Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh bắc giang thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 116 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH LOAN

HOạT ĐộNG CÔNG CHứNG TRÊN ĐịA BàN TỉNH BắC GIANG THựC TRạNG Và GIảI PHáP

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH LOAN

HOạT ĐộNG CÔNG CHứNG TRÊN ĐịA BàN TỉNH BắC GIANG THựC TRạNG Và GIảI PHáP
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v Phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. TRN TH HIN

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình


nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Loan


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CHỨNG ..... 7
1.1.

Khái niệm, vai trò của công chứng trong quản lý hành chính
nhà nước .............................................................................................. 7

1.1.1.

Khái niệm công chứng ........................................................................ 7

1.1.2.


Vai trò của công chứng trong quản lý hành chính nhà nước ............ 22

1.2.

Các yếu tố bảo đảm hoạt động công chứng ................................... 22

1.2.1. Bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên .................. 22
1.2.2.

Bảo đảm về kinh tế, xã hội ................................................................ 24

1.2.3. Bảo đảm về pháp lý ............................................................................ 25
1.3.

Xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò điều chỉnh của
pháp luật............................................................................................ 27

1.3.1. Xã hội hóa hoạt động công chứng...................................................... 27
1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò của
pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa .... 32
1.3.3. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện
xã hội hóa ........................................................................................... 39
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG VÀ
HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG Ở TỈNH BẮC GIANG .............. 44
2.1.

Thực trạng pháp luật về công chứng.............................................. 44

2.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên, tổ chức hành nghề

công chứng ........................................................................................ 45


2.1.2.

Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng ......... 52

2.1.3.

Quy định của pháp luật về công tác quản lý nhà nước về công chứng ....... 55

2.1.4. Đánh giá chung thực trạng pháp luật về công chứng ......................... 60
2.2.

Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang ................... 66

2.2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Bắc Giang có tác động đến hoạt
động công chứng ................................................................................ 66
2.2.2.

Thực trạng về công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng ........ 69

2.2.3. Thực trạng, kết quả thực hiện các thủ tục công chứng ...................... 73
2.2.4. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về công chứng .................... 74
2.2.5. Đánh giá chung về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang ............ 81
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG
CHỨNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG
CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG ........................... 90
3.1.


Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng ............................. 90

3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang........................................................................... 92

3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng ........... 92
3.2.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền .................. 93
3.2.3. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật
trong lĩnh vực công chứng và văn bản liên quan đến công chứng
trên địa bàn tỉnh .................................................................................. 94
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ công chứng viên .......................................................................... 95
3.2.5. Củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác
quản lý nhà nước về công chứng........................................................ 96
3.2.6. Thành lập Hiệp hội công chứng, phát huy vai trò tự quản của tổ
chức xã hội nghề nghiệp về công chứng ............................................ 97


3.2.7.

Xây dựng cơ sở dữ liệu chung, chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức hành
nghề công chứng với các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất........... 97

3.2.8. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
hoạt động công chứng ........................................................................ 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Diện tích, dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế các huyện,
thành phố trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

69

Bảng 2.2: Số lượng tổ chức hành nghề công chứng và số công
chứng viên
Bảng 2.3: Số hợp đồng, giao dịch đã công chứng

72
74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch dân sự ngày một
gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp, chính vì vậy đòi hỏi Nhà nước
phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý cũng như bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của nhà nước, tổ chức và của công dân khi tham gia giao dịch. Một
trong những biện pháp quản lý đối với các giao dịch dân sự, đó là hoạt động
công chứng. Công chứng đóng vai trò là thiết chế quản lý các hợp đồng, giao
dịch, chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của những văn bản, có giá trị thi

hành không chỉ đối với các bên giao kết, mà còn đối với các bên có liên quan
khác, qua đó, Nhà nước có thể kiểm tra, giám sát, điều tiết một cách khách
quan, công minh và hiệu quả các quan hệ xã hội thông qua những hợp đồng,
giao dịch này. Công chứng có thể coi là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm
bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí
cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp dân sự.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động công chứng, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về công
chứng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ:
Hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm vi của
công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mô
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ
chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng
bước xã hội hóa công việc này [3].
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhiều văn bản pháp luật về
công chứng được ban hành, trong đó phải kể đến Luật Công chứng được
1


Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, tiếp đến là Luật Công chứng
được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/6/2014 có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2015. Kể từ khi Luật Công chứng được ban hành, hoạt động công
chứng trong cả nước nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói
riêng đã có những chuyển biến mạnh mẽ, số lượng công chứng viên và tổ
chức hành nghề công chứng tăng lên rõ rệt, ngoài các Phòng công chứng do
Nhà nước thành lập còn có các Văn phòng công chứng do công chứng viên
thành lập. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt
động công chứng, việc tăng về số lượng công chứng viên và tổ chức hành

nghề công chứng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề, đó là sự phát triển “nóng”
của các tổ chức hành nghề công chứng, các Văn phòng công chứng phát triển
quá nhanh và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm, nơi có điều kiện kinh tế - xã
hội phát triển dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh; vấn đề kiểm soát hoạt
động của công chứng viên và chất lượng các văn bản công chứng v.v… Chính
vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động công chứng và đưa ra các giải
pháp nâng cao toàn diện chất lượng hoạt động công chứng là một yêu cầu cấp
thiết, trước mắt cũng như lâu dài.
Từ thực tiễn hoạt động công chứng ở địa phương, trên cơ sở nghiên cứu
lý luận về nhà nước và pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động công
chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp” làm luận
văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở địa phương nói riêng
và trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về công chứng nói chung đã được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Rất nhiều những tình

2


huống pháp lý cụ thể về công chứng được đề cập trong nhiều bài viết ở các
tạp chí chuyên ngành luật như tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, nhiều công trình
nghiên cứu, đề tài nghiên cứu , các bài viết đăng trên các tạp chí bàn luận về
vấn đề này, trong đó có thể kể đến các công trình khoa ho ̣c:
- Luận án tiến sỹ: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác
định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở nước ta hiện nay", của tác giả Đặng Văn Khanh, năm 2000;

- Luận văn thạc sỹ: "Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước đối
với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" của tác
giả Nguyễn Minh Hợi, năm 2009;
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt
động của công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay"
của tác giả Nguyễn Văn Cường, năm 2009;
- Luận văn: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động
công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Hữu Hùng,
năm 2010;
- Luận văn thạc sỹ: "Quá trình phát triển và phương hướng hoàn
thiện pháp luật công chứng ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Nhật
Quang, năm 2011;
- Luận văn: "Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay" của tác giả Nguyễn Phi Hà, năm 2011;
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và giải quyết vấn đề công
chứng ở nhiều góc độ khác nhau, có nhiều nội dung liên quan đến hoạt động
công chứng, song những nghiên cứu đó mới chỉ phân tích, đánh giá vấn đề
công chứng ở một số phương diện nhất định, hoặc ở một góc nhìn khác, chưa
có công trình nào nghiên cứu về công chứng một cách đầy đủ, đặc biệt là đối

3


với một địa bàn cụ thể như Bắc Giang. Mặc dù vậy, các công trình trên vẫn là
nguồn tài liệu quý giá, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu đề tài
“Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải
pháp” của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luâ ̣n văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luâ ̣n , thực tra ̣ng hoạt động về

công chứng ở tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng , giải
pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động công chứng , đáp ứng yêu cầ u nhiê ̣m vu ̣
trong giai đoạn mới của Bắc Giang nói riêng và của nước ta nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang – Thực trạng và giải pháp” nhằ m giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động công chứng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
hiê ̣n nay;
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực , hiê ̣u quả
quản lý hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản
lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ khi
Luật Công chứng có hiệu lực (ngày 01/01/2015) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luâ ̣n văn đươ ̣c nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghiã Mác

