Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.67 KB, 27 trang )

CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP, ĐÀO TẠO VIỆC LÀM CHO DÂN CƯ
CÁC VÙNG NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẬP TRUNG VÀ ĐÔ THỊ Ở TỈNH BẮC NINH:
TÌNH HÌNH NHỮNG NĂM QUA VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT CÁC NĂM TỚI
Nguyễn Văn Nhường
UVTV TỈNH UỶ - BÍ THƯ THÀNH UỶ BẮC NINH
1. Tình hình thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp tập
trung ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2001 - 2005
Bắc Ninh hiện nay đang là một tỉnh phát triển nhiều khu công nghiệp
và khu đô thị, với diện tích trên 800km
2
, dân số hơn 1 triệu người. Bắc Ninh
có lợi thế về vị trí địa lý, nằm trong vùng Châu thổ Sông Hồng; cửa ngõ phía
Bắc của thủ đô Hà Nội; nằm trong tam giác phát triển kinh tế trọng điểm Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Bắc Ninh rất thuận lợi về giao thông đường
thuỷ, đường bộ và đường hàng không. Không chỉ là mảnh đất "địa linh nhân
kiệt", tỉnh Bắc Ninh còn là nơi hội tụ của nhiều làng nghề truyền thống nổi
tiếng trong và ngoài nước như: tơ tằm Nội Duệ, đồ gỗ mỹ nghệ Phù Khê -
Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đúc đồng Đại Bái. Cùng với việc phát triển các
KCN, khu đô thị tại Bắc Ninh thì diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp lại là
điều kiện tất yếu khách quan (có những địa phương sẽ phải thu hồi hết diện
tích sản xuất nông nghiệp). Do vậy, vấn đề tạo việc làm, chuyển đổi nghề
nghiệp cho dân cư các địa phương đang là vấn đề có tính chất thời sự và có
tầm quan trọng cấp bách cần được nghiên cứu và có biện pháp giải quyết.
Quán triệt chủ trương của Đảng về CNH, vào điều kiện Bắc Ninh. Tỉnh
uỷ Bắc Ninh ra NQ số 02-NQ-TU ngày 4/5/2001 về xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Tháng 12/2000 tỉnh cho khởi công xây dựng khu công nghiệp Tiên
Sơn. Đến cuối năm 2005 Bắc Ninh có 3 khu công nghiệp tập trung đã được
Thủ tướng Chính phủ thành lập. 03 KCN nữa (Yên Phong, Quế Võ II và mở
rộng KCN Quế Võ) đang được quy hoạch, xúc tiến các thủ tục thành lập; dự


1 1
kiến những năm tới sẽ phát triển thêm 2-3 khu, nâng tổng số các KCN tập
trung đến 2010 khoảng 7-9 khu, với diện tích quy hoạch hơn 3.000ha. Đồng
thời, 23 cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề cũng được quy
hoạch và xây dựng, diện tích quy hoạch các cụm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp làng nghề khoảng 500ha.
Đến hết tháng 11/2005, các KCN Bắc Ninh đã có 157 Dự án được cấp
giấy phép đầu tư (có hiệu lực), với tổng vốn đăng ký 583,02 triệu USD, trong
đó có 123 dự án vốn đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 6582,61 tỷ đồng
(tương đương 414,26 triệu USD) và 34 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số
vốn 168,76 triệu USD, diện tích đất cho thuê 450ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân
chung các KCN đạt 55% (450/817ha) đất nông nghiệp cho thuê.
Riêng 11 tháng năm 2005, trong các KCN tập trung đã thu hút hơn 44
dự án cấp phép mới và 35 dự án điều chỉnh tăng vốn, với tổng số vốn đạt
236,9 triệu USD bằng 68% (236,9 triệu USD/346,03 triệu USD) của tất cả các
năm trước cộng lại (2001-2004), chiếm 40,62% (236,9 triệu USD/583,02 triệu
USD) tổng số vốn đầu tư đã thu hút đến nay. Các KCN đã xúc tiến đầu tư đón
nhận một số dự án lớn, công nghệ cao có tác động dẫn dắt thu hút các ngành
công nghiệp phụ trợ, vệ tinh phát triển như: Dự án Canon, dự án Mitac,
Sentec vào KCN Quế Võ kéo theo một loạt các dự án đầu tư nước ngoài vệ
tinh cùng vào. KCN Tiên Sơn đã kêu gọi được dự án lớn về chế biến nông sản
công nghệ cao có tác động mạnh đến kinh tế địa phương như dự án Công ty
Bia Việt Hà (đã khởi công ngày 2/12/2005), dự án nhà máy chế biến sữa của
Công ty cổ phần sữa Việt Nam khởi công cuối tháng 12/2005 và hiện nay
đang đón nhạn nhiều nhà đầu tư lớn của Nhật Bản đến tìm hiểu như: Tập doàn
Sumitomo, Yamaha, Mitsustar… KCN Yên Phong động thổ tháng 12/2005
cùng với 2 dự án lớn (Dự án nhà máy rượu liên doanh giữa Thái Lan với
Công ty Rượu Hà Nội 40 triệu USD; Dự án nhà máy gạch ốp lát của Công ty
gạch ốp lát Thăng Long 15 triệu USD). Các KCN Bắc Ninh ngày càng hội tụ
2 2

