Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 80 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực
tế của đơn vị thực tập.
Nếu có gì sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

FDI

: Đầu tư quốc tế trực tiếp hay đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF

: Quỹ tiền tệ quốc tế

UNCTAD

: Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển



ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

MTĐT

: Môi trường đầu tư

WB

: Ngân hàng thế giới World Bank

GCI

: Chỉ số cạnh tranh toàn cầu

PCI

: Chỉ số canh tranh cấp tỉnh Việt Nam

VCCI

: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

DN

: Doanh nghiệp

CNH-HĐH


: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

UBND

: Ủy Ban Nhân Dân

GPĐT

: Giấy phép đầu tư

CN-XD

: Công nghiệp- Xây dựng

ODA

: Hỗ trợ phát triển chính thức

NGO

: Viện trợ Chi chính phủ

BTO

: Hợp đồng Xây dựng- Khai thác- Chuyển giao


BCC

: Hợp đồng hợp tác kinh doanh

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

KH&ĐT

: Kế hoạch và Đầu tư

WTO

: Tổ chức thương mại quốc tế

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


3

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1

Tỉ trọng các nhóm chỉ số của các nhóm nước

Bảng 2.1


Tổng sản phẩm của tỉnh

Bảng 2.2

Đầu tư trưc tiếp nước ngoài từ 2010-2013

Bảng 2.3

Vốn đầu tư phan theo đối tác

Bảng 2.4

Vốn FDI tại Nghệ An phân theo hình thức đầu tư xét theo số
dự án giai đoạn 2010-2013

Bảng 2.5

Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Nghệ An theo linch vự đầu tư

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


1

LỜI MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, vốn là một nhân tố không thể

không nhắc tới. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần có
vốn nhiều hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế cần phải có
vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
FDI được xem như “chiếc chìa khóa” của sự tăng trưởng kinh tế. Nó đã
và đang đóng góp một phần quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển trên toàn thế giới. Tại các quốc gia có chính sách đầu tư
nước ngoài hợp lý, FDI không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có vai
trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn
con người - một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Các nhà đầu tư đặt cược một số tiền lớn trong điều kiện hiện tại và hy
vọng thu được nhiều lợi nhuận trong tương lai. Do vậy, đầu tư luôn đòi hỏi
một môi trường thích hợp nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế
cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua tỉnh Nghệ An đã không
ngừng cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn FDI: Lãnh đạo tỉnh
đã hoạch định và tổ chức hiệu quả các chương trình, kế hoạch thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Vấn đề thủ tục đăng ký kinh
doanh đã tiến bộ rất nhiều, mô hình một cửa đã được áp dụng triệt để… Tuy
nhiên, hạ tầng giao thông còn kém, thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề kỹ
thuật..Vì vậy, cho đến nay Nghệ An vẫn là một trong số các tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn trong cả nước. Để đưa Nghệ An phát triển thì việc đề ra các
giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn FDI là rất
cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng, em quyết định chọn đề tài: “Cải

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


2


thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Nghệ An”
làm nội dung của luận văn tốt nghiệp.
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá thực trạng môi trường đầu tư và tình hình thu hút
FDI trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Từ đó đề xuất ra các giải pháp nhằm cải thiện
môi trường đầu tư để thu hút vốn FDI trên địa bàn tỉnh.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về môi trường đầu tư của
tỉnh
- Đánh giá thực trạng môi trường đầu tư của tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để cải thiện môi trường đầu tư nhằm
thu hút nguồn vốn FDI cho phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu môi trường đầu tư, các nhân tố
thuộc môi trường đầu tư tỉnh Nghệ An trong đó có đề cập đến các chỉ
số CPI.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn 2010-2014
4 Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết
hợp các phương pháp như phương pháp thống kê, tổng hợp, đối chiếu, phân
tích, so sánh, logic từ các bảng biểu, báo cáo thường niên của các Bộ, cơ quan
ban ngành và các tổ chức quốc tế... gắn lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ
vấn đề.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02



3

5 Bố cục của luận văn
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính gồm 3 chương
Chương 1- Những vấn đề cơ bản về FDI và môi trường đầu tư
Chương 2- Thực trạng về môi trường đầu tư và thu hút FDI tại tỉnh Nghệ An
Chương 3- Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút
FDI vào tỉnh Nghệ An
Sau đây là nội dung chi tiết của từng chương