-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điể m của Đảng về nhà nước và pháp
luật, đồng thời dựa trên chủ trương của Nhà nước ta về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luâ ̣n văn đươ ̣c nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luâ ̣n của chủ nghiã
duy vâ ̣t biê ̣n chứng và các


phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như

phương pháp so sánh , thống kê, phân tić h, tổ ng hơ ̣p, điều tra xã hô ̣i ho ̣c ... để
làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa ho ̣c của luâ ̣n văn
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về lý
luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang, luận văn có một
số đóng góp khoa học sau đây:
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động công chứng
trong điều kiện chúng ta đang đẩy mạnh xã hội hóa công chứng , thực hiện
mục tiêu cải cách tư pháp , cải cách hành chính , xây dựng nhà nước pháp
quyề n xã hội chủ nghĩa.
- Phân tić h thực tra ̣ng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang . Rút ra
những bài ho ̣c kinh nghiê ̣m để phá t huy những mă ̣t ma ̣nh , hạn chế những tồn
tại nhằm nâng cao hiệu lực , hiê ̣u quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực này.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc
Giang trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ một cách có hệ thống, khoa học các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động công
chứng, sự cần thiết và các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động công chứng.
- Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn có thể làm tài liê ̣u tham khảo trong
nghiên cứu và giảng da ̣y ta ̣i các cơ sở đào ta ̣o cử nhân luâ ̣t

, cử nhân hành

chính, các trường, trung tâm đào ta ̣o, bồ i dưỡng cán bô ̣, công chức...
- Những kế t luâ ̣n và những giải pháp rút ra từ luâ ̣n văn có thể làm tài


5


liê ̣u tham khảo trong hoa ̣t đô ̣ng thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về
công chứng ở tỉnh Bắc Giang hiê ̣n nay.
- Luâ ̣n văn có thể sử du ̣ng làm tài liê ̣u tham k hảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan đế n công chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 07 tiết.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Khái niệm, vai trò của công chứng trong quản lý hành chính
nhà nước
1.1.1. Khái niệm công chứng
Để tìm hiểu bản chất, vai trò, ý nghĩa của một vấn đề, trước tiên cần
xác định được khái niệm của vấn đề đó. Công chứng cũng vậy, việc xác định
rõ khái niệm và bản chất công chứng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
quan trọng, quyết định đến sự hình thành thể chế cho cơ chế hoạt động, mô
hình tổ chức và căn cứ vào đó khẳng định được phạm vi, nội dung công
chứng; đảm bảo phát huy vai trò công chứng và hiệu quả công chứng trong
đời sống xã hội.
Tìm hiểu về nguồn gốc công chứng cho thấy, công chứng là nghề sớm
xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép,
soạn thảo văn bản và làm chứng. Công chứng viên, theo tiếng Latinh là

“Notarius”. “Notarius” trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục
các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người
ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa
án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy
chuyển nhượng sở hữu.
Hiện nay, ở mỗi nước khác nhau, pháp luật cũng đưa ra những khái
niệm về công chứng khác nhau:
Tại Cộng hòa Pháp, các nhà làm luật không trực tiếp đưa ra khái niệm
về công chứng, thay vào đó, họ xây dựng khái niệm công chứng viên, chủ thể
thực hiện công chứng. Điều 1, Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về
Điều lệ Công chứng của nước Cộng hòa Pháp quy định:

7


Công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập các
hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đem lại
một tính xác thực, giống như các văn bản của các cơ quan công
quyền khác và để bảo đảm ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp
các bản sao văn bản công chứng [44].
Ở khái niệm này, quan niệm về công chứng được ghi nhận thông qua
nhiệm vụ của công chứng viên nhằm đáp ứng yêu cầu tối thiểu đối với một
văn bản công chứng (như ngày tháng tạo lập văn bản công chứng đó, như lưu
giữ và cấp bản sao văn bản công chứng). Qua đó, khái niệm khẳng định tính
công quyền của công chứng thông qua việc quy định chủ thể thực hiện là cá
nhân công chứng viên, đồng thời là viên chức công và quy định giá trị pháp lý
của văn bản công chứng tương đương với những văn bản do cơ quan công
quyền ban hành; mục đích của hoạt động công chứng là tính xác thực của các
hợp đồng và văn bản được công chứng.
Khái niệm công chứng viên của Cộng hòa Bê Nanh giống như khái

niệm công chứng viên của Cộng hòa Pháp, tuy nhiên có quy định bổ sung về
phạm vi điều chỉnh về không gian của khái niệm. Điều 1, Điều lệ Công chứng
nước Cộng hòa Bê Nanh được ban hành kèm theo Lệnh số 48/PR ngày
29/8/1968 nêu rõ: Trong phạm vi thẩm quyền của Tòa thượng thẩm
COTONU, công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập những
văn bản và hợp đồng mà qua đó các bên đương sự phải hoặc muốn tạo cho
chúng có tính xác thực như các văn bản của chính quyền và có trách nhiệm
bảo đảm đúng ngày tháng của các văn bản hợp đồng, lưu giữ và cấp cho
đương sự bản sao của các văn bản, hợp đồng đó [21].
Tương tự, khái niệm công chứng viên được ghi nhận trong pháp luật
của Cộng hòa Ba Lan. Khoản 1, Điều 1, Luật ngày 14/2/1991 của nước
Cộng hòa Ba Lan về công chứng cho rằng: "Công chứng viên được bổ

