tránh trường
hợp các bên điều ước vi phạm các điều khoản bảo lưu do không biết quốc gia
đã rút bảo lưu. Ví dụ: Trước đây, Liên Xô đã rút bảo lưu không công nhận
quyền tài phán bắt buộc của tòa án quốc tế đối với các tranh chấp liên quan
đến việc giải thích và áp dụng Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt
chủng năm 1948...

19


Nếu điều ước quốc tế không có quy định gì khác thì việc rút bảo lưu sẽ

có hiệu lực sau khi các quốc gia nhận được thông báo về việc rút bảo lưu.
Trong trường hợp cần thiết do rút bảo lưu nên các quốc gia cần một khoảng
thời gian nhất định để điều chỉnh pháp luật quốc gia cho phù hợp với điều
ước. Tuy nhiên, giai đoạn này không cần thiết phải kéo dài do đã có dự báo
khi ký điều ước quốc tế. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, việc rút bảo lưu
thường ít khi diễn ra.
Như vậy, các hành vi pháp lý về đồng ý hoặc phản đối bảo lưu, rút bảo
lưu hoặc rút phản đối bảo lưu phải được thể hiện bằng văn bản (trong trường
hợp đồng ý bảo lưu, có thể thể hiện qua sự im lặng) và nếu bảo lưu được thực
hiện khi phê chuẩn, phê duyệt hoặc khi ký điều ước thì hiệu lực pháp lý phát
sinh sau khi các quốc gia thực hiện xong các hành vi pháp lý này.
Dưới góc độ pháp luật quốc gia, việc đưa ra các tuyên bố liên quan đến
bảo lưu là công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (quốc hội,
chủ tịch nước, chính phủ....) vì nó gắn liền với lợi ích quốc gia. Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thông qua hoặc công nhận hiệu lực của điều ước quốc tế
đối với quốc gia mình thì cũng có quyền thông qua các tuyên bố liên quan đến
bảo lưu và phản đối bảo lưu.
1.2.3. Hệ quả của bảo lưu điều ước quốc tế
Đối với các trường hợp bảo lưu hợp pháp, xét về bản chất, bảo lưu
không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước
nhưng về tổng thể bảo lưu có tác động nhất định tới quốc gia đưa ra bảo lưu
và các quốc gia thành viên khác của điều ước quốc tế. Theo quy định của
Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia thì tác
động của bảo lưu đối với hiệu lực của điều ước quốc tế và của điều khoản bị
bảo lưu như sau:

20



×