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẦU TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ MÔI TRƯỜNG
ĐẦU TƯ

1.1 Nguồn vốn FDI và vai trò vốn FDI đối với nền kinh tế.
1.1.1 Đầu trực tư tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1.1 Khái niệm
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được hiểu là một khoản đầu tư với
những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực
tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.
Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc

quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.
Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển UNCTAD cũng
đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được
cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI, FDI bao gồm 3 bộ phận:
Vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế đưa ra khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
là người sở hữu tại nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế
của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh
tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy
hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển OECD đưa ra khái niệm: Một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không
có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


5

phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp
là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết
các quốc gia đều sử dụng mốc 10% là mốc xác định FDI. Trong thực tế có
những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ
hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong
khi ở nhiều quốc gia có tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp lớn hơn 10%
vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp. Tại Việt Nam, khi liên doanh số vốn góp

của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định mới là đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức chủ
đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án
nhằm giành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn”.
Vốn trong khái niệm này có thể bao gồm cả tiền và bất kể tài sản nào
được đưa vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm hay dịch vụ. Theo
thông lệ quốc tế tài sản có thể hiểu là tài hữu hình (máy móc, thiêt bị, quy
trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị…),
tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý,..) hoặc
tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ,…).
Như vậy, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là sự di
chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia
nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu
lợi nhuận cao hơn. Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và trí thức
kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước nhận đầu tư.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


6

Các nước công nghiệp phát triển và các TNCs đóng vai trò chủ yếu trong
sự vận động của dòng vốn FDI trên thế giới. Từ những năm 90, FDI đi vào
các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia Châu Á tăng đáng kể.
1.1.1.2 Đặc điểm
Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài:

Thứ nhất, Được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn tư nhân, chủ đầu tư
tự quyết định đầu tư, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, lãi, lỗ. Là
hình thức có tính khả thi và tính hiệu quả cao, không có các ràng buộc về
chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần trực tiếp cho nền kinh tế.
Thứ hai, Chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc tham
gia điều hành dự án đầu tư tuỳ theo tỉ lệ vốn góp
Thứ ba, Vốn đầu tư trực tiếp bao gồm vốn góp để hình thành vốn pháp
định, vốn vay hoặc vốn bổ sung từ lợi nhuận của doanh nghiệp để triển khai
và mở rộng dự án.
Thứ tư, Thông qua FDI, các doanh nghiệp của nước tiếp nhận vốn có thể
tiếp thu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại…
1.1.1.3 Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 2005 bổ sung theo nghị
quyết số 51/2010/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2011 của Quốc Hội khóa X,
kỳ họp thứ 10, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam gồm có 4 hình
thức sau:
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Là một văn bản được kí kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một
chủ đầu tư nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và hai bên hợp
tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng phân định trách nhiệm nghĩa vụ

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


7

và quyền lợi. Thời hạn hợp đồng do hai bên thoả thuận. Vấn đề vốn kinh
doanh không nhất thiết phải đề cập trong văn bản hợp đồng.

Hình thức doanh nghiệp liên doanh (DNLD):
DNLD là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc
tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, nhằm thực hiện các
cam kết trong hợp đồng liên doanh và Điều lệ DNLD, phù hợp với khuôn khổ
luât pháp nước nhận đầu tư.
DNLD có các đặc điểm như sau:
Về pháp lý: DNLD là một pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động
theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức của DNLD là do các bên thoả
thuận phù hợp với các quy định của luật pháp nước nhận đầu tư, như công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp
vốn,…Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý DNLD phụ thuộc
vào tỉ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của DNLD.
Về tổ chức: Hội đồng quản trị doanh nghiệp là mô hình chung cho mọi
DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực, ngành nghề. Đây là cơ quan
lãnh đạo cao nhất của DNLD.
Về kinh tế: Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong
liên doanh và cả các bên đứng ở phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết
sức phức tạp.
Về điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất kinh doanh dựa
vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc
nhất trí hay quá bán.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