8


nhiệm để lập những văn bản mà trong đó các bên phải hoặc muốn đem lại
một tính đích thực" [20].
Ở Việt Nam, đến nay, về mặt lý luận, khái niệm công chứng chưa được
làm rõ, quan niệm về công chứng mới chỉ được thể hiện thông qua các văn
bản pháp lý về công chứng.
Thuật ngữ "công chứng" xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam trong Nghị
định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Cho đến nay, ở nước
ta khái niệm công chứng chưa được đưa ra dưới hình thức một nghiên cứu
khoa học pháp lý chính thức mà chỉ được nêu ra dưới hình thức các văn bản
quy phạm pháp luật. Ví dụ khái niệm công chứng lần đầu tiên được nêu tại
Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công
chứng, theo đó:
Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước,

nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn
bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện
đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng
hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ
chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc
giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa [4].
Tại Điều 1 Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng quy định:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các
hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ

9


quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức),
góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa [39]..
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ.
Tại Điều 2 Luật Công chứng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua ngày 29/11/2006 xác định:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là
hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng [46].
Qua phân tích các quan niệm về công chứng đã được ghi nhận trong hệ

thống pháp luật ở Việt Nam, có thể thấy, hầu hết các khái niệm đều chứa
đựng những yếu tố: Chủ thể thực hiện công chứng, mục đích công chứng, giá
trị pháp lý của văn bản công chứng..., cụ thể:
Về chủ thể công chứng, có thể là cá nhân công chứng viên hoặc tổ
chức (cơ quan có thẩm quyền công chứng theo quy định của pháp luật). Cơ
quan có thẩm quyền công chứng có thể là đơn vị thực hiện công chứng
chuyên nghiệp (ví dụ, phòng công chứng nhà nước, văn phòng công chứng)
hay cũng có thể là đơn vị thực hiện công chứng (sau này còn được gọi dưới
cái tên chứng thực) một cách kiêm nhiệm như Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền. Tại Điều 24, Pháp lệnh Lãnh sự ngày 24/11/1990 của Hội đồng Nhà
nước quy định nhiệm vụ "thực hiện công chứng” [38] của cơ quan lãnh sự
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước ngoài và các Điều 19, Nghị
định số 45/HĐBT; Điều 16, Nghị định số 31/CP và Điều 25, Nghị định số
75/2000/NĐ-CP cũng quy định chức trách giải quyết yêu cầu công chứng cho

10


công dân Việt Nam tại nước ngoài của hệ thống cơ quan lãnh sự. Như vậy, cơ
quan lãnh sự, mặc dù không phải là một cơ quan công chứng chuyên trách
nhưng hoạt động của họ liên quan đến lĩnh vực bổ trợ tư pháp này vẫn được
gọi là "công chứng". Từ cách quy định chủ thể công chứng qua từng thời kỳ,
cho thấy chế định công chứng Việt Nam luôn ghi nhận yếu tố công quyền
trong hoạt động công chứng.
Về mục đích của công chứng, giống như các quốc gia khác, mục đích
của công chứng Việt Nam chính là tính "xác thực" của hợp đồng, giao dịch
hay sự kiện pháp lý mà nó đứng ra làm chứng. Tuy nhiên, cách quan niệm
như thế nào là "xác thực" trong hoạt động công chứng hiện vẫn chưa được
thống nhất và việc đồng nhất tính xác thực của hợp đồng, giao dịch với tính
xác thực của giấy tờ, tài liệu chưa được phân định rõ ràng theo mục đích thật

