MỤC LỤC
LIST OF PROJECTS CALLING FOR INVESTMENT ..................................................... 64
Danh mục Dự án kêu gọi đầu tư vào Hà Nội – giai đoạn 2006-2010 .......................................................... 64
Sai Dong A hi-tech Industrial zone ......................................................................... 64
General Service and Business Centre at No 5 Le Duan ....................................... 66
Hi-Tech Research,Development and Training Centre in North of Red River .. 66
Improvement and Rehabilitating of Kim Lien B Collective Housing Area ....... 67
High Building Apartment Group belong to Thinh Liet new Urban Area ......... 67
Upgrade Qualities of Health Care in Soc Son District .......................................................................... 68
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UBND: Ủy ban nhân dân
ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
XTĐT: Xúc tiến đầu tư
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế hoạt động và phát triển trên cơ sở hội
nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hội nhập đã tạo điều kiện cho nền kinh
tế của mỗi quốc gia những cơ hội phát triển song cũng đặt ra không ít thách thức nhất
là đối với những nền kinh tế đang phát triển. Trong hội nhập kinh tế, đầu tư trực tiếp
nước ngoài có vai trò cực kỳ to lớn. Nó là nhân tố góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội theo chiều hướng tiến bộ,
giảm nhẹ gánh nặng thất nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, từng bước hội nhập với nền
kinh tế khu vực và trên thế giới. Quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu
tác động của rất nhiều yếu tố như cơ chế thị trường, ảnh hưởng của môi trường đầu
tư và cơ hội đầu tư, tình hình biến động kinh tế của khu vực và trên thế giới và đặc
biệt là hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư. Có thể nói công tác xúc tiến đầu tư có
vai trò quan trọng góp phần vào việc thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hà Nội là thủ đô, trái tim của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trung tâm chính
trị, văn hóa, xã hội và khoa học của cả nước. Tuy nhiên trải qua hơn nửa thế kỷ bị
chiến tranh tàn phá hiện nay Hà Nội vẫn là một trong những thủ đô lạc hậu nhất trên
thê giới đặc biệt là về kinh tế. Do vậy việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Hà Nội
là một đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Muốn vậy ngoài việc sử dụng có
hiệu quả nguồn nội lực sẵn có Hà Nội phải có kế hoạch, chiến lược thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm góp phần phát triển thủ đô mà trên hết là nâng cao
hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư.
Với thực tế khách quan đó em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả
xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
Hà Nội” làm chuyên đề thực tập.
Bố cục bài viết chia làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công tác xúc tiến
đầu tư.
Chương 2: Thực trạng công tác xúc tiến đầu tư tại Hà Nội trong những
năm qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến
đầu tư.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp các thông tin, tài liệu báo cáo
chính thức đã công bố của các tổ chức: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu
tư thành phố Hà Nội…về đề tài nghiên cứu.
Chương 1: Tổng quan về đầu tư nước ngoài và công tác
xúc tiến đầu tư.
1.1Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với mỗi quốc gia vốn cho đầu tư phát triển thường được chia thành hai loại
là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong nước thường không đáp
ứng đủ nhu cầu đầu tư do vậy mỗi quốc gia đều có chiến lược thu hút vốn nước
ngoài. Vốn nước ngoài có các hình thức chủ yếu sau: Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA), việc trợ nhân đạo từ các quốc gia, tổ chức tài chính quốc tế hoặc các tổ chức
phi chính phủ, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài, vay
thương mại từ các ngân hàng nước ngoài hoặc thị trường tài chính quốc tế. Trong các
hình thức trên đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn
đặc biệt là trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay nó lại càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hinh thức vốn sản
xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư,
đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành tổ chức sản xuất nhằm tận dụng ưu
thế về vốn, trình độ công nghệ và năng lực quản lý để tối đa hóa lợi ích của mình.
Bản chất của FDI càng thể hiện rõ hơn qua việc xem xét nó dưới góc độ nhà đầu
tư, đối với nước tiếp nhận đầu tư và với tư cách là một dòng vốn quốc tế. Vai trò của
FDI có thể rất khác nhau đối với sự phát triển của các nước khác nhau, đối với từng
giai đoạn phát triển khác nhau của một nước. Do vậy mỗi quốc gia tiếp nhận FDI
thường có chiến lược, sách lược, trọng tâm và lộ trình riêng cho việc thu hút dòng
vốn này.
Đặc điểm của FDI:
- Mặt tích cực:
+ FDI không để lại gánh nặng nợ cho chính phủ tiếp nhận đầu tư như ODA
hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu
ra nước ngoài.
+ Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp
+ FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật,
phương thức quản lý tiên tiến cho phép tạo ra những sản phẩm mới mở ra cơ hội tiếp
cận thị trường mới của nước tiếp nhận đầu tư.
+ Thông qua tiếp nhận FDI nước tiếp nhận có điều kiện gắn kết nền kinh tế
trong nước với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Với những mặt tích cực như vậy các nước trên thế giới đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển rất coi trọng hình thức đầu tư này và có nhiều chính sách nhằm kêu
gọi dòng vốn này. Rất nhiều quốc gia đã sử dụng ODA trong giai đoạn đầu để tạo
một cú huých để đầu tư xây dựng cơ sỏ vật chất nhưng sau đó chuyển sang thu hút
FDI để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, cải thiện năng lực cạnh tranh. Và khi
đã có một vị thế nhất định trên bản đồ kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp trong
nước vươn ra đầu tư nước ngoài và đem lợi nhuận về cho doanh nghiệp cũng như
quốc gia của mình.
- Bên cạnh những mặt tích cực như đã nêu trên FDI cũng tồn tại một số hạn chế
sau đây:
+ FDI gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế giữa vốn trong nước và vốn
nước ngoài có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà
đầu tư.
+ FDI có thể gây nền hiện tượng nước tiếp nhận đầu tư trở thành bãi rác công
nghệ của những nước phát triển do trình độ công nghệ của các quốc gia tiếp nhận
thường là thấp nên các nhà đầu tư có cơ hội đưa những công nghệ đã lạc hậu bên
nước họ để đem sang các nước khác đầu tư.
+ Gây sức ép cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước làm giá thành cao
một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí gây ra lỗ giả, lãi thật gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nhà nước.
+ Có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế-xã hội như làm tăng
chênh lệch về thu nhập, làm tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức
độ chênh lệc về phát triển kinh tế trong một vùng hoặc giữa các vùng trong một quốc
gia.
Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của những bất lợi mà FDI mang lại còn tùy thuộc
vào quan điểm và sự quản lý của mỗi quốc gia tiêp nhận. Nếu có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, đầy đủ các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế giảm thiểu
tới mức tối đa những tác động tiêu cực, bất lợi.