8


Là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân, trong đó nhà
đầu tư nước ngoài góp 100% vốn pháp định, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc điểm của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân của nước nhận đầu tư
nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt
động sản xuất kinh doanh theo hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và
Điều lệ doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. Quyền
quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà đầu
tư nước ngoài tự lựa chọn. Nhà đầu tư nước ngoài tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài.
Nhà đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và
các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.
Đầu tư theo các hình thức BOT, BTO, BT, hình thức cho thuê – bán thiết
bị, công ty cổ phần, công ty quản lý vốn:
Đây là hình thức đầu tư đặc biệt thường áp dụng cho các công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng. Sự ra đời của các phương thức này nhằm tạo Hợp đồng
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): Là hình thức đầu tư được kí giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để
đầu tư xây dựng, sau khi công trình đã hoàn thành sẽ tiến hành kinh doanh,
khai thác trong một thời hạn nhất định đảm bảo công trình thu hồi được vốn

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02



9

và có lợi nhuận hợp lý; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn
công trình đó cho Nhà nước sở tại.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): Là hình thức đầu
tư đươc kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để
đầu tư xây dưng công trình; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho nhà nước sở tại; Chính phủ sở tại dành cho nhà đầu tư
quyền kinh công trình đó trong một thời hạn nhất định đủ để thu hồi vốn đầu
tư và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): Là hình thức đầu tư được kí
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước
ngoài để đầu tư xây dựng công trình; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại; Chính phủ tạo điều kiện cho
đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh
toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
Hình thức cho thuê – bán thiết bị: Là hình thức nhà đầu tư sở hữu thiết
bị, máy móc cho người sử dụng nước ngoài thuê thiết bị trong phần lớn thời
gian sử dụng của thiết bị, sau đó sẽ bán thiết bị theo giá rẻ hơn giá thị trường
cho người sử dụng nước ngoài, hoặc thực hiện theo hợp đồng thuê.
Hình thức tham gia quản lý các công ty cổ phần: Là việc đầu tư góp vốn
hình thành công ty cổ phần hoặc mua cổ phiếu của các công ty cổ phần đến
một giới hạn nhất định đủ để tham gia hoạt động quản lý công ty (theo thông
lệ quốc tế là khoảng 10% tổng số vốn cổ phần).
1.1.2 Vai trò của nguồn vốn FDI đối với nền kinh tế
Từ thập kỷ 80 đến nay, FDI vào các nước phát triển đã có những
chuyển biến về chất, xét cả về động cơ đầu tư cũng như mong muốn của nước
chủ nhà. Nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng toàn cầu hoá và các nước

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


10

đều nhận thức được tính tất yếu của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. FDI trở
thành một yếu tố quan trọng của tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả
các quốc gia. Tuy nhiên ảnh hưởng của FDI đến các nước phát triển sẽ không
theo một khuôn mẫu chung, ảnh hưởng này vào từng nước sẽ khác nhau, thậm
chí từng ngành, từng doanh nghiệp cũng khác nhau.
 Đối với nước đầu tư
Giúp các chủ đầu tư tận dụng lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư, giảm chi
phí sản xuất, tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định.
Giúp các chủ đầu tư có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công
nghệ mới và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Kéo dài chu kì sống của sản phẩm khi ở thị trường trong nước đã chuyển
sang giai đoạn suy thoái, giúp nhà đầu tư tăng doanh số ở nước ngoài trên cơ sở
khai thác lợi thế so sánh.
Giúp các chủ đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín, mở
rộng thị trường tiêu thụ và tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
Tránh thặng dư cán cân thanh toán, tránh cạnh tranh kinh tế.
 Đối với nước nhận đầu tư
+ Đối với các nước có nền kinh tế phát triển
Thứ 1, Góp phần giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội như thất
nghiệp, lạm phát, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Thứ 2, Tăng nguồn thu và tạo điều kiện cải thiện tình hình ngân sách nhà
nước, tạo ra môi trường cạnh tranh tích cực.
Giúp người lao động và các nhà quản lý học hỏi và nâng cao trình độ.

+ Đối với các nước đang phát triển

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


11

Thứ nhất, Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn
quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về
vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát
triển. Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào “vòng luẩn quẩn”. Đó là
thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp sẽ làm cho thu nhập.
Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình
trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính
xác.
Đặc biệt FDI là nguồn vốn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu
vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Không như vốn vay, nước đầu tư
chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có
hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn ở chỗ thời hạn trả
nợ vốn vay thường cố định còn thời hạn trả nợ vốn FDI thì linh hoạt hơn.
Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm
quản lý kinh doanh. Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ
khoa học hiện đại, kĩ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư
vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ đưa vào nước vốn bằng tiền mà
còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… (hay còn
gọi là phần cứng), tri thức thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận

thị trường… (hay còn gọi là phần mềm). Do vậy, xét về lâu dài đây chính là
lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy phát triển
các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì
thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, dịch chuyển cơ
cấu kinh tế nhanh của các nước nhận đầu tư FDI đem lại kinh nghiệm quản lý,
kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu
Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