sự mà công chứng hướng đến. Bên cạnh đó, tại Luật Công chứng năm 2006,
lần đầu tiên ghi nhận mục đích của công chứng là việc chứng nhận tính "hợp
pháp". Có thể khẳng định, trong thời điểm hiện tại, xác nhận tính hợp pháp
của giao dịch, hợp đồng chính là một trong những mục đích hàng đầu của
công chứng nước ta. Sở dĩ có quy định trên là do đứng về mặt ngữ nghĩa, xác
thực và hợp pháp là hai phạm trù khác hẳn nhau. Trên cả bình diện lý luận và
thực tế, một sự việc "xác thực" không có nghĩa là sự việc đó hợp pháp. Quy
định này trong Luật Công chứng năm 2006 nhằm khẳng định dứt khoát, bên
cạnh tính "xác thực" thì tính "hợp pháp" của hợp đồng, giao dịch là mục đích
mà công chứng cần đạt được.
Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng, các văn bản công chứng
có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không
có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công
chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách
hàng, hạn chế mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra. Về phương diện nhà nước

11


cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý các giao dịch; từ
đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh
nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt
hơn các hoạt động giao dịch.
Như vậy, qua các giai đoạn khác nhau, khái niệm công chứng có một số
thay đổi nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm chính thức của Nhà
nước về bản chất công chứng, phản ánh kỹ thuật lập pháp của nước ta qua
từng thời kỳ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
Ngoài những khái niệm được ghi nhận trong hệ thống pháp luật như
nêu ở trên, các nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này cũng đưa ra nhiều
quan niệm công chứng khác nhau. Trong Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài

"Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung
hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện
nay" [40], tác giả Đặng Văn Khanh đã nêu ra khái niệm công chứng như sau:
"Công chứng là việc công chứng viên, người có thẩm quyền công chứng tạo
lập ra những văn bản, hợp đồng mà đương sự phải hoặc muốn tạo cho chúng
có giá trị pháp lý như những văn bản của các cơ quan nhà nước thông qua
việc lập, chứng nhận và lưu giữ các văn bản, hợp đồng đó" [40, tr.33]; trong
khi đó theo tác giả Dương Khánh thì:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực của các hoạt động giao dịch và các sự kiện pháp lý khác theo
quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành đối với cá nhân, tổ
chức có liên quan, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là
vô hiệu [41, tr.169].

12


Về cơ bản, những khái niệm trên phần nào đã thể hiện, phản ánh rõ hơn
bản chất của công chứng, đặc biệt trong một số vấn đề cụ thể như chủ thể,
phạm vi công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng... và bước đầu
cung cấp cho chúng ta một cách nhìn, cách hiểu khái quát nhất về công
chứng. Tuy nhiên, ở chừng mực nào đó, những khái niệm này vẫn chưa phản
ánh hết phạm vi, bản chất cũng như đặc trưng của công chứng.
Luật Công chứng năm 2014 là văn bản pháp luật mới nhất đã đưa ra
một khái niệm công chứng trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm trong khái niệm
công chứng của các văn bản pháp luật trước đó và quan điểm của một số luật
gia nghiên cứu về lĩnh vực này, tại Điều 2 quy định:

Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng,
giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà
theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu công chứng [47].
Từ sự phân tích về những quan niệm khác nhau về công chứng và khái
niệm mới nhất về công chứng được nêu tại Luật Công chứng năm 2014, cho
thấy công chứng có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện công chứng là công chứng viên.
Tìm hiểu lịch sử phát triển công chứng ở nước ta kể từ khi Nghị định số
143/HĐBT ngày 22/11/1981 đến nay, nhận thức về chủ thể thực hiện công
chứng thể hiện qua các văn bản pháp luật có sự thay đổi rất lớn, từ việc không
quy định chủ thể thực hiện sau đó quan niệm chủ thể thực hiện công chứng là
tổ chức (tổ chức công chứng của nhà nước và UBND cấp huyện, cấp xã) và