1.1.2 Các nhân tố chủ yếu tác động đến thu hút dòng vốn FDI
Trên hết và xuyên suốt tất cả các thời kỳ, các quốc gia dù phát triển hay đang
phát triển dù là bên nhận đầu tư hay bên chủ đầu tư thì động lực mạnh mẽ và bao
quát nhất tạo ra và chi phối những dòng FDI chính là lợi nhuận, với khát vọng tìm
kiếm các thị trường đầu tư, thị trường tiêu thụ tránh sự nằm im phi kinh tế của các
luồng vốn nhàn rỗi, tránh những rủi ro kinh tế khi đầu tư tập trung vào một thị trường
(theo phương châm “không để tất cả trứng vào một giỏ”). Nếu không xét đến khả
năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận đầu tư
quốc tế và với giả định bối cảnh chung của thế giời ở điều kiện bình thường cả về tự
nhiên và nhân tạo thì có thể nhận thấy dòng vốn đầu tư quốc tế nói chung vốn FDI
nói riêng chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo
cho đồng vốn sinh sôi nảy nở. Thực tiễn cho thấy tiêu chuẩn của môi trường đầu tư
hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trước hết bao gồm 6
nhân tố: sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội; sự hoàn chỉnh, hiệu quả của hệ
thống pháp luật đầu tư; sự linh hoạt của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài; sự
phát triển của cơ sở hạ tầng; trình độ của đội ngũ lao động, của khoa học – công nghệ
và các doanh nghiệp trong nước; và năng lực của nền hành chính quốc gia và hiệu
quả của dự án FDI đã triển khai.
1.1.3 Xu thế vận động của dòng vốn FDI
FDI phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thương mại thế giới. Toàn
cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI nhằm tối
đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến địa
điểm có lợi về chi phí và tiêu thụ. Sự vận động của FDI biểu hiện trên một số xu thế
sau: Một là, cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng vốn
đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thái quan trọng trong
hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới. Hai là, sự phân bổ dòng vốn FDI
không đều phần lớn vẫn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn chảy
vào các nước đang phát triển thời gian qua có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Ba
là, dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu của các công ty xuyên
quốc gia của những nước phát triển. Bốn là, tính cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận
FDI ngày càng gay gắt. Năm là, các nước đều tham gia vào hai quá trình là đầu tư và
tiếp nhận đầu tư.
1.1.4 Sự cần thiết thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung
và Hà Nội nói riêng.
Như chúng ta đã biết để phát triển kinh tế đất nước nói chung và thủ đô Hà Nội
nói riêng cần rất nhiều vốn, mà vốn nội lực sẵn có của nền kinh tế không đáp ứng đủ.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới với trình độ phát triển kinh tế thấp kém, tích lũy trong
nước hầu như không có. Xuất phát từ thực tế đó để thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, ổn định kinh tế đất nước đại hội VI của Đảng đề ra chủ trương: “Cùng với
việc mở rộng xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, cần vận dụng
nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại”. Tại thời điểm lúc đó nguồn
vốn nước ngoài mà ta có thể sử dụng được chính là FDI. Thực tế đến nay đã chứng
minh sự lựa chọn của chúng ta là đúng đắn đồng thời cũng nói lên tính cần thiết có
tính lịch sử và khách quan của FDI đối với công cuộc xây dựng và phát triển của đất
nước.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định rõ hơn sự cần thiết của FDI trong quá
trình phát triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay: “Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát
triển, hướng mạnh vào sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa
dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”. Đó là một thành phần kinh tế
mới xuất hiện và hình thành ngày càng rõ nét trong nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước ta.
Xuất phát từ vị trí quan trọng có tính lịch sử và khách quan của FDI đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước cũng
như UBND thành phố Hà Nội đã chủ trương tích cực thu hút và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn FDI nhằm mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội thực hiện thành
công quá trình CNH, HĐH đất nước và thủ đô. FDI hiện nay được xem là một trong
những động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước nói chung và thủ
đô Hà Nội nói riêng.
1.2 Công tác xúc tiến đầu tư.
1.2.1 Khái niệm xúc tiến đầu tư.
Luật đầu tư 2005 không nêu khái niệm “xúc tiến đầu tư”. Do vậy những người
làm xúc tiến đầu tư thường ngầm hiểu khái niệm xúc tiến đầu tư cũng gần giống như
định nghĩa của Luật Thương mại 2005 về “xúc tiến thương mại”- “là hoạt động thúc
đẩy, tìm kiếm cơ hội mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ…”. Vậy thì xúc tiến đầu tư là
hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội đầu tư. Rõ ràng đứng ở một khía cạnh nào đó
định nghĩa này cũng phản ánh bản chất của hoạt động xúc tiến đầu tư.
Công tác xúc tiến đầu tư là hoạt động rất đa dạng và ngày càng trở nên quan
trọng đối với mỗi quốc gia trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công
tác xúc tiến đầu tư không chỉ gói gọn là việc mở rộng thị trường trong nước cho các
nhà đầu tư nước ngoài. Xúc tiến đầu tư là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm mục
đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đến đất nước mình, địa phương trình để đầu tư.
Như vậy xúc tiến đầu tư là các hoạt động nhằm giới thiệu, quảng cáo cơ hội
đầu tư và hỗ trợ đầu tư của nước chủ nhà. Thực chất của hoạt động này là Marketing
trong thu hút đầu tư mà kết quả thể hiện trực tiếp là nguồn vốn đầu tư. Các hoạt động
này do các cơ quan chức chính phủ, các nhà khoa học, các tổ chức, các doanh
nghiệp…thực hiện dưới nhiều hình thức như các chuyến viếng thăm ngoại giao cấp
Chính phủ, tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, tham quan, khảo sát…và
qua các phương tiện thông tin đại chúng phù hợp.
Theo nghĩa hẹp công tác xúc tiến đầu tư là những biện pháp thu hút đầu tư
thông qua một số biện pháp tiếp thị tổng hợp của các chiến lược về sản phẩm, xúc
tiến và giá. Một môi trường đầu tư tốt song ít được thế giới biết đến hoặc biết đến
không đầy đủ, sai lệch thì cũng kém thu hút các nhà đầu tư. Xúc tiến đầu tư là hoạt
động được áp dụng khá phổ biến và mang lại hiệu quả cao tại các nước phát triển và
một số nước NICs. Nhiều nước đã có tổ chức xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư
như Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Mỹ…Hiện nay xúc tiến đầu tư được tất cả các
quốc gia đều quan tâm nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.2 Nội dung hoạt động xúc tiến đầu tư.
