Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Hãy phân tích những vấn đề lý luận về cơ sở hạ tầng công nghệ? Liên hệ với tình hình thực tiễn nước ta hiện nay để thấy rõ thực trạng về cơ sở hạ tầng của đất nước và có các giải pháp hoàn thiện nó nhằm thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa, hiệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.6 KB, 14 trang )

Hãy phân tích những vấn đề lý luận về cơ sở hạ
tầng công nghệ? Liên hệ với tình hình thực tiễn
nước ta hiện nay để thấy rõ thực trạng về cơ sở
hạ tầng của đất nước và có các giải pháp hoàn
thiện nó nhằm thực hiện thành công chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế mà
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đặt ra

LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) trên thế giới tiếp tục phát triển có khả năng tạo
ra những thành tựu mang tính đột phá ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội. Nhờ
những thành tựu của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới,..xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công
nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế
dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HDH). KH&CN đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn
tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng. Để tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động,
thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức
tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong thời
gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ
KH&CN trong cả nước, cơ sở hạ tầng KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp
đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, trình độ
KH&CN của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực,
năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Đối với các nước đang phát triển như nước ta nếu không chủ động chuẩn bị tốt về cơ sở


hạ tầng công nghệ thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là
điều khó tránh khỏi.


Để làm rõ hơn vấn đề này nhóm 6 xin được trình bày những ý kiến của mình trong đề tài thảo
luận: “ Hãy phân tích những vấn đề lý luận về cơ sở hạ tầng công nghệ? Liên hệ với tình
hình thực tiễn nước ta hiện nay để thấy rõ thực trạng về cơ sở hạ tầng của đất nước và
có các giải pháp hoàn thiện nó nhằm thực hiện thành công chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đặt ra”. Đề tài gồm
3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng cơ sở hạ tầng công nghệ nước ta hiện nay
Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ sở hạ tầng quốc gia
Do khả năng phân tích, tổng hợp thông tin còn hạn chế nên bài viết của chúng em sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy giáo và các bạn thông cảm, đóng góp ý kiến cho bài thảo
luận của chúng em thêm hoàn chỉnh.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm công nghệ:
– Theo Uỷ ban kinh tế-xã hội Châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP): “Công nghệ là kiến thức có hệ
thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và xử lý thông tin. Nó bao gồm tất cả các
kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch
vụ.
– Theo luật khoa học và công nghệ Việt Nam: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình,
kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành các sản phẩm.
-> “Công nghệ là tất cả những gì biến đổi đầu vào thành sản phẩm đầu ra”.
1.2 Cơ sở hạ tầng công nghệ: bao gồm năm thành phần đó là: Nền tảng tri thức về KH&CN;
các cơ quan nghiên cứu và triển khai; nhân lực KH&CN; chính sách KH&CN, nền văn hóa
KH&CN
a/ Nền tảng kiến thức KH&CN:


-Tri thức KH&CN là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống thông qua các hoạt động
nghiên cứu khoa học.
-Một đất nước muốn xây dựng được nền tảng kiến thức KH&CN cần có chiến lược đúng đắn tích

lũy và khai thác sử dụng hiệu quả tri thức KH&CN hiện có đồng thời có các biện pháp củng cố và
tăng cường tri thức đó cho tương lai.
b/Các cơ quan nghiên cứu triển khai (NC&TK):
-Bao gồm các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, trung tâm tư liệu thông tin và các trường
đại học
-Được coi là những nhà máy đặc biệt sản xuất ra sản phẩm đặc biệt là các công nghệ mới. Các
ngành, địa phương hay trung ương đều có các cơ quan này.
-Vai trò: + tạo ra công nghệ mới là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển
+ giúp giảm khoảng cách về trình độ công nghệ của quốc gia đó với mặt bằng trình độ
công nghệ thế giới.
+ tăng cường tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu và kiến thức kỹ năng về KH&CN giúp
nhận thức chính xác những công nghệ thích hợp khi chuyển giao.
c/Nhân lực KH&CN:
-Về nghĩa rộng nhân lực KH&CN gồm: các nhà khoa học, kỹ sư, công nhân kỹ thuật tay nghề cao
-Để phát triển nền kinh tế, KH&CN cần một số lượng lớn các nhân lực KH&CN, vai trò của nhân
lực KH&CN là rất cần thiết và quan trọng.
d/Chính sách KH&CN:
-Khái niệm: là hệ thống các mục tiêu và biện pháp nhằm phát triển tiềm lực KH&CN quốc gia, nó
bao gồm các văn bản luật lệ quy định thể chế từ định hướng chiến lược đến các khía cạnh của mọi
lĩnh vực kinh tế- xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô.
-Chính sách KH&CN có liên quan khăng khít tới mọi chính sách của nền kinh tế quốc gia, nó là
phương thức để phân tích kết quả thúc đẩy và kiểm tra hiệu quả các chương trình, chính sách ở
mọi lĩnh vực