13


hiện nay, chủ thể thực hiện công chứng được xác định là cá nhân công chứng
viên. Sự thay đổi này xuất phát từ mục tiêu chuyên môn hoá, chuyên nghiệp
hoá hoạt động công chứng như một loại hình nghề nghiệp, công chứng viên là
người được nhà nước cho phép hoạt động hành nghề công chứng đồng thời
chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình.
Thứ hai, mục đích của công chứng là chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của các hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Tính xác thực trong hoạt động công chứng không chỉ đơn thuần là mô

tả những gì đã diễn ra trên thực tế, mà nó còn bao gồm cả tính hợp pháp, mặc
dù được biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Nếu như đối với tính xác
thực ở cấp độ đơn giản thì tính hợp pháp thể hiện ở chỗ người yêu cầu công
chứng phải có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định và họ giao kết
hợp đồng, giao dịch trong trạng thái tinh thần minh mẫn, không chịu bất kỳ
một sự ép buộc nào và có đủ khả năng nhận thức về hành vi giao dịch của
mình. Ở cấp độ cao hơn, tính hợp pháp thể hiện ở chỗ nội dung giao kết phải
được xây dựng dựa trên những giấy tờ, tài liệu đáng tin cậy, nội dung thoả
thuận của các bên phải phù hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với
đạo đức xã hội.
Thứ ba, công chứng có chức năng bổ trợ tư pháp
Chức năng này thể hiện ở chỗ, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ
và giá trị thực hiện. Văn bản công chứng do công chứng viên lập theo trình tự,
thể thức bắt buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng
cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao
dịch. Văn bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các
bên tham gia giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa
các bên, là căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng
các cam kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.
14


Bên cạnh đó, công chứng là hoạt động gắn liền với bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch,
đồng thời bổ trợ cho các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp
nên được xếp vào nhóm chế định bổ trợ tư pháp. Theo quy định hiện hành,
việc sắp xếp chế định công chứng vào các chế định bổ trợ tư pháp là theo
Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020; Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Tư pháp. Thông qua việc tạo điều kiện các hợp đồng, giao dịch diễn ra
thuận lợi, an toàn và phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, công
chứng góp phần hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước một cách thường xuyên,
liên tục, bảo đảm trật tự, kỷ cương và tuân thủ pháp luật trên các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động công chứng.
Thứ tư, hoạt động công chứng vừa mang tính công quyền, vừa mang
tính dịch vụ.
Tính công quyền thể hiện ở chỗ, công chứng viên thay mặt Nhà nước
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, đem lại cho
văn bản công chứng giá trị pháp lý đặc biệt, đó là: Giá trị thi hành và giá trị
chứng cứ. Văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao hơn hẳn những loại
chứng cứ khác, bởi nó mang dấu ấn của quyền lực công và được đảm bảo
bằng trách nhiệm đặc biệt của công chứng viên - người được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện chức năng công chứng.
Tính dịch vụ thể hiện ở chỗ, bằng hành vi công chứng, công chứng
viên đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa
tranh chấp có thể xảy ra giữa các bên. Điều đó cũng có nghĩa là công chứng
viên đã cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức khi
tham gia giao dịch.

15


Thứ năm, công chứng viên được hoạt động hành nghề công chứng
trong phạm vi pháp luật quy định
Nhìn một cách giản lược, hiện nay pháp luật công chứng xác định phạm
vi công chứng bằng hai phương pháp. Thứ nhất là liệt kê những hợp đồng, giao
dịch phải được công chứng, trong đó xác định cụ thể những trường hợp chỉ
được công chứng và trường hợp nào có thể lựa chọn giữa hình thức công chứng
và hình thức chứng thực. Thông thường, hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy

định phải công chứng được coi là những hợp đồng, giao dịch quan trọng, có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến an sinh xã hội. Xét dưới một giác độ nào đó, phương
pháp này mang nặng tính chất quản lý hành chính Nhà nước. Thứ hai, dựa trên
yêu cầu tự nguyện của đương sự. Khác với phương pháp thứ nhất, ở phương
pháp này, các hợp đồng, giao dịch không thuộc diện bắt buộc phải công chứng
mà người yêu cầu công chứng, với ý thức chủ động sử dụng pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, tự nguyện đề nghị công chứng
hợp đồng, giao dịch mà họ giao kết. Phạm vi công chứng xác định theo biện
pháp này tiêu biểu cho vai trò bổ trợ tư pháp của hoạt động công chứng với
nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp chứng cứ phục vụ công tác xét xử của các cơ
quan tài phán mà trước hết và chủ yếu là của Tòa án.
Ngoài ra, với một số đối tượng giao dịch đặc biệt như quyền sử dụng
đất, nhà ở… công chứng viên chỉ được thực hiện công chứng các hợp đồng,
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi đăng ký hành nghề công chứng.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu cho thấy công chứng có những chức năng
cơ bản sau đây:
Một là, chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản
Hay nói cụ thể hơn là hợp pháp hóa sự kiện, thỏa thuận của các bên thể
hiện trong hợp đồng, văn bản. Do hợp đồng, văn bản chỉ là phương tiện