Để thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư thì việc xác định các nội dung, các
chương trình cho những hoạt động này là rất quan trọng. Nó quyết định tới kết quả
của công tác xúc tiến đầu tư. Nội dung của công tác xúc tiến đầu tư của các cơ quan
xúc tiến đầu tư bao gồm 7 nội dung chủ yếu sau đây:
Trao đổi cung cấp thông tin về môi trường đầu tư
Thông tin về môi trường đầu tư là rất quan trọng đối với tất cả các nhà đầu tư
khi quyết định địa điểm đầu tư. Nó sẽ quyết định dự án của nhà đầu tư có thể thực
hiện được không. Và nếu thực hiện có hiệu quả và hiệu quả lâu dài hay không. Môi
trường đầu tư bao gồm: Môi trường chính trị, môi trường luật pháp, vị trí địa lý và
điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế,..Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng
hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi nó đảm bảo việc thực
hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các
chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước, ổn định chính trị sẽ
tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi ro cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Quá trình đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian
dài, nên môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản
lý và đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, quy định,
luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau và có tính
hiệu lực cao. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đó là những yếu tố như khí hậu, tài
nguyên, dân số…liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và khả năng sinh lời của
dự án. Khí hậu khắc nghiệt, nhiệt đới gió mùa sẽ ảnh hưởng không tốt đối với các
loại máy móc có xuất xứ từ phương Tây. Nguồn nguyên liệu dồi dào và phong phú sẽ
thu hút các nhà đầu tư vì giảm vì giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông đúc sẽ cung
cấp lao động với giá ưu đãi và là thị trường tiêu thụ tiềm năng. Trình độ phát triển
kinh tế của một quốc gia ảnh hưởng rất nhiều đến việc thu hút và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI. Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục
tập quán, thị hiếu thẩm mỹ, hệ thống giáo dục đạo đức cũng có tác động không nhỏ
tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hóa trong một số
trường hợp đã mang lại những hậu quả không lường trong kinh doanh. Tâm lý của
các nhà đầu tư là không muốn đầu tư vào một quốc gia hay một địa phương có quá
nhiều phong tục tập quán khác nhau, nhiều lễ hội, nhiều điều kiêng kỵ bởi điều này
sẽ khiến cho họ khó hòa nhập và không thuận lợi trong việc kinh doanh của họ.
Giới thiệu chính sách ưu đãi mà bên xúc tiến sẽ áp dụng cho các nhà đầu
tư khi thực hiện công cuộc đầu tư: chính sách ưu đãi về thuế (thuế thu
nhập doanh nghiệp), chính sách ưu đãi về đất đai…
Khi quyết định đầu tư vào một quốc gia, một địa phương các nhà đầu tư rất
quan tâm đến các chính sách cũng như các ưu đãi mà mình sẽ được hưởng khi thực
hiện hoạt động đầu tư. Trong thời gian vừa qua không riêng gì Hà Nội mà các địa
phương của nước ta đã đưa ra những chính sách rất hấp dẫn nhằm thu hút các nhà
đầu tư đầu tư vào địa phương mình. Các chính sách đó như: chính sách thuế, chính
sách lệ phí, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách về quản lý hoạt động đầu tư,
chính sách đất đai, các chính sách và quy định khác. Chính sách thuế bao gồm các nội
dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời gian miễn thuế, thời gian khấu hao
và các điều kiện ưu đãi khác. Chính sách lệ phí quy định về các khoản tiền nộp như
phí dịch vụ cấp phép đầu tư, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin
liên lạc..). Ở Việt Nam có thời gian tồn tại chính sách 2 giá làm cho các nhà đầu tư
rất bình bình. Nó thể hiện sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài. Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực năm 2006 đã có những tín hiệu rất đáng
mừng trong việc rút ngắn khoảng cách, tạo sân chơi bình đẳng giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài đều
có những quyền lợi và nghĩa vụ tương đối giống nhau trong hoạt động đầu tư, sản
xuất kinh doanh. Chính sách quản lý ngoại hối bao gồm các quy định về việc mở tài
khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Trong quá trình hình
thành và triển khai dự án đầu tư, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có
thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép đầu tư, thẩm định dự
án đến việc quản lý việc thực hiện dự án. Hình thức tổ chức quản lý hoạt động đầu tư
ở các quốc gia khác nhau là khác nhau. Nhưng các quốc gia đang có xu hướng đơn
giản hóa thủ tục trong hoạt động đầu tư, áp dụng hình thức “một cửa” có nghĩa là nhà
đầu tư chỉ cần liên hệ với một cơ quan chức năng và mọi khâu liên quan sẽ do cơ
quan này đảm nhiệm. Đây là một hình thức rất tiến bộ được các nhà đầu tư rất
khuyến khích. Hiện nay tại Hà Nội và các địa phương cũng đang thực hiện hình thức
này và cố gắng thực hiện một cách triệt để để thực sự mang lại hiệu quả.
Tham mưu và cung cấp cho nhà quản lý đầu tư xây dựng cơ chế thu hút
đầu tư
Theo dõi đánh giá hiệu quả và kết quả các hoạt động đầu tư đã xúc tiến
Tham gia phân bổ và quản lý các nguồn vốn đầu tư vào địa phương nơi
mình hoạt động
Tổng hợp và xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư
Trên cơ sở Quy hoạch phát triển tổng thế kinh tế - xã hội của thủ đô Hà Nội đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thành phố đặc biệt là trung tâm xúc tiến đầu tư
đã thực hiện định kỳ xây dựng Danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài với các
thông tin dự án được cập nhật hàng năm và tính khả thi ngày càng được nâng cao, tập
trung vào một số lĩnh vực ưu tiên phát triển, các sản phẩm công nghiệp chủ lực,
ngành dịch vụ, lĩnh vực xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị…bằng các thứ tiếng khác
nhau để thực hiện công tác xúc tiến đầu tư phù hợp với từng thị trường. Danh mục dự
án kêu gọi đầu tư cả trong nước và nước ngoài đã có tác dụng to lớn trong việc mời
chào, định hướng cho các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nghiên cứu, tham gia vào
thị trường mới là Hà Nội - Việt Nam. Đánh giá sơ bộ cho thấy giai đoạn từ năm 2006
trở về trước từ danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài đã có 15-20% số dự án
được các nhà đầu tư quan tâm phản hồi và từ 2-4% số dự án đã đi đến kết thúc thành
công. Còn từ năm 2007 trở lại đây từ Danh mục dự án kêu gọi đầu tư cả trong và
ngoài nước đã có những phản hồi đối với gần 100% dự án trong Danh mục và nay
các cơ quan Thành phố đang phối hợp với các nhà đầu tư triển khai đầu tư
Tổ chức, phối hợp tổ chức hội thảo, hội nghị trong và ngoài nước về xúc
tiến đầu tư cho khu vực
1.2.3 Hình thức xúc tiến đầu tư.
Xúc tiến đầu tư có hình thức xúc tiến trực tiếp và xúc tiến gián tiếp. Xúc tiến
đầu tư trực tiếp là xúc tiến đầu tư bằng cách trao đổi và quảng bá các thông tin một
cách trực tiếp cho các nhà đầu tư thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi, các cuộc hội
thảo, hội chợ…
Xúc tiến đầu tư gián tiếp là hình thức xúc tiến thông qua hoạt động trung gian
như kênh thông tin đại chúng để có thể đem tới các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ
và chính xác giúp cho các nhà đầu tư tìm thấy các cơ hội để ra quyết định đầu tư.