-Chính sách KH&CN được xây dựng ở 3 cấp: cấp chiến lược (phạm vi quốc gia), cấp kế hoạch
(phạm vi ngành), cấp thực hiện (phạm vi cơ sở).
e/Nền văn hóa công nghệ quốc gia:
-Khái niệm: là thái độ cộng đồng nhìn nhận vấn đề KH&CN một cách khoa học
-Một đất nước có nền công nghệ quốc gia cao có lợi ích: giúp mọi người tiếp xúc được những

thành tựu mới của KH&CN, hiểu được vai trò của KH&CN từ đó ủng hộ chiến lược phát triển
KH&CN và làm theo công nghệ mới; tạo điều kiện tốt hơn cho họ trong việc học hỏi sáng tạo đồng
thời đây cũng là cơ sở để cung cấp những ý tưởng mới cho quá trình đổi mới công nghệ và đặc biệt
là phát triển công nghệ nội sinh.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ SỞ HẠ TẦNG CÔNG NGHỆ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Những thành tựu
2.1.1. Nền tảng kiến thức KH&CN được củng cố và phát triển
Tri thức khoa học công nghệ được tích lũy một cách hệ thống thông qua các hoạt động nghiên cứu
khoa học.
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học có thể thể hiện qua ba hình thức: ấn phẩm khoa học, bằng
sáng chế và đào tạo. Nghiên cứu khoa học ngày nay đang chuyển dần đến những nghiên cứu có
thể áp dụng trong thực tế hay thương mại hóa. Do đó, bằng sáng chế là một thước đo quan trọng
để đánh giá khả năng ứng dụng và thương mại hóa khoa học.
Ở nước ta, trong vài năm gần đây Bộ Khoa học – công nghệ cũng bắt đầu xem xét các công trình
công bố quốc tế như một thước đo để quyết định tài trợ cho nghiên cứu khoa học.
Số lượng bài báo khoa học từ Việt Nam có phần tăng trong mười năm gần đây. Trong năm 2011,
các nhà khoa học Việt Nam công bố khoảng 1.120 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế.
Nhìn lại dữ liệu năm năm qua, xu hướng số ấn phẩm có gia tăng nhưng chưa thấy một sự “đột
phá”. Năm 1990 số bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tập san quốc tế chỉ khoảng 250 bài.
Đến năm 2005 con số này tăng lên khoảng 600 bài và đến nay khoảng 1.000 bài. Tính trung
bình, trong vòng 20 năm qua số ấn phẩm khoa học tăng khoảng 13% mỗi năm.
Nhìn chung, số bài báo khoa học trong ngành y sinh học vẫn đứng đầu bảng Sau y sinh học là
toán, vật lý, hóa học .


Do nguồn lực còn hạn chế, nhân lực tài lực cơ sở vật chất còn thấp nên các nước đang phát triển
như Việt Nam chủ yếu tập trung vào nghiên cứu khoa học ứng dụng: thừa hưởng thành quả của
nghiên cứu cơ bản ở các nước phát triển tạo công nghệ thúc đẩy kinh tế phát triển. Thông qua hợp
tác quốc tế, cán bộ khoa học Việt Nam đã có một số kết quả nghiên cứu KH&CN. Đó là những
công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế. Các công trình nghiên cứu trọng điểm về