16


chuyển tải các sự kiện, thỏa thuận nên chính những sự kiện, thỏa thuận mới là
cái đích mà hành vi hợp pháp hóa của công chứng viên hướng tới. Khi xảy ra
tranh chấp, để xác định chính xác ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp
đồng hay tạo lập văn bản, cơ quan tài phán phải trải qua quá trình xác minh,
điều tra với một trình tự, thủ tục không đơn giản nhằm làm sáng tỏ sự thật.
Đặc biệt, công việc này tạo ra áp lực rất lớn do số lượng tranh chấp ngày càng

nhiều, trong khi tính chất cũng ngày càng phức tạp. Nhằm ngăn ngừa vi phạm
pháp luật hay tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai, chế định công chứng
quy định chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản nhằm tạo ra cho chúng
một giá trị pháp lý tương đương với quyết định do cơ quan công quyền ban
hành. Điều đó có nghĩa những văn bản, hợp đồng công chứng cũng sẽ được
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước, giảm
thiểu tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết. Văn bản công chứng không
chỉ đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà
nó còn có giá trị thực hiện đối với bên thứ ba có liên quan. Điều này có nghĩa
giá trị pháp lý của văn bản, hợp đồng công chứng cao hơn hẳn văn bản, hợp
đồng cùng loại nhưng không được công chứng. Nguồn gốc giá trị pháp lý của
văn bản công chứng xuất phát từ quyền năng mà công chứng viên được pháp
luật giao phó cũng như tính chất công vụ của hoạt động công chứng.
Hai là, chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ
Có thể nói, đây là một trong những chức năng cơ bản nhất của công
chứng nói chung. Hiện nay hệ thống pháp luật của nước ta đang xếp công
chứng là chế định bổ trợ tư pháp, tức là công chứng ra đời, tồn tại nhằm phục
vụ cho công tác tài phán mà trước hết và chủ yếu là của cơ quan Tòa án. Ngay
tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác
công chứng, chức năng này đã được khẳng định qua việc quy định mục đích
của công chứng là "ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết

17


các tranh chấp được thuận lợi" [4]. Đây là một trong những nội dung thể hiện
trực tiếp nhất, cụ thể nhất chức năng tạo lập nguồn chứng cứ của công chứng.
Đặc biệt, chức năng tạo lập nguồn chứng cứ còn được thể hiện thông qua quy
định văn bản công chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên, có giá
trị chứng cứ. Điều 1, Nghị định số 45/HĐBT khẳng định: "Các hợp đồng và

giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ" [39]; trong khi "các hợp
đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa
án nhân dân tuyên bố là vô hiệu" [15] được ghi nhận tại Điều 1, Nghị định số
31/CP. Đến khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ra đời, giá trị chứng cứ của văn bản
công chứng được coi trọng hơn khi lần đầu tiên giá trị pháp lý trong đó có giá trị
chứng cứ của văn bản công chứng được quy định riêng tại một điều luật, cụ thể là
"văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp
được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị
định này hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu" [15, Điều 14, Khoản 2] và sau đây
là nội dung Luật Công chứng 2014: "Văn bản công chứng có giá trị chứng
cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng
minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu" [47, Điều 5, Khoản 2].
Ba là, chức năng tư vấn cho người yêu cầu công chứng và các bên
tham gia giao dịch
Chức năng này được thể hiện ở một số điều luật xác định công chứng
viên có nhiệm vụ hướng dẫn trình tự, thủ tục công chứng, giải thích quyền và
nghĩa vụ cho các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch.... Mục 2, Phần I,
Thông tư số 858/QLTPK nêu rõ:
Để tránh trường hợp do không hiểu pháp luật, đương sự tự
gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, khi thực hiện
các việc làm công chứng, công chứng viên phải giải thích cho

18


×