Đối với hình thức xúc tiến đầu tư trực tiếp bên xúc tiến có thể cung cấp thông
tin một cách đầy đủ, chính xác đến các nhà đầu tư. Các thỏa thuận, hợp đồng được
xúc tiến thành công sẽ được thực hiện nhanh chóng và mang lại hiệu quả. Các kết
quả và hiệu quả xúc tiến sẽ được thể hiện và nhanh chóng qua đó có thể sửa đổi và
điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó xúc tiến đầu tư trực tiếp có thể giúp các nhà đầu tư
giải đáp được những thắc mắc giúp tiết kiệm thời gian và chi phí trung gian cho nhà
đầu tư khi ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên xúc tiến đầu tư theo hình thức trực tiếp rất
tốn kém và khó thực hiện.
1.2.4 Vai trò của xúc tiến đầu tư
- Góp phần thúc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Xúc tiến đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là khi chủ đầu tư còn đang
trong giai đoạn tìm hiểu, thăm dò, lựa chọn địa điểm đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu
tư mang đến cho chủ đầu tư những thông tin liên quan đến ý định đầu tư của họ, giúp
các nhà đầu tư có cái nhìn tổng quát, chính xác và kịp thời về quốc gia, địa phương
mà họ định đầu tư để họ có cơ sở cân nhắc và đi đến quyết định cuối cùng. Như vậy
hoạt động xúc tiến đầu tư có vai trò rút ngắn thời gian trong việc ra quyết định đầu tư
của nhà đầu tư.
Vốn đầu tư không phải tự nhiên mà đến với quốc gia này, địa phương kia. Để ra
được quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư các nhà đầu tư phải tìm hiểu tỉ mỉ, tính
toán kỹ lưỡng và đưa ra các phương án tối ưu nhất. Hiện nay các quốc gia đang cạnh
tranh nhau rất gay gắt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, do vậy hoạt động
xúc tiến đầu tư ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn bao giờ hết. Hiệu quả
của hoạt động xúc tiến đầu tư được thể hiện ngay ở kết quả thu hút đầu tư. Nếu hoạt
động xúc tiến đầu tư đạt hiệu quả cao thì lượng vốn đầu tư thu hút được nhiều và
ngược lại. Do vậy xúc tiến đầu tư góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Tham gia vào việc xây dựng các cơ chế chính sách, tạo môi trường thông
thoáng cho hoạt động đầu tư
- Góp phần hình thành khu công nghiệp, khu chế xuất phục vụ hoạt động sản
xuất hàng hóa lớn.
Ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng của toàn xã hội, nước chủ nhà cần xây dựng
những khu vực đặc biệt cung cấp những dịch vụ đầu tư tốt nhất cùng với những điều
kiện ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả cuối cùng của công tác xúc tiến
đầu tư là hiệu quả của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta có thể thút
đầu tư nước ngoài nhiều hay không và với chất lượng ra sao. Công tá xúc tiến đầu tư
đã gián tiếp góp phần hình thành các khu chế xuất, khu công nghệ cao. Khu chế xuất
là khu vực địa lý được khoanh vùng với các quy chế đặc biệt tách khỏi các quy định
về thuế quan, thương mại của một nước, trong đó chủ yếu là để phát triển công
nghiệp chế tạo và sản phẩm dùng để xuất khẩu. Những khu chế xuất được hình thành
mang lại hiệu quả to lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đến cuối
những năm 1980 kinh tế của các nhiều nước đang phát triển có xu hướng mở cửa,
bên cạnh đó mối liên kết giữa kinh tế khu chế xuất và khu vực kinh tế khác trong
nước tỏ ra rất yếu ớt nên nhiều nước đã chuyển sang khu công nghiệp và khu công
nghệ cao. Khu công nghiệp là một khu vực địa lý được phân chia và phát triển một
cách hệ thống, theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cần
thiết, cơ sở hạ tầng phù hợp với sự phát triển của một liên ngành công nghiệp và sản
phẩm không nhất thiết là cứ phải xuất khẩu. Khu công nghệ cao chủ yếu là để phục
vụ các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng những công nghê, dây chuyền sản xuất hiện
đại.
- Tạo ra dòng chảy vốn một cách hợp lý, huy động tối đa mọi nguồn lực của đất
nước
- Tạo điều kiện đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Có thể nói cơ sở hạ tầng (môi trường đầu tư cứng) có vai trò làm nền móng cho
các hoạt động đầu tư. Nước chủ nhà cần phải chuẩn bị cơ sở hạ tầng tốt trước khi tiếp
nhận đầu tư. Đó là các công việc như xây dựng đường xá giao thông, bến bãi, nhà ga,
hệ thống cung cấp điện nước, thông tin, bưu điện. Chi phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng là
rất lớn, vì vậy khi đầu tư ra nước ngoài thì các nhà đầu tư luôn quan tâm đến chất
lượng hệ thống cơ sở hạ tầng - điều kiện quyết định hiệu quả đầu tư của họ. Ở những
nước đang phát triển, các nhà đầu tư thường tập trung đầu tư vào những vùng miền
có chất lượng cơ sở hạ tầng tốt, điều này sẽ giúp nhà đầu tư giảm được chi phí.
- Mở ra cơ hội hội nhập kinh tế thế giới nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Xúc tiến đầu tư là hoạt động quảng bá hình ảnh Việt Nam với các nhà đầu tư,
bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Rất nhiều cuộc hội thảo, cuộc xúc tiến đầu tư
nước ngoài được tổ chức với sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư. Điều này cho
thấy Việt Nam là điểm đến đáng chú ý của nhiều nhà đầu tư, điều này cũng tạo điều
kiện cho Việt Nam hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế trong khu vực cũng như trên
thế giới. Hình ảnh của Việt Nam trong lòng bạn bè thế giới va các nhà đầu tư được
nâng lên với Việt Nam là một địa điểm có môi trường đầu tư tốt, khá thuận lợi với
nhiều chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều
này cũng góp phần tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.5 Các nhân tố tác động tới hoạt động xúc tiến đầu tư
Hoạt động xúc tiến đầu tư được thực hiện trong môi trường va chạm như những
hoạt đông khác do vậy cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có ba yếu tố
chủ yếu sau đây:
- Các chính sách và môi trường đầu tư: Chính sách đầu tư là một tập hợp các
chính sách thương mại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Các nhà đầu tư thường đặc
biệt quan tâm đến các nhân tố như điều kiện cho phép đầu tư, các chế độ đãi ngộ, tỷ
giá hối đoái, chính sách thuế, đất đai, cơ sở hạ tầng…Trong ngắn hạn hay trung và
dài hạn còn có thể có một khung chính sách riêng biệt nhằm tăng cường thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng sau đó là cơ chế áp dụng một chính sách chung không
có sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Các chiến lược xúc tiến đầu tư
Chiến lược xúc tiến đầu tư là cách thức tổ chức một loạt các hoạt động xúc tiến
đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia hay địa
phương nào đó. Việc thiếu một chiến lược xúc tiến đầu tư đã làm cho công tác xúc
tiến đầu tư ở quốc gia hay một địa phương nào đó đã làm cho công tác xúc tiến đầu
tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống về các vấn đề liên quan tới công tác
xúc tiến đầu tư như: nội dung của hoạt động xúc tiến đầu tư, hệ thống các công cụ
xúc tiến đầu tư, mô hình tổ chức xúc tiến đầu tư, bố trí nguồn nhân lực cho công tác
xúc tiến đầu tư. Có một chiến lược xúc tiến đầu tư tốt mang tính dài hạn có tác động
tích cực đến hiệu quả xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm 3 nhóm
hoạt động chính: tạo dựng hình ảnh, tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng,
cung cấp các dịch vụ đầu tư
+ Tạo dựng hình ảnh là nhóm hoạt động đi đầu trong chiến lược xúc tiến đầu tư.