thêm nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế và quốc tịch khác
nhau.
Đến nay, đã có 55 dự án đi vào hoạt động, phát huy được khoảng 45%
năng lực thiết kế, (bằng 1/3 số dự án được cấp phép), có sản phẩm đưa ra thị
trường; tuyển dụng gần 8.500 lao động trong đó 52,3% là lao động địa
phương; giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 ước đạt 1.800 tỷ đồng, gấp
2,74 lần so với năm 2004.
Các KCN được quy hoạch, đầu tư phát triển cùng mạng lưới hạ tầng kỹ
thuật của tỉnh đã tạo cho Bắc Ninh một diện mạo mới về công nghiệp - đô thị;
đồng thời tạo ra sự phân bố 2 vùng kinh tế rõ rệt. Các huyện phía Bắc phát
triển công nghiệp, các huyện phía Nam phát triển nông nghiệp. Việc hoạch
định chính sách để phát triển cân đối, phát huy lợi thế cả 2 vùng đang là vấn
đề lớn đặt ra đối với các ngành, các cấp tỉnh Bắc Ninh.
Các KCN và cụm công nghiệp, làng nghề đã góp phần đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Năm 2001, cơ cấu kinh tế của
tỉnh là công nghiệp - xây dựng cơ bản 37,6%, nông nghiệp 34,2%, dịch vụ
28% thì năm 2005 cơ cấu kinh tế là: CN-XDCB 47,2%, dịch vụ 27,8%, nông
nghiệp 25,0%; mức tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh, bình quân trong 5
năm qua là 13,9%.
Các KCN đã và đang ngày trở thành nhân tố tích cực, là một trong
những giải pháp hàng đầu và động lực thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá tỉnh Bắc Ninh.
Từ năm 2001 đến hết tháng 9 năm 2005, toàn tỉnh và thực hiện giao
đất, cho thuê vào mục đích chuyên dùng và đất ở được 3.154,39ha, đạt
84,11% so với KHSDĐ 5 năm được duyệt, trong đó đất chuyên dùng thực
hiện được 2.657,3ha đạt 84,23%, đất ở thực hiện được 497,09 ha, đạt 83,48%
kế hoạch.
Kết quả được phân theo các năm như sau:
Năm 2001 226,68ha, đạt 77,38% kế hoạch năm
3 3