12

tư thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI
còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận
công nghệ của các nước nhận đầu tư.
Thứ ba, FDI giúp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.Yêu cầu dịch chuyển trong nền kinh tế không chỉ đòi
hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngoại. Thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng
nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế
giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế
cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch của cơ cấu
kinh tế của nước nhận đầu tư phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo
điều kiện cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư
lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh
vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài

góp phần vào phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ của nhiều
ngành kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng
tỉ phần của nó trong nền kinh tế. Bên cạnh một số ngành được kích thích phát
triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những ngành bị mai một rồi đi
đến xoá bỏ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp.
Thứ tư, FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tranh thủ vốn và kỹ
thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện mục tiêu quan
trọng hàng đầu là đẩy mạnh kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang
phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy các quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh
Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


13

tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy các yếu tố bên ngoài biến
nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao. Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích
cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là
chỗ dựa vững chắc để khai thác những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát
triển nền kinh tế.
Ngoài ra FDI còn:
Góp phần đáng kể vào nguồn thu Ngân Sách Nhà Nước thông qua việc
nộp thuế của các đơn vị đâu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân thương mại
quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài là sản xuất ra các sản phầm hướng vào xuất khẩu. Đóng góp của
tư bản nước ngoài và việc phát triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước

đang phát triển. Cùng với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá, đầu tư trực
tiếp nước ngoài còn mở rộng cả thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu sản phẩm.
Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước
đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc
mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào
làm việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào
việc giảm nạn thất nghiệp vốn là tình trạng nan giải của nhiều quốc gia.
Tuy nhiên tác động của FDI đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa phụ thuộc rất lớn vào chính sách thu hút đầu tư của nước nhận đầu tư.
Vì vậy, vai trò của việc đề ra chính sách phù hợp của các nước có thẩm quyền
nhằm thu hút nguồn vốn FDI trong việc phát triển kinh tế là rất quan trọng.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


14

1.2 Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư.
1.2.1 Khái niệm đầu tư và môi trường đầu tư
Đầu tư được hiểu theo nghĩa chung nhất là hy sinh những lợi ích
trước mắt nhằm kì vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Đầu tư quốc tế được hiểu một cách chung nhất là những hoạt động đầu
tư được thực hiện ngoài không gian kinh tế quốc gia của nhà đầu tư.
Môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp. Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá, tự nhiên, công nghệ....Trong đó chính sách của Chính phủ, các

yếu tố về địa lý, về quy mô thị trường là quan trọng.
Môi trường đầu tư tốt khuyên khích các doanh nghiệp đầu tư, giảm
thấp chi phí và rủi ro. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn
xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố
bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư.
Môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư
cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như:
Chính sách, cơ chế ưu đãi đầu tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ
sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính – pháp lý, khả
năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở của nên kinh tế, sự phát triển
của hệ thống thị trường… Các nhân tố trên có quan hệ và tác động qua lại lẫn
nhau. Vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư, nhất
thiết phải quan tâm, xử lý đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng trên.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


15

1.2.2 Phân loại môi trường đầu tư
Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh
tế, môi trường đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm.
Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kĩ thuật
phục vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông
(đường xá, cầu cảng hàng không, cảng biển…), hệ thống thông tin liên lạc,
năng lượng…

Môi trường mềm bao gồm: Hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch
vụ pháp lý liên quan tới hoạt động đầu tư (đặc biệt các vấn đề liên quan đến
chế độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại); Hệ thống các dịch vụ
tài chính – ngân hàng, kế toán và kiểm toán…
Môi trường đầu tư nước ngoài có thể thay đổi và chịu sự chi phối
của chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, thay đổi khi nước tiếp nhận đầu tư kí kết
hoặc gia nhập hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, khu vực
và địa phương.
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được xác định theo hai
cách tiếp cận sau:
Thứ nhất, Dựa vào các nhóm nhân tố chính tác động đối với hoạt động
đầu tư, môi trường đầu tư theo cánh tiếp cận này gồm các nhóm yếu tố chính
sau: Khung chính sách đối với hoạt động FDI, nhóm nhân tố kinh tế, nhóm
nhân tố hỗ trợ kinh doanh.
Thứ hai, Dựa vào giai đoạn hình thành và hoạt động đầu tư, môi trường
đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các nhân tố của giai đoạn: thành lập,
hoạt động và giải thể hay phá sản của doanh nghiệp FDI. Môi trường đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo cách tiếp cận này được quan niệm là: “Tổng thể các
yếu tố, chính sách của nước tiếp nhận đầu tư có tác động trực tiếp hay gián