Các biện pháp tạo dựng hình ảnh được sử dụng trong cả thị trường trong nước và
nước ngoài nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin đầy đủ về môi trường đầu tư,
chính sách, chế độ đãi ngộ, các yêu cầu thủ tục…của địa phương hay quốc gia mà
các nhà đầu tư muốn đầu tư. Các hoạt động tạo dựng hình ảnh rất phong phú và đa
dạng như in ấn và phát hành các ấn phẩm, sách báo, tạp chí, đĩa, tờ rơi…tổ chức các
buổi hội thảo, tiến hành các hoạt động PR và quảng cáo. Sau bước tạo dựng hình ảnh
là tập trung vận động các nhà đầu tư có tiềm năng và cung cấp các dịch vụ đầu tư. Ba
hoạt động này không thể tách rời và chúng được thực hiện tuần tự hay đan xen nhau
nhằm nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư.
+ Tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng
Khâu này đòi hởi phải sử dụng đến các công cụ như thư từ, điện thoại, các cuộc
gặp gỡ, hội thảo tiến hành marketing trực tiếp đến các nhà đầu tư. Những hoạt động
này có thể được thực hiện nhằm vào các đối tượng trong và ngoài nước.
+ Cung cấp các dịch vụ đầu tư
Đa số các nhà đầu tư đều khẳng định rằng thỏa mãn yêu cầu của các nhà đầu tư
chính là phương thức Marketing hữu hiệu nhất. Dịch vụ đầu tư bắt đầu từ thời điểm
nhà đầu tư tiềm năng tới thăm địa điểm xúc tiến đầu tư và tiếp tục trong suốt thời
gian thực hiện dự án. Dịch vụ đầu tư không dừng lại ở thời điểm dự án được cấp
phép.
Dịch vụ trước cấp phép:
Các dịch vụ trước cấp phép chủ yếu liên quan tới việc tổ chức các cuộc viếng
thăm tới các địa điểm đầu tư, cung cấp các thông tin cần thiết để lựa chọn địa điểm
và giúp đỡ các nhà đầu tư chuẩn bị thủ tục đăng ký đầu tư. Ấn tượng đầu tiên bao giờ
cũng rất quan trọng nên việc các nhà đầu tư có trở lại lần thứ hai hay không phụ
thuộc rất nhiều vào cuộc viếng thăm lần đầu. Để thực hiện tốt các công việc cho một
chuyến viếng thăm thành công đôi khi cần sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan xúc
tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Việc đào tạo và nâng
cao kỹ năng Marketing là rất quan trọng để có thể trang bị cho các cán bộ dự án đầy
đủ kỹ năng cần thiết cho việc tổ chức một chương trình thành công.
Dịch vụ cấp phép:
Đây là lĩnh vực mà các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đảm nhận là tốt
nhất. Các văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong việc
đẩy nhanh tốc độ cấp giấy phép đầu tư. Đối với những dự án lớn và phức tạp có liên
quan đến nhiều cơ quan chức năng khác thì quy trình có thể phức tạp hơn. Tuy nhiên
đây chủ yếu vẫn là vấn đề phối hợp hoạt động cần ứng dụng các công cụ thông tin
nhanh như Internet.
Dịch vụ sau cấp phép:
Đây là khâu quan trọng nhất của dịch vụ đầu tư tuy nhiên lại ít được các cơ
quan xúc tiến đầu tư quan tâm nhất. Dịch vụ sau cấp phép rất đa dạng về loại hình
song có thể phân chia thành 2 nhóm chính: Giúp đỡ nhà đầu tư giải quyết các vấn đề
phát sinh trong quá trình thực hiện dự án; Cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng
Ba hoạt động trên có vai trò hết sức quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng
công tác xúc tiến đầu tư. Kết quả của một hoạt động tốt sẽ dẫn tới kết quả của hai
hoạt động còn lại cũng tốt và ngược lại. Trọng tâm của các hoạt động này phụ thuộc
vào từng quốc gia, địa phương và từng thời kỳ cụ thể để đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn.
- Cơ quan thực thi chính sách xúc tiến đầu tư
Ngày nay hầu hết các quốc gia đều đã chuyển từ giai đoạn đầu của xúc tiến đầu
tư là chủ yếu liên quan đến việc mở cửa thị trường đối với các nhà đầu tư nươc ngoài
sang giai đoạn hai là tích cực thu hút nguồn vốn FDI chảy vào đất nước, địa phương
mình. Kết quả của xu hướng này là các trung tâm xúc tiến đầu tư của các quốc gia,
địa phương lần lượt được ra đời nhằm nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư để
thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các cơ quan thực thi chính
sách xúc tiến đầu tư đều là các cơ quan của Nhà nước vì đây không phải là họt động
lấy thu bù chi, mọi chi phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư đều được lấy từ ngân sách
của quốc gia, của địa phương.
Thực tiễn cho thấy một chính sách đầu tư hợp lý đi cùng với một chiến lược xúc
tiến đầu tư năng động và được tiến hành bởi một cơ quan chuyên nghiệp sẽ làm nên
thành công của hoạt động xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư thành công sẽ
đưa lại kỳ vọng tốt cho thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.3 Một số kinh nghiệm tuyên truyền, vận động xúc tiến đầu tư của các
nước.
Một số kinh nghiệm của Chính phủ Nhật Bản về xúc tiến đầu tư. Chính phủ
Nhật Bản mở các cơ quan đại diện của Chính phủ ở nước ngoài giúp các doanh
nghiệp trong nước tổ chức các triển lãm và tham gia hội chợ ở nước ngoài. Năm 1954
thành lập tổ chức ngoại thương Nhật Bản (JETRO) hoạt động phi lợi nhuận, là cơ
quan chính thức của nhà nước thực thi chính sách thương mại của Nhật Bản đối với
nước ngoài từ đó tới nay. JETRO đã phát triển thành một tổ chức hoàn chỉnh và hiện
đại có trụ sở chính tại Tokyo, 36 văn phòng trên lãnh thổ Nhật Bản và 80 văn phòng
đại diện tại 58 quốc gia trên Thế giới. Nhiệm vụ của JETRO là nghiên cứu, cung cấp
thông tin thị trường, tổ chức các hội trợ và tham gia hội trợ thương mại quốc tế, cung
cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp.
Một số kinh nghiệm của Hàn Quốc về xúc tiến đầu tư. Năm 1962 thành lập tổ
chức xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại Hàn Quốc (KOTRA) với hia chức năng
chính là xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại. Đối với việc vận động xúc tiến đầu
tư của Hàn Quốc thì phương châm là luôn luôn đảm bảo cho các nhà đầu tư nước
ngoài có được lợi nhuận ở mức thỏa đáng, mở rộng phạm vi đầu tư với nhiều ưu đãi.