Năm 2002 264,66ha, đạt 56,77% kế hoạch năm
Năm 2003 755,00ha, đạt 75,22% kế hoạch năm
Năm 2004 1.388,92ha, đạt 131,5% kế hoạch năm
Đến 30/9/2005 519,04ha, đạt 55,7% kế hoạch năm
Trong đó, đã giao đất cho các tổ chức kinh tế đầu tư kinh doanh, xây
dựng kết cấu hạ tầng để phát triển công nghiệp, cho các tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân thuê đất được 1.257,94ha, đạt 93,3% so với kế hoạch, đáp ứng nhu
cầu sử dụng đất cho phát triển công nghiệp của tỉnh như: Khu công nghiệp
Tiên Sơn đã thu hồi được 291ha cho 62 tổ chức thuê đất; Khu Công nghiệp
Quế Võ và khu liền kề đã thu hồi được 314,39ha, giải phóng mặt bằng được
211,73ha, có 35 tổ chức được cấp phép đầu tư. Khu Công nghiệp Đại Đồng -
Hoàn Sơn đã cho 25 tổ chức thuê đất với diện tích 149,09ha; khu công nghiệp
công nghệ thông tin 54,53ha. Đối với các cụm công nghiệp làng nghề và đa
nghề theo quy hoạch được duyệt là 39 khu với diện tích 715ha, đến nay
UBND tỉnh đã quyết định thu hồi đất cho 17 khu với diện tích 361,28ha. Cho
196 tổ chức và cho 503 hộ thuê đất để sản xuất kinh doanh. Trong đó:
Khu công nghiệp làng nghề Châu Khê 22,78ha, khu công nghiệp Mả
Ông 4,8ha, khu công nghiệp Lỗ Xung 9,7ha; KCN làng nghề Đồng Quang
12,6ha; KCN làng nghề Đồng Quang đạt chuẩn môi trường 29,6 ha; khu công
nghiệp Tân Hồng - Đồng Quang 12,00ha; khu công nghiệp Đồng Nguyên -
Đồng Quang 49,66ha; khu Công nghiệp làng nghề công nghệ cao Tam Sơn
13,3ha, khu công nghiệp Phú Lâm 21,73ha; khu công nghiệp Phong Khê
12,6ha, khu công nghiệp Võ Cường 6,8ha; khu công nghiệp Khắc Niệm
56,28ha; khu công nghiệp Phương Liễu - Nhân Hoà 13,63ha; khu công
nghiệp Xuân Lâm - Thuận Thành 23,17ha; khu công nghiệp Chờ - Yên Phong
57,5ha; khu công nghiệp làng nghề Quảng Bố 9,6ha; khu công nghiệp làng
nghề Đại Bái 5,5ha và một số khu nhỏ khác.
Đã thực hiện được 150,99ha, đạt 101,7% chủ yếu để xây dựng các khu
du lịch sinh thái, trụ sở giao dịch của các ngân hàng, kinh doanh dịch vụ
4 4

thương mại… Trong đó có các công trình đáng chú ý như Công ty Him Lam
23,3ha, Công ty Nam Hồng 7,55ha, Công ty Anh Trí 4,5ha, Công ty cổ phần
đầu tư và phát triển Đông Đô 26,4ha, Công ty xây lắp điện Hà Nội 8,36ha,
Công ty Tường Thuỷ 123ha…
Đã thực hiện giao 342,25 ha đất đạt 82,65% kế hoạch cho các nhu cầu
xây dựng nhà ở để bán tại thị xã Bắc Ninh và các thị trấn trong toàn tỉnh.
Một số dự án giao đất ở lớn như khu đô thị mới Phúc Ninh 49,7ha; đất
tạo vốn Vũ Ninh - Kinh Bắc 9,7ha; khu đô thị mới Nam Võ Cường 18,5ha;
khu giãn dân Khả Lễ 2,4ha; khu nhà ở đường Bình Than 1,4ha; đường Ngọc
Hân Công Chúa 1,4ha; khu giãn dân Xuân Ổ A và B: 3ha; khu nhà ở tạo vốn
Ban quản lý dự án xây dựng thị xã 10,9ha; khu nhà ở đường Hồ Ngọc Lân
2,43ha. Ở các thị trấn huyện có khu đô thị mới Châu Khê (Từ Sơn) 4,2ha; đất
ở tạo vốn xã Đình Bảng (Từ Sơn) 2,9ha; đất ở tạo vốn xã Tân Hồng, Đồng
Nguyên (Từ Sơn) 14,8ha; đất ở tạo vốn Công ty nông sản xã Tân Chi (Tiên
Du) 2,0ha; xã Hoàn Sơn (Tiên Du) 10,13ha; khu nhà ở tạo vốn thị trấn Hồ
(Thuận Thành) 5,2ha; khu nhà ở xã Vân Dương 2,92ha; khu đô thị mới
Phượng Mao 23,3ha; thị trấn Phố Mới 2,2ha; khu nhà ở tạo vốn Trung Nghĩa
(Yên Phong) 7,7ha; Đông Thọ (Yên Phong) 3,55ha; nhà ở đấu giá thị trấn Gia
Bình 4,94ha. Tổng số trên địa bàn tỉnh đã có 21 dự án giao đất để đấu giá
quyền sử dụng đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng với tổng diện tích đất đã
thu hồi là 243,4ha, trong đó diện tích đất ở 106,5ha.
Đã bàn giao 42,73 ha cho nhu cầu xây dựng trụ sở cơ quan: 133,97ha
xây trường học; 8,57hach xây dựng bệnh viện, trung tâm y tế; 54,33ha cho
xây dựng các khu thể thao trong các đô thị…
Cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ nông nghiệp cùng sự biến động mang
theo hướng hình thành nên nông nghiệp phục vụ đô thị và các khu công
nghiệp tập trung.
Trong 5 năm qua, toàn tỉnh đã chuyển được 736,33ha ruộng trũng cấy
lúa năng suất thấp sang nuôi tròng thuỷ sản kết hợp với chuyển đổi từ mặt
5 5