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


16

tiếp đến quá trình thành lập, hoạt động, giải thể hay phá sản doanh nghiệp
nước đi đầu tư”. Các yếu tố này bao gồm chính sách của một quốc gia đối với
FDI, cơ sở vật chất, trình độ lao động và tình hình an ninh chính trị… ở nước

tiếp nhận đầu tư.
1.2.3 Các yếu tố của môi trường đầu tư
1.2.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên là những ưu đãi vốn có của một quốc
gia, một vùng lãnh thổ. Nó có ưu thế lâu dài trong phát triển kinh tế xã hội và
là căn cứ để hoạch định các chính sách phát triển. Thực tế đã cho thấy các
nước phát triển trên thế giới đều dựa vào ưu thế vế vị trí địa lý và nguồn tài
nguyên thiên nhiên sẵn có. Trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là trong
giai đoạn công nghiệp hoá hiện nay các nước phải tích cực khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên sẵn có của mình và phát huy lợi thế so sánh. Tuy nhiên
cũng có những nước nghèo tài nguyên như Nhật Bản nhưng lại có sức mạnh
kinh tế vào bậc nhất thế giới. Vì thế mà tài nguyên thiên nhiên tuy quan trọng
nhưng không phải là yếu tố sống còn trong phát triển kinh tế. Ưu thế địa lý
của một quốc gia còn thể hiện ở chỗ quốc gia đó có nằm trong khu vực phát
triển kinh tế sôi động không, có giao lộ của các tuyến giao thông quốc tế
không, tại đó có kiểm soát được vùng rộng lớn không. Một quốc gia có vị trí
như vậy có nghĩa là quốc gia đó được hưởng lợi từ các dòng thông tin, các
trào lưu phát triển mới, thuận lợi cho việc chu chuyển vốn, vận chuyển hàng
hoá và hưởng địa tô nếu nằm ở vị trí chiến lựợc. Đối với các nhà đầu tư thì
các ưu đãi tự nhiên là những nơi có cơ hội làm ăn nhiều hơn, mức sinh lời cao
hơn.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


17

1.2.3.2. Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng bao gồm mạng lưới giao thông, mạng lưới thông tin liên
lạc, hệ thống cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, các công trình công cộng
phục vụ sản xuất kinh doanh như cảng biển, sân bay,… Cơ sở hạ tầng tốt là
một trong các yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí gián tiếp trong sản xuất
kinh doanh của các nhà đầu tư. Thực tế phát triển tại các quốc gia cho thấy
các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng phát triển, đủ khả năng phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Mạng lưới giao thông
đóng góp một phần quan trọng vào phát triển kinh tế. Nó phục vụ cho việc
cung ứng vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, quan trọng nhất là các đầu mối giao
thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không. Các tuyến
đường giao thông trọng yếu cũng cầu nối sự giao lưu phát triển kinh tế giữa
các địa phương của một quốc gia. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện
và hiện đại sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được hao phí chuyên chở không cần
thiết. Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bối
cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động
trên thị trường ở mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong
thông tin liên lạc sẽ đánh mất cơ hội làm ăn. Môi trường đầu tư hấp dẫn dưới
con mắt của nhà đầu tư đó là môi trường có hệ thống thông tin liên lạc và
cước phí rẻ. Ngoài ra hệ thống cung cấp năng lượng và nước sạch đảm bảo
cho việc sản xuất quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này không đáp ứng
được nhu cầu sản xuất liên tục thì sẽ gây rất nhiều trở ngại cho nhà đầu tư.
1.2.3.3. Pháp luật và hành chính
Để điều chỉnh hành vi kinh doanh của các nhà đầu tư, các quốc gia đều
có một hệ thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các doanh nghiệp đầu tư
kinh doanh sản xuất cái gì, cấm mặt hàng gì. Hệ thống các cơ chế chính sách
và những quy định của nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02