Thể hiện tại Luật xúc tiến đầu tư mới năm 1998 đã dành cho các nhà đầu tư nước
ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia, giảm thiểu thủ tục đầu tư, thay thế chế độ cấp phép
bằng chế độ thông báo và đăng ký đầu tư, thực hiện cơ chế một cửa giảm các ngành
nghề hạn chế đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động thuận
lợi Chính phủ ngày càng chủ động sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhất là thuế
suất và lãi suất. Thực hiện hiện đại hóa chính phủ theo chế độ viên chức phương Tây
đồng thời giành cho các kkhu công nghiệp các cơ chế ưu đãi để thu hút các nhà đầu
tư. Hàn Quốc cũng chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện tốt dự
báo trước nhu cầu sử dụng nguồn lao động chủ động mở rộng đào tạo lao động có tay
nghề cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc tuyên truyền, vận động xúc tiến đầu tư của
Hàn Quốc có mục đích và định hướng rõ ràng bằng việc Hàn Quốc coi trọng thu hút
nguồn vốn từ các nước công nghiệp phát triển để phát triển công nghiệp nhất là công
nghiệp chế tạo, từ đó tiếp nhận và nâng cao năng lực chuyển giao công nghệ mới.
Đến năm 1980 Nhật giữ vị trí số 1 với 55% tổng số vốn đầu tư vào Hàn Quốc và 76%
về số lượng doanh nghiệp, đứng thứ 2 là Mỹ với số vốn đầu tư chiếm 24,3%. Ngoài
ra Hàn Quốc cũng biết lựa chọn lĩnh vực thu hút đầu tư xuất phát từ những thế mạnh
và hạn chế những đặc thù của đất nước bằng việc Hàn Quốc tập trung vào các lĩnh
vực công nghiệp ít thu hút vào lĩnh vực khai thác tài nguyên, sơ chế sản phẩm, trong
lĩnh vực dịch vụ thì chỉ cho phép nhà đầu tư tham gia vào một số hoạt động du lịch,
tham gia liên doanh hoạt động ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác xúc tiến đầu tư và thu hút
đầu tư nước ngoài tại thủ đô Hà Nội.
1.1 Một vài nét về thủ đô Hà Nội
Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não
chính trị văn hóa khoa học kỹ thuật đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế xã hội.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước Hà Nội có súc hút các nguốn
lực phát triển trong và ngoài nước, có ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ nền kinh tế
trước hết là đồng bằng Bắc Bộ.
Hà Nội có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trung tâm đồng bằng sông Hồng, giáp với
các tỉnh Thái Nguyên, Hưng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc và
Hòa Bình. Ngoài các con sông lớn chảy qua như sông Hồng và sông Đuống, Hà Nội
còn có các sông nhỏ như: sông Nhuệ, Kim Ngưu…Hà Nội có rất nhiều hồ lớn nhỏ.
Nguồn nước mặt nước ngầm của Hà Nội là khá dồi dào, chất lượng tốt đảm bảo cho
sinh hoạt và sản xuất công nghiệp cũng như nông nghiệp.
Các điều kiện về vị trí địa lý, các yếu tố tự nhiên có liên quan đến việc lực chọn
lĩnh vực để đầu tư cũng như khả năng sinh lời của dự án. Hà Nội có vị trí thuận lợi,
khí hậu tương đối thuận lợi không ảnh hưởng nhiều tới tuổi thọ của các máy móc đến
từ các nước khác.
Hệ thống điện ổn định, gần nhà máy điện Hòa Bình và nhà máy nhiệt điện Phả
Lại, mạng lưới điện rộng khắp được nâng cấp và bảo dưỡng thường xuyên đảm bảo
cunga cấp điện liên tục và ổn định phục vụ sinh hoạt của nhân dân cũng như phục vụ
sản xuất. Bên cạnh hệ thống điện thì hệ thống thông tin liên lạ cũng được trang bị
hiện đại và được hòa mạng với hệ thống viến thông toàn cầu phục vụ nhu cầu giải trí
và liên lạc cũng như công việc của thành phố.
Hà Nội có hệ thống giao thông khá phát triển, các loại hình giao thông như
đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không đồng bộ đã tạo nên mạng
lưới giao thông rộng khắp ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nối liền các tỉnh các địa
phương trong cả nước và trên thế giới. Nếu chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh
hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng như đời
sống của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó dẫn đến chi phí sản xuất tăng và chất
lượng sản phẩm không cao. Hiện nay giao thông Hà Nội đang trong từng bước hoàn
thiện tạo được nhiều ấn tượng cho các nhà đầu tư quốc tế, do vậy nó ảnh hưởng tới
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hà Nội còn là nơi tập trung các cơ quan đầu mối quan trọng của quốc gia như
các cơ quan của Chính phủ, đại diện các Sở ban ngành, các cơ quan ngoại giao, các
văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế. Do vậy Hà Nội rất có lợi thế rất lớn
trong hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế đối ngoại.
Hà Nội bên cạnh là trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội còn là trung tâm giáo
dục lớn của cả nước. Hà Nội là nơi tập trung đội ngũ lao động đông đảo có trình độ
tay nghề khá cao. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có hơn 50 trường Đại học, Cao đẳng,
38 trường trung học chuyên nghiệp và 21 trường dạy nghề phục vụ nhu cầu học tập
của học sinh, sinh viên và rất nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Hà Nội đứng đầu cả
nước về cung cấp lực lượng lao động hàng năm với trên 6050 người có trình độ đại
học, 20000 người tốt nghiệp đại học và 110000 người tốt nghiệp trung cấp. Trình độ
phát triển giáo dục- đào tạo sẽ quyết định chất lượng đội ngũ lao động. Mặc dù hầu
hết các doanh nghiệp FDI sau khi tuyển dụng lao động sẽ phải đào tạo lại nhưng nếu
có sự khác biệt khá lớn trong quan điểm cũng như nội dung đào tạo ở nước nhận đầu
tư và nhu cầu của doanh nghiệp sẽ làm hạn chế hiệu quả đầu tư và làm nản lòng các
nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng nhiều lao động. Trong các trường Đại học ở Hà Nội
hiện nay tập trung đào tạo theo chương trình quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tế của các
doanh nghiệp. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tuyển được người
giỏi mà tiết kiệm được chi phí đào tạo, tránh gây tâm lý không tốt cho các nhà đầu tư
khi quyết định tuyển dụng lao động. Điều này cũng góp phần tích cực trong hoạt
động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nươc ngoài.
Tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của Hà Nội khoảng 11% cao hơn 3% tốc độ
trung bình của cả nước. Mức thu nhập bình quân đầu người cao và ổn định hàng năm
với GDP bình quân là 18,2 triệu VND/người/năm. Với mức thu nhập ngày càng cao
góp phần cải thiện đời sống nhân dân, cải thiện bộ mặt thủ đô vươn lên thành một thủ
đô có tên tuổi trên thế giới. Thị trường rộng lớn với dân số khoảng 6,3 triệu người tạo
điều kiện thuận lợi trong khâu tiêu thụ sản phẩm, và đây là một thị trường đầy tiềm
năng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phát triển. Ngoài ra trên địa bàn
Hà Nội các dịch vụ tài chính ngân hàng, tín dụng và bảo hiểm cũng khá phát triển
cung cấp các dịch vụ nhanh chóng thuận tiện cho các nhà đầu tư trong việc giao dịch
và thành toán tiết kiệm được nhiều chi phí trung gian.
Hà Nội còn là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, các làng nghề thủ công truyền
thống có khả năng mở rộng phát triển trên cơ sở đầu tư trang thiết bị mới và hiện đại.
Nhất là sau khi có sự mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội có thêm rất nhiều làng
nghề truyền thống với những sản phẩm hết sức độc đáo và có giá trị đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
Như vậy có thể nói Hà Nội là một địa chỉ khá hấp dẫn cho các nhà đầu tư khi
quyết định đầu tư vào Việt Nam với nhiều điều kiện thuận lơi cả về đầu vào lẫn đầu
ra. Tuy nhiên hòa theo xu thế chúng của cả nước quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thủ đô đòi hỏi cần có một khối lượng vốn khổng lồ mà nếu chỉ dựa vào các
nguồn vốn trong nước thì không đủ. Hà Nội cần tập trung và khai thác có hiệu quả
các nguồn vốn bên ngoài phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế trong đó FDI đóng
một vai trò khá quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn. Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ tạo động lực để phát triển kinh tế thủ đô, giúp Hà Nội trở thành trung tâm
kinh tế ngày càng có uy tín không chỉ trong nước mà còn trong khu vực và trên thế
giới, là địa chỉ mà các nhà đầu tư muốn hướng tới khi quyết định đầu tư ra nước
ngoài. Có như vậy Hà Nội mới nhanh chóng đat được mục tiêu kinh tế xã hội đã đề
ra. Muốn làm được điều đó công tác xúc tiến đầu tư phải đi trước một bước góp phần
vòa việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh về thủ đô Hà Nội với bạn bè và các nhà đầu tư
trên khắp thế giới. Một cái nhìn toàn diện, khách quan và kịp thời về môi trường đầu
tư, hành lang pháp lý về những thuận lợi mà các nhà đầu tư nhận được khi quyết định
đầu tư vào Hà Nội.
1.2 Thực trạng công tác xúc tiến đầu tư tại thủ đô Hà Nội trong những
năm qua
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của công tác xúc tiến đầu tư
Trong những năm qua công tác XTĐT ngoài do Bộ, ngành và địa phương thực
hiện đã có tác động tích cực trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ tập
trung ở Bộ Kế hoạch và đầu tư mà được phân cấp về các địa phương phối hợp cùng
thực hiện và Hà Nội là một trong những địa phương thực hiện công tác này rất tốt đem
lại hiệu quả tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Góp phần quan trọng vào
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cầu với hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình xúc tiến đầu tư về cơ bản được hình thành cùng với quá trình hình
thành và thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên về mặt pháp lý hoạt
động xúc tiến đầu tư lần đầu tiên được chính thức quy định tại Luật đầu tư nước
ngoài năm 1996 như là một trong những chức năng quan trọng của Cơ quan quản lý
nhà nước về Đầu tư nước ngoài mà cụ thể là Bộ Kế hoạch và đầu tư, với tu cách là cơ
quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác XTĐT nước
ngoài trên phạm vi cả nước. Và lúc đó Hà Nội cũng không nằm ngoài sự quản lý đó,
chưa có một cơ quan xúc tiến đầu tư nào cho bất kỳ một địa phương nào.
Cho tới lần sửa đổi và bổ sung Luật đầu tư nước ngoài năm 2000, nội dung hoạt
động XTĐT được xác định tại các văn bản pháp luật vẫn với tính thần gắn hoạt động
đầu tư vào giai đoạn hành thành dự án. Nói cách khác hoạt động XTĐT được xem
như một giai đoạn tiền dự án và chấm dứt hiệt lực khi dự án được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư.
Từ năm 2005 với sự ra đời của Luật đầu tư thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài
và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, công tác XTĐT có bước chuyển biến quan
trọng theo hướng tăng cường tính chủ động từ khâu xây dựng chương trình, kế hoạch
đầu tư đến khâu tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động xúc tiến đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư ngày càng có sự kết hợp chặt chẽ với
các hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại và du lịch.
Hoạt động xúc tiến đầu tư tại thủ đô Hà Nội đã được tiến hành từ lâu với sự
tham gia của Bộ, Ngành, doanh nghiệp trung ương cũng như các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố. Công tác xúc tiến đầu tư gắn liền trong hoạt động quản lý và vận
động thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài tại các phòng chuyên
môn của Sở Kế hoạch và đầu tư. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay, tình hình kinh tế có nhiều biến động các quốc gia đang cạnh tranh gay
gắt nhằm huy động vốn đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết bài toán thiếu hụt vốn
trong đầu tư và phát triển kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng chưa nhiều và ổn định do môi trường đầu tư chưa thực sự thông
thoáng để hấp dẫn các nhà đầu tư, tính cạnh tranh kém so với một số nước trong khu
vực nhất là Trung Quốc.
Trước đây công tác xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố không được quy về
một mối, hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài
hạn, còn dàn trải, chưa tập trung vào một số ngành, lĩnh vực và đối tác tiềm năng.
Các phòng ban hoạt động độc lập, riêng rẽ không liên kết với nhau nên hiệu quả vận
động thu hút các nguồn vốn nước ngoài vào Hà Nội chưa thực sự đem lại hiệu quả
như mong muốn.
Trước tình hình đó, nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc thống
nhất hoạt động xúc tiến đầu tư của thành phố đặc biệt là đẩy mạnh công tác thu hút
các nguồn vốn đầu tư quốc tế trong phát triển kinh tế, đồng thời đưa công tác xúc tiến
đầu tư trở thành một trong những công tác trọng tâm và mang tính chuyên nghiệp,
ngày 22/11/2007 UBND thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 4676/QĐ-UBND
thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà
Nội. Sau khi trung tâm được thành lập, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có
nhiều biến động các quốc gia đang cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút nhiều hơn vốn
đầu tư, ngày 28/03/2008 UBND thành phố Hà Nội ký chương trình 34/Ctr-UBND về
xúc tiến đầu tư của thành phố Hà Nội giai đoạn 2008-210 định hướng đến năm 2015.
Như vậy công tác xúc tiến đầu tư của thành phố đã tập trung về một mối có chương
trình xúc tiến mang tính dài hạn và chuyên nghiệp hơn.