nước chuyên dùng và đất chưa sử dụng, góp phần đưa diện tích đất nuôi tròng
thuỷ sản tăng từ 2.515,09ha năm 2000 lên 4.981,74ha năm 2005. Cũng trong
thời gian này toàn tỉnh đã chuyển đổi 154,15ha đất trồng lúa sang trồng hoa
cây cảnh và đồng cỏ chăn nuôi đạt 77,08% so với quy hoạch được duyệt.
Đồng thời với mở rộng diện tích, toàn tỉnh đã hình thành nhiều vùng sản xuất
hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đó là 13 vùng sản xuất lúa hàng hoá
với quy mô mỗi vùng là 50-100ha, hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5-2 lần lúa
thường, 24 vùng sản xuất khoai tây, 26 vùng sản xuất rau xuất khẩu và một sô
vùng sản xuất hoa cây cảnh. Trong đó, nhiều vùng cho giá trị sản xuất cao,
điển hình là vùng sản xuất hành tỏi ở Bình Dương (Gia Bình), An Thịnh
(Lương Tài) đạt 20-30 triệu đồng/ha/vụ; vùng khoai tây ở Việt Hùng, Quế Tân
(Quế Võ) đạt doanh thu từ 45-55 triệu đồng/ha/vụ đông, vùng chuyên rau ở
Hoà Đình (Võ Cường - thị xã Bắc Ninh) cho doanh thu 160-170 triệu
đồng/ha/năm; vùng cà chua ở Yên Phong cho thu hoạch trên 50 triệu
đồng/ha/vụ đông, vùng hoa cây cảnh ở Phú Lâm (Tiên Du) doanh thu đạt trên
200 triệu đồng/năm; mô hình hoa đồng tiền ứng dụng công nghệ cao ở Đình
Bảng - Từ Sơn cho doanh thu đạt khoảng 500 triệu đồng/năm.
Sự phát triển của các khu công nghiệp đô thị đã làm thay đổi bộ mặt
kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh. 5 năm qua đã giải quyết việc làm cho
66.500 lao động. trong đó, các khu công nghiệp tập trung là 15.800 lao động,
các cụm công nghiệp làng nghề là 5.200ld, ngành thương mại dịch vụ 29.700
lao động, xuất khẩu khoảng 8000 lao động.
Lao động các vùng bị thu hồi đất được chuyển đổi nghề nghiệp khoảng
27000 lao động.
2. Tình hình chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm của dân
cư bị thu hồi đất ở Bắc Ninh
Vì chưa có một cuộc điều tra tổng thể nào, nên để nắm được tình hình
chúng tôi tổ chức điều tra quy mô nhỏ 150 hộ bị thu hồi đất ở quanh thành
phố Bắc Ninh, Từ Sơn, Quế Võ và có các nhận xét sau đây:
6 6