công nghệ thông tin, công nghệ sinh hoc, công nghệ vật liệu mới, tự động hóa, công nghệ cơ khíchế tạo máy, đã góp phần năng cao nặng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế. Theo TS. Mai Hà – Vụ
trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công
nghệ (KH&CN) – Bộ KH&CN, một số công nghệ như công nghệ thông tin – truyền thông (CNTT
– TT), công nghệ sinh học (CNSH) đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh
tế – xã hội của đất nước:
Trong lĩnh vực CNTT – TT, có thể kể đến việc hoàn toàn làm chủ công nghệ, thiết kế chế tạo
thành công và đưa vào ứng dụng hệ thống SPM. Hệ thiết bị này bước đầu đã đưa vào ứng dụng có
kết quả cho hai lĩnh vực KH&CN rất hiện đại là công nghệ nano (chụp topograhy cho các vật liệu
đến cỡ nanomet) và sinh học phân tử (chụp ảnh virus để nghiên cứu). Đặc biệt sự kiện phóng
thành công vệ tinh VINASAT-1 (ngày 19/4/2008) lên quỹ đạo và khai thác, kinh doanh hiệu đã
giúp hoàn thiện và hiện đại hoá mạng viễn thông quốc gia, đưa thông tin liên lạc đến mọi miền tổ
quốc, hiện thực hoá giấc mơ làm chủ vệ tinh viễn thông riêng của Việt Nam.
Trong lĩnh vực CNSH, nhiều thành tựu nghiên cứu gen, tế bào – mô phôi, enzim – protein, vi
sinh đã được sử dụng để phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững như: phục vụ tái sinh rừng
(nhân giống quy mô lớn cây thân gỗ bằng nuôi cấy mô), sản xuất thuốc trừ sâu vi sinh, hỗ trợ
canh tác trên đất không thuận lợi (chọn giống kháng hạn, úng, lạnh, phèn, mặn), nhân nhanh các
giống cỏ có nguy cơ tuyệt diệt,… Các nhà CNSH cũng đã thành công trong việc sử dụng công nghệ
và nguyên liệu trong nước để sản xuất ra một số loại vắc-xin, chế phẩm sinh học phục vụ chẩn
đoán bệnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta đã chủ động 9/10 loại vắc-xin cho tiêm chủng mở
rộng. Thêm nữa, chúng ta cũng đã sản xuất thành công thuốc Artemisinin chống bệnh sốt rét và
hàng năm thu được hàng triệu USD nhờ xuất khẩu; nghiên cứu dây chuyền công nghệ chiết xuất
từ hoa Hồi tạo ra các chất có tính năng tương tự để sản xuất thuốc Taminflu chữa bệnh cúm gia
cầm H5N1;…
Thiết bị cơ khí công nghệ cao: Chúng ta cũng đã nghiên cứu, sản xuất thành công chip vi xử lý
RISC 8, 16, 32 bit với công nghệ 0.25um, ứng dụng chip vi xử lý RISC VN8-01 trong các thiết bị
điện tử dân dụng; làm chủ công nghệ chế tạo các loại thiết bị cơ khí siêu trường, siêu trọng có độ


chính xác cao như hệ thống xi lanh thủy lực trọng tải lớn đến 400 tấn dùng trong các hệ thống

đóng mở các công trình thủy lợi, thủy điện (kể cả công trình lớn như thủy điện Sơn La), các loại
cần cẩu trọng tải lớn (50 – 100 – 450 – 1.200 tấn) phục vụ cho công nghiệp đóng tàu, thủy điện,…
Công nghệ vật liệu: vật liệu nano, vật liệu chức năng có định hướng ứng dụng trong nông
nghiệp công nghệ cao, trong khoa học sự sống, sinh học và trong chẩn đoán sớm các bệnh hiểm
nghèo cũng như điều trị hiệu quả cao trong y tế hoặc các vật liệu có tính năng đặc biệt (chịu nhiệt
độ cao, chịu mài mòn…) cho những ứng dụng đặc biệt.
2.1.2. Xây dựng được mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và triển khai trên toàn quốc
Thời gian qua, mạng lưới các tổ chức KH&CN đạt trên 2000 tổ chức nghiên cứu và triển khai
thuộc mọi thành phần kinh tế đăng ký hoạt động. Hoạt động của các tổ chức KH&CN đã mở rộng
từ nghiên cứu – phát triển đến sản xuất và dịch vụ KH&CN. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá
nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ
chức, cá nhân hoạt động KH&CN được mở rộng. Đến năm 2011 có khoảng 2.000 doanh nghiệp
đủ điều kiện để được công nhận là doanh nghiệp KH&CN, với trên 300 doanh nghiệp được hình
thành từ các viện nghiên cứu, trường đại học. Tính đến năm 2011, đã có trên 220 doanh nghiệp
thành lập viện hoặc trung tâm nghiên cứu chuyên ngành. Các loại hình nhiệm vụ KH&CN được
nâng tầm lên về trình độ, chất lượng, hiệu quả và mở rộng về quy mô với sự hình thành các
chương trình với các nhiệm vụ KH&CN lớn, dài hạn như: đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ
cao, sản phẩm quốc gia. Ngoài các tổ chức KH&CN công lập, đã ra đời các tổ chức KH&CN ngoài
công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ hoàn toàn về tài chính, là mô hình cho việc đổi mới cơ chế
hoạt động của các tổ chức công lập. Đến nay, đã có gần 900 cơ quan nghiên cứu triển khai của tư
nhân, của doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội nghề nghiệp ngoài công lập trong cả nước. Có
những doanh nghiệp tư nhân đã thành lập viện nghiên cứu như Công ty thủy sản Bình An, những
xí nghiệp tư nhân thành lập trung tâm nghiên cứu mạnh như Cơ khí Quang Trung Ninh Bình.
Bên cạnh đó, các trường đại học cũng là nhân tố đóng góp tích cực cho hoạt động nghiên cứu.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm
thông tin KH&CN, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn
kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất – kinh doanh.
2.1.3. Việc phát triển nguồn nhân lực KH&CN được chú trọng hơn
Vấn đề đào tạo và phát triền nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam được coi là động lực chính thúc
đẩy CNH, HDH ở Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực là nền móng để giải quyết triệt để đói

nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, ổn định chính trị, xã hội để nền kinh tế Việt Nam phát


triển bền vững. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Phát triển KH&CN cùng với phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH, HDH đất nước
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo
được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30000 người có trình độ
trên đại học (trên 14000 tiến sĩ và 16000 thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật;
trong đó, có khoảng 34000 người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực
nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH&CN của đất nước. Thực tế cho
thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện
đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Hiện nay, việc đào tạo nhân lực của nước ta đang trong giai đoạn phát triển mạnh. Số lượng các
trường học tại các cấp học tăng nhanh, đặc biệt là các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Đến
cuối năm 2010, nước ta có 414 trường đại học và cao đẳng (không tính các trường thuộc khối quốc
phòng, an ninh), trong đó có 188 trường đại học (50 trường ngoài công lập), hàng ngàn trường
trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Có 77.542 giảng viên cơ hữu trong các trường đại học,
trong đó 12,7% là GS, PGS, TSKH, 38,9% thạc sĩ. Nội dung, chất lượng đào tạo cũng có nhiều đổi
mới, tiến bộ so với trước. Đây là một yếu tố quan trọng để nâng cao nguồn nhân lực. Thời gian
qua, việc đào tạo nhân lực công nghệ cao vẫn theo kênh gửi đi đào tạo ở nước ngoài và đào tạo tại
các cơ sở giáo dục trong nước. Chương trình đào tạo bằng ngân sách Nhà nước (gọi tắt là Chương
trình 322) đã đào tạo được 1.740 cán bộ từ đại học trở lên ở nhiều nước có nền KH&CN tiên tiến.
Thông qua hoạt động của Quỹ Giáo dục Việt Nam – Hoa Kỳ (VEF), Việt Nam đã gửi đào tạo được
hơn 100 tiến sĩ, thạc sĩ, phần lớn ngành đào tạo liên quan đến CNTT-TT, CNSH, tự động hóa và
cơ điện tử, công nghệ nanô.
2.1.4. Các chính sách KH&CN từng bước tạo hiệu quả, cơ chế quản lý được đổi mới
Trong khoảng 10 năm đầu thế kỉ 21, nhà nước đã có rất nhiều chính sách về KH&CN. Khởi đầu là
luật KH&CN được quốc hội thông qua năm 2000 có hiệu lực năm 2001. Trong vòng 10 năm này
đã có 8 đạo luật về KH&CN ra đời: khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn
kĩ thuật, chuyển giao công nghệ, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lượng nguyên tử, công

nghệ cao, đo lường. Như vậy, về cơ bản ta đã hình thành nền tảng pháp lý cho hoạt động khoa học
và công nghệ. Đây là thành tựu lớn nhất trong thời gian qua. Luật là nền tảng và gần 300 văn bản
dưới luật là hành lang pháp lý. Như vậy, cả nền tảng và hành lang pháp lý cho hoạt động KH&CN
ở nước ta đã tương đối hoàn chỉnh. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN
đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.


Đặc biệt nhà nước đã ban hành nghị định 115/2005/NĐ-CP, giao quyền cho các tổ chức KH&CN
công lập để họ có thể phát triển tương đối tự do và nó đem lại hiệu quả, cái mà trong suốt thời kỳ
bao cấp chúng ta không làm được.
Việc phê duyệt dự án và đã tiến hành xây dựng bước đầu hai khu công nghệ cao tại Hòa Lạc và
Tp. HCM đã mở ra một hi vọng nền công nghệ cao của Việt Nam sẽ tươi sáng hơn.
Qua 7 năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, có nhiều kết quả tích cực: gần 900 tổ chức
KH&CN ngoài công lập ra đời, hàng trăm hợp đồng giao dịch thành công tại các hội chợ công
nghệ, số lượng công bố quốc tế chỉ riêng trong 3 năm (2008-2010) đã tương đương số lượng của
10 năm (1995-2004). Nhà nước khuyến khích thực hiện các chương trình, đề án khoa học nhằm
sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, chế tạo
các thiết bị phục vụ sản xuất, đáp ứng yêu cầu của sản xuất trong cơ chế thị trường… Kế hoạch
KH&CN 5 năm và hàng năm của Bộ Công Thương đều được xây dựng và phê duyệt trên cơ sở góp
phần thực hiện chiến lược, quy hoạch ngành; cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình CNH,
HDH đất nước.
Việc ra mắt của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia 2008, Quỹ đổi mới Công nghệ quốc gia 2011 