Tuy nhiên năm 2008 là năm Hà Nội có sự thay đổi lớn tác động sâu rộng đến
quản lý và phát triển của Thủ đô ngày 29/05/2008 Quốc hội ban hành Nghị quyết số
15/2008/NQ-QH11 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội bao
gồm toàn bộ diện tích của Hà Tây và một số tỉnh có liên quan. Theo đó từ ngày
1/08/2008 Thủ đô Hà Nội đã mở rộng diện tích tự nhiên khoảng 3.400km2 với dân số
khoảng 6,3 triệu người. Trên cơ sở sự thay đổi đó, Hà Nội đã và đang tích cực nỗ lực
hơn nữa nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư kêu
gọi mọi nguồn vốn đầu tư phát triển từ mọi thành phần kinh tế.
Ngày 17/11/2008 UBND thành phố có quyết định số 2101/QĐ-UBND thành lập
trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội trên cơ sở Sở Kế hoạch và Đầu tư hợp nhất Trung
tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội (cũ) và Trung tâm
xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây (cũ) thành Trung tâm xúc tiến
đầu tư thành phố Hà Nội thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội.
Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội là đơn vị có chức năng tổ chức các hoạt động
xúc tiến đầu tư của thành phố Hà Nội nhằm huy động các nguồn vốn trong nước
cũng như nước ngoài thực hiện các dự án theo định hướng phát triển kinh tế-xã hội
của thủ đô.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước
của thành phố Hà Nội;
- Thực hiện chương trình tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu, cung cấp thông tin
về môi trường đầu tư, tiềm năng và cơ hội của thành phố Hà Nội;
- Xây dựng danh mục các dự án thu hút vốn đầu tư của thành phố phù hợp với
quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của thành phố trong từng thời kỳ.
Giúp giám đốc Sở thực hiện việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án
do UBND thành phố giao;
- Tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để vận động, hướng dẫn, hỗ trợ
các nhà đầu tư tìm hiểu chính sách, quy định pháp luật về đầu tư và lực chọn lĩnh
vực, địa điểm thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn thành phố;
- Phát triển hợp tác quốc tế với các tổ chức xúc tiến đầu tư trong nước và nước
ngoài nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư của thành phố;
- Phối hợp với các cơ quan có chức năng tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
giúp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực trong hoạt động có liên
quan đến chức năng và nhiệm vụ được giao;
- Trung tâm được cung cấp các dịch vụ có thu bao gồm: Cung cấp thông tin liên
quan đến dự án đầu tư, tổ chức đón tiếp, tư vấn pháp luật, lập hồ sơ dự án, hỗ trợ các
doanh nghiệp, phiên dịch và các dịch vụ khác theo yêu cầu của nhà đầu tư và các tổ
chức có liên quan;
- Quản lý cán bộ, viên chức, quản lý tài sản và chi tiêu các nguồn vốn được giao
theo đúng chế độ, chính sách quy định của nhà nước và thành phố;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi UBND thành phố giao và Giám đốc Sở Kế
hoạch và Đầu tư Hà Nội phân công.
Tuy nhiên do có sự thay đổi lớn về địa giới hành chính của thành phố Hà Nội,
hệ thống cơ chế chính sách của Hà Nội sau khi hợp nhất chưa được thể chế hóa nên
hiệu quả về đầu tư, chất lượng tăng trưởng kinh tế của thủ đô Hà Nội còn chưa được
cao. Bên cạnh đó do cuộc khùng hoảng kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng tiêu cực
tới Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng nên công tác xúc tiến đầu tư giai đoạn
này cũng gặp nhiều khó khăn.
1.2.2 Thực trạng của hoạt động xúc tiến đầu tư tại thành phố Hà Nội.
Tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, thủ đô Hà Nội cùng các địa phương
trong cả nước đã và đang triển khai một loạt những nội dung, nhiệm vụ và giải pháp
cần thiết, đồng bộ đảm bảo tuân thủ các cam kết và yêu cầu quốc gia về hội nhập
kinh tế quốc tế. Các kỳ nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội đều đưa ra
việc nâng cao hiệu quả đầu tư, phát triển một số dịch vụ chất lượng cao, trình độ cao
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đều nhấn mạnh quan điểm của thủ đô là: “Chủ
động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và thực hiện lộ trình theo nguyên
tắc cùng có lợi phát huy cao độ nội lực theo phương châm đa phương hóa, đa dạng
hóa nhằm tìm kiếm thị trường để tiêu thụ hàng hóa, thu hút nguồn công nghệ và kinh
nghiệm quản lý…làm cho kinh tế thủ đô phát triển toàn diện và bền vững có khả
năng hợp tác, cạnh tranh trên phạm vi cả nước và quốc tế”. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, các
quốc gia đang cạnh tranh gay gắt nhằm huy động vốn đầu tư nước ngoài, bí quyết
công nghệ và kinh nghiệm quản lý điều hành để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nguồn
vốn nước ngoài vào Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chưa ổn định do môi
trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng và kém cạnh tranh so với một số nước trong
khu vực (nhất là so với Trung Quốc). Trước thực trạng như vậy công tác xúc tiến đầu
tư càng giữ một vai trò hết sức quan trọng, là đòn bẩy và là chất xúc tác cho phát
triển đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nói chung và
của thủ đô Hà Nội nói riêng.
Tuyên truyền, vận động xúc tiến đầu tư là một trong những định hướng cụ thể
xúc tiến đầu tư của Hà Nội. Từ năm 2001 thành phố đã xây dựng và triển khai tích
cực Chương trình xúc tiến đầu tư, du lịch và thương mại. Thành phố đã giành 5 tỷ
ngân sách của thành phố cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Đồng thời thành phố cũng đã
nghiên cứu ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích xúc tiến đầu tư, đẩy
mạnh đầu tư của doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Công tác vận động, thu hút đầu
tư nhất là đầu tư nước ngoài được tiến hành đồng bộ hơn, chủ động hơn và mạng lại
hiệu quả cao hơn. Ngoài việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách: cái cách thủ
tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng tạo
điều kiện huy động nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế thì việc tuyên truyền,
cung cấp thông tin về môi trường đầu tư là hết sức thiết thực, cần đi liền với hoạt
động xúc tiến đầu tư của thành phố. Nhiều đơn vị đã chủ động nghiên cứu xây dựng
cơ chế, chính sách, tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo…góp phần đẩy mạnh thu hút
đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội thủ đô. Chương trình xúc tiến đầu tư
những năm qua đã thu được những kết quả bước đầu đóng góp một phần không nhỏ
trong hoạt động thu hút hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a) Công tác quy hoạch
Theo quyết định của Chính phủ từ ngày 01/08/2008 Hà Nội (mới) chính thức
mở rộng địa giới hành chính thêm tỉnh Hà Tây (cũ), một số huyện Lương Sơn của
tỉnh Hòa Bình. Diện tích Hà Nội mới của Hà Nội sau khi được mở rộng là 3400 km
2
,
dân số 6,3 triệu người. Với việc mở rộng địa giới hành chính cũng đồng nghĩa với
việc phải điều chỉnh lại quy hoạch thành phố sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Công tác quy hoạch phải đi trước một bước nhằm tạo điều kiện có địa điểm kêu gọi
đầu tư để công bố công khai. Trước tình hình đó trung tâm xúc tiến đầu tư đã khẩn