• Ở các vùng bị thu hồi đất cơ cấu thu nhập thay đổi đáng kể: số hộ thu
nhập chủ yếu từ nông nghiệp giảm từ 84,77% xuống 20.53%; số hộ thu nhập
từ các công việc hưởng lương tăng từ 39% lên 17.22%, từ buôn bán dịch vụ
tăng từ 15.23% lên 64.9%. Như vậy, người lao động ở các vùng điều tra có xu
hướng tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động tự do, thu nhập bấp bênh
hơn. Thực tế đời sống dân cư gặp nhiều khó khăn.
• Hướng chuyển đổi nghề nghiệp có tính tự phát, số lượng người lao
động có nghề mới với mức thu nhập tốt hơn chưa nhiều, qua phỏng vấn trực
tiếp và bằng phiếu hỏi thì có các hướng chuyển nghề sau:
+ Một số đang trong độ tuổi lao động đã tham gia làm việc, học nghề
tại một số làng nghề: Đồng Kỵ, giấy Phong Khê, gỗ Phù Khê… với mức thu
nhập khá ổn định, trung bình là 500.000đ/người/tháng.
+ Một số chuyển sang làm dịch vụ quanh khu vực KCN, Khu đô thị
(mở hàng kinh doanh ăn uống, kinh doanh hàng tạp hoá, nhà hàng Karaoke,
tin học, máy tính, các phòng chat… với mức thu nhập khá cao khoảng
1.500.000đ/ người/tháng nhưng mức thu nhập này cũng không ổn định mà lên
xuống thất thường.
+ Một số lao động chuyển sang làm phu hồ, thợ xây…quanh khu vực
KCN, Khu đô thị với mức thu nhập 20.000đ/ngày (khoảng 600.000đ/tháng)
và thu nhập chỉ mang tính thời vụ.
+ Một số lao động có tay nghề được tuyển dụng vào làm tại các doanh
nghiệp KCN, mức thu nhập bình quân 600.000đ/tháng. Tuy nhiên con số này
rất nhỏ bởi người nông dân chỉ quanh năm với nghề trồng lúa, không có tay
nghề nên số lao động được tuyển dụng rất ít, hoặc người lao động bị gò ép về
thời gian làm việc, không chủ động được thời gian, mặt khác tác phong làm
việc, việc chấp hành kỷ luật làm việc cũng còn nhiều hạn chế nên không
muốn làm việc nhiều tại các doanh nghiệp KCN.
+ Một số lao động được đào tạo nghề theo hình thức tự học hoặc tham
gia vào các lớp do Nhà nước, địa phương đài thọ…
7 7

+ Một số đã dùng kinh phí được bồi dưỡng lo phát triển kinh tế nông
nghiệp tại gia đình: làm kinh tế VAC (chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản,
trồng cây ăn quả…) hoặc dùng tiền để làm ăn buôn bán.
+ Số còn lại đang trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động do
chưa định hướng nghề nghiệp và chưa có kế hoạch ổn định cuộc sống lâu dài
đã dùng tiền được đền bù để mua sắm tài sản, ăn chơi tiêu sài phung phí,
trong số đó có một số dính vào các tệ nạn xã hội, không thoát khỏi cái vòng
luẩn quẩn thất nghiệp, đói nghèo do mất đất nông nghiệp và không có việc
làm.
Tổng số lao động cần chuyển đổi khoảng 53.000 người, mới chiếm
được khoảng 27.000 người đạt 58%, số được đào tạo khoảng 16.000 người
đạt tỷ lệ 51%.
• Trách nhiệm của Nhà nước đối với việc chuyển đổi nghề nghiệp, đào
tạo việc làm được thể hiện
Theo quy định tại điều 29, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của Chính
phủ thì "hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên
30% diện tích đất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho
người trong độ tuổi lao động, mức hỗ trợ lao động cụ thể và lao động cụ thể
do UBND tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế tại địa phương. Việc hỗ trợ
đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi
học nghề tại các cơ sở dạy nghề, thi hành QĐ trên UBND tỉnh quyết định
mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các lao động bị thu hồi đất là
14.700đ/m
2
tại Quyết định số 226/2004/QĐ-UB ngày 31/12/2004.
Tại điều 14, Quyết định 60/QĐ-UB ngày 26/6/2001 của UBND tỉnh thì
ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho người lao
động của địa phương được tuyển dụng vào DN mức tốid da không quá 1 triệu
đồng cho 1 lao động;
Mặt khác, lao động được tuyển dụng vào làm tại các KCN, các doanh