18

như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách tiền tệ, chính sách
xuất nhập khẩu, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Chính sách
kinh tế thể hiện quan điểm định hướng phát triển kinh tế của nhà nước thông
qua các chủ trương và chính sách. Nhà nước điều hành và quản lý kinh tế,
theo dõi sự hoạt động của các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên phương diện
quản lý nhà nước về kinh tế. Các chính sách thể hiện ưu đãi, khuyến khích đối
với một số lĩnh vực nào đó, đồng thời những chính sách sẽ là những chế tài để
kiểm soát các lĩnh vực đó. Hệ thống pháp luật đựơc xây dựng nhằm quy định
những điều mà các thành viên trong xã hội được làm và không được làm. Nhà
nước giữ một vai trò quan trọng tạo lập một môi trường đầu tư kinh doanh
thuận lợi. Nhà nước quy định khuôn khổ pháp lý, thiết lập các chính sách chủ
yếu nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng
trong đầu tư.
1.2.3.4. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế phản ánh những đặc trưng của một hệ thống kinh tế, nó sẽ
chi phối tác động đến hoạt động của các nhà đầu tư. Trong môi trường kinh tế,
các yếu tố như tốc độ tăng trưởng, chính sách kinh tế, chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ
lạm phát, tỷ giá hối đoái, hệ thống tài chính sẽ được nghiên cứu. Tăng trưởng
kinh tế được coi là việc mở rộng sản lượng tiềm năng của một quốc gia trong
một giai đoạn nhất định. Khi kinh tế tăng trưởng thì các yếu tố điều kiện kinh
tế sẽ rất thuận lợi cho các nhà đầu tư. Nó tạo ra nhiều cơ hội trong kinh doanh
và ngược lại nếu kinh tế kém phát triển với tỷ lệ lạm phát cao, nó sẽ tác động
tiêu cực tới nhà đầu tư. Chu kỳ phát triển kinh tế là sự thăng trầm về khả năng
tạo ra của cải cho nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định.

Nguyễn Thị Thúy An


CQ49/08.02


19

1.2.3.5. Nguồn nhân lực
Một trong những yếu tố xã hội quan trọng của môi trường đầu tư là
nguồn nhân lực và giá cả sức lao động. Đây là một trong những yếu tố rất cần
thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch kinh doanh. Một nhà đầu tư muốn mở
một nhà máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà đầu tư sẽ chọn khu vực
có thể đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng của lao động, ngoài ra giá
cả sức lao động là một trong những chỉ tiêu đánh giá của các nhà đầu tư. Chất
lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực
có hàm lượng công nghệ cao hay có sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Ngoài
ra yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng tới yếu tố lao động như sự cần cù, tính kỷ
luật, ý thức trong lao động…Vì vậy yếu tố lao động là một trong những điều
kiện thuận lợi hay khó khăn cho các nhà đầu tư khi tiến hành kinh doanh. Tuy
nhiên để có lực lượng lao động tốt thì lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục,
đào tạo, chất lượng đào tạo nghề.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá môi trường đầu tư nước ngoài
1.2.3.1 Chỉ số cạnh tranh toàn cầu Global Competitiveness Index (GCI):
GCI được tạo thành từ hơn 113 biến, trong đó khoảng một hai phần ba
đến từ những ý kiến chấp hành khảo sát, và một phần ba đến từ các nguồn
công khai. Các biến được tổ chức thành 12 chỉ tiêu, với mỗi chỉ tiêu đại diện
cho một khu vực được coi như là một yếu tố quyết định của khả năng cạnh
tranh. 12 chỉ tiêu này được xếp thành 3 nhóm:
A- Nhóm chỉ tiêu về các yêu cầu cơ bản (Basic Requirements)
1. Thể chế (25%)
2. Cơ sở hạ tầng (25%)
3. Ổn định kinh tế vĩ mô (25%)

4. Y tế và giáo dục tiểu học (25%)
B- Nhóm chỉ tiêu nâng cao hiệu quả (Efficiency Enhancers)

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


20

5. Đào tạo và giáo dục bậc cao hơn (17%)
6. Hiệu quả của thị trường hàng hoá (17%)
7. Hiệu quả của thị trường lao động (17%)
8. Sự phát triển của thị trường tài chính (17%)
9. Công nghệ tiên tiến (16%)
10. Quy mô thị trường (16%)
C- Nhóm chỉ tiêu về sự đổi mới và sự phát triển của các nhân tố
(Innovation and sophistication factor)
11. Sự phát triển của hệ thống kinh doanh (50%)
12. Đổi mới công nghệ (50%)
Bảng1.1 - Tỉ trọng các nhóm tỉ số của các nhóm nước