nghiệp đã tự bỏ kinh phí đào tạo nghề cho công nhân của họ mà không thu bất
8 8
kỳ khoản phí nào. Như vậy, người lao động nếu làm việc tại doanh nghiệp
KCN thì vừa được hưởng khoản hỗ trợ tại Quyết định số 226/2004/QĐ-UB
ngày 31/2/2004 của UBND tỉnh, vừa được doanh nghiệp tuyển dụng đài thọ
kinh phí đào tạo.
Như vậy, trách nhiệm của Nhà nước mới dừng laị ở việc hỗ trợ bằng
tiền để dân tự lo chuyển đổi nghề nghiệp. Việc quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp, các đô thị chưa đi liền với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
vùng. Có thể nói, các dự án phát triển mới tính đến sự phát triển trong hàng
rào của các dự án, mà chưa tính đến tác động của dự án đến đời sống của dân
cư trong vùng. Người dân giao đất, không được tiếp tục nghề nông nhưng
chưa biết sẽ phải làm nghề gì để thay thế nghề nông. Vai trò của các cấp chính
quyền trong việc tổ chức lại cuộc sống dân cư bị thu hồi đất là mờ nhạt.
• Các hình thức đào tạo việc làm còn chưa phù hợp. Trong chính sách
Nhà nước đã quan tâm đến việc đào tạo ở các Trường dạy nghề, thậm chí còn
dự định không hỗ trợ trực tiếp mà chuyển kinh phí cho các trường, dân cư
vùng thu hồi đất có nhu cầu học tập tự đến trường học nghề. Thực tế dân cư
các vùng bị thu hồi đất gặp nhiều trở ngại không phải ai cũng tới trường học
tập được. Các khó khăn đó là kinh phí thiếu (với số tiền hỗ trợ ít hỏi không đủ
kinh phí học tập tại trường); trình độ văn hoá thấp không đủ tiêu chuẩn vào
trường; tuổi tác cao không thể đến trường…
Rõ ràng việc quy định phải đến các trường dạy nghề học tập là có dụng
ý tốt, bài bản nhưng mới chỉ phù hợp với một bộ phận dân cư, nó chưa bao
quát được tất cả các đối tượng, các hoàn cảnh dân cư bị thu hồi đất. Nhất là
hiện nay chỉ khi bị thu hồi đất, vấn đề đào tạo, chuyển nghề mới được đặt ra.
3. Quan điểm, phương hướng và biện pháp thúc đẩy quá trình
chuyển đổi nghề nghiệp đào tạo việc làm của dân cư các vùng bị thu hồi
đất phục vụ phát triển các khu CN tập trung và đô thị ở tỉnh Bắc Ninh
trong những năm tới đây

3.1. Dự báo nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm
9 9
Theo quy hoạch giai đoạn 2006 - 2010 Bắc Ninh sẽ thu hồi và chuyển
đổi mục đích sử dụng 6229,56 ha đất. Trong đó đất chuyên dùng là 5200,56
ha tập trung ở Quế Võ: 1375 ha, Tiên Du: 1063,28 ha, Thuận Thành 633.9 ha,
Yên Phong 621,65 ha, Thành phố Bắc Ninh 367.77 ha… Đất ở đô thị 539.58
ha, tập trung ở thành phố Bắc Ninh gần 200 ha, Yên phong 89.52 ha, Quế Võ
75,64 ha. Khối lượng đất phải chuyển đổi mục đích sử dụng là lớn, chủ yếu là
từ đất nông nghiệp. Dự báo 5 năm 2006 - 2010 trong số lao động các hộ bị
thu hồi đất 89.400 người, trong đó cần phải chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo
việc làm là 83.000 người.
3.2. Các quan điểm cần quán triệt khi đề xuất phương án và biện pháp
Trước nhu cầu lớn như vậy, cần phải xây dựng các phương án kế hoạch
và biện pháp đẩy mạnh công tác chuyển đổi, đào tạo việc làm của dân cư
vùng bị thu hồi đất theo các quan điểm sau đây:
Một là, Bảo đảm để đại đa số dân cư các vùng bị thu hồi đất được
chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm
Đây là quan điểm xuất phát từ tự phát huy và kế tục trong những hoàn
cảnh mới của đường lối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân của Việt Nam. Trước cách mạng Tháng Tám, khẩu hiệu "Người cày có
ruộng" đã trở thành một trong những động lực quan trọng có sức hiệu triệu
hàng triệu người nông dân tham gia cách mạng, giành chính quyền. Trong cải
cách ruộng đất những năm đầu thập kỷ 50 thế kỷ trước, chủ trương "Đưa
ruộng đất về cho dân cày" đã tạo điều kiện để hàng chục triệu lao động nông
nghiệp được sở hữu một loại tư liệu sản xuất không có gì có thể thay thế đó
để tiến hành sản xuất nuôi sống mình và đóng góp cho xã hội. Từ năm 1980
đến nay, Nhà nước thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp không thu tiền
cho các hộ nông dân mà về thực chất đây là sự bảo đảm quí hơn vàng để nông
dân có công ăn việc làm, đời sống ổn định. Đến nay, khi tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên qui mô lớn. Nhà nước buộc phải thực hiện việc

thu hồi đất đã giao cho hộ nông dân tại một số vùng. Đây là một yêu cầu tất
10 10

×