Nhóm nước

về các yêu cầu cơ bản
Nhóm chỉ tiêu
nâng cao hiệu quả
Nhóm chỉ tiêu về sự đổi
mới và sự phát triển


nước Nhóm nước

phát đang

Kém

Nhóm chỉ tiêu

Nhóm

phát Phát

triển

triển (%)

triển (%)

(%)

60

40

20

35

50


60

5

10

30

(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
1.2.4.2. Chí số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI của Việt Nam
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (viết tắt là PCI – Provincial
Competitiveness Index) là thành quả của sự hợp tác liên tục giữa Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Dự án Sáng kiến cạnh
tranh Việt Nam của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


21

(USAID/VNCI). Chỉ số PCI được sử dụng như một công cụ quan trọng để đo
lường và đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh tế của 63 tỉnh, thành
phố Việt Nam trên 9 lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khu vực
kinh tế dân doanh gồm các tiêu chí sau đây:
1.

Chi phí gia nhập thị trường
Các chỉ tiêu cụ thể bao gồm các tiêu chí như thời gian đăng kí kinh


doanh - số ngày; thời gian đăng kí kinh doanh bổ sung; Số lượng giấy đăng kí,
giấy phép kinh doanh cần thiết để chính thức hoạt động; Thời gian chờ đợi để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; % doanh nghiệp mất hơn 1
tháng để khởi sự kinh doanh; % doanh nghiệp mất hơn 3 tháng để khởi sự
kinh doanh.
2.

Tiếp cận đất đai và Sự ổn định trong sử dụng đất
Đo lường về hai khía cạnh của vấn đề đất đai mà doanh nghiệp phải đối

mặt: việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và doanh nghiệp có thấy yên tâm
và được đảm bảo về sự ổn định khi có được mặt bằng kinh doanh hay không?
3.

Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
Đo lường khả năng tiếp cận các kế hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý

cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, liệu doanh nghiệp có
thể tiếp cận một cách công bằng các văn bản này, các chính sách và quy định
mới có được tham khảo ý kiến của doanh nghiệp và khả năng tiên liệu trong
việc triển khai thực hiện các chính sách quy định đó và mức độ tiện dụng của
trang web tỉnh đối với doanh nghiệp.
4.

Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
Đo lường thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục

hành chính cũng như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải
tạm dừng kinh doanh để các cơ quan Nhà nước của địa phương thực hiện việc

thanh tra, kiểm tra.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


22

5.

Chi phí không chính thức
Đo lường các khoản chi phí không chính thức mà doanh nghiệp phải trả

và các trở ngại do những chi phí không chính thức này gây ra đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, việc trả những khoản chi phí không chính
thức có đem lại kết quả hay “dịch vụ” như mong đợi và liệu các cán bộ Nhà
nước có sử dụng các quy định của địa phương để trục lợi hay không?
6.

Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Đo lường tính sáng tạo, sáng suốt của lãnh đạo tỉnh trong quá trình thực

thi chính sách Trung ương cũng như trong việc đưa ra các sáng kiến riêng
nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời đánh giá khả năng hỗ trợ
và áp dụng những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của Trung ương theo
hướng có lợi cho doanh nghiệp.
7.

Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp

Dùng để đo lường các dịch vụ của tỉnh để phát triển khu vực tư nhân như

xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp,
hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh, phát triển các khu/cụm công nghiệp tại
địa phương và cung cấp các dịch vụ công nghệ cho doanh nghiệp.
8.

Đào tạo lao động
Đo lường các nỗ lực của lãnh đạo tỉnh để thúc đẩy đào tạo nghề và phát

triển kỹ năng nhằm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp tại địa phương và giúp
người lao động tìm kiếm việc làm.
9.

Thiết chế pháp lý
Đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với hệ thống tòa án, tư

pháp của tỉnh, liệu các thiết chế pháp lý này có được doanh nghiệp xem là
công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp hoặc là nơi doanh nghiệp có thể
khiếu nại các hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền tại địa phương.

Nguyễn Thị Thúy An

CQ49/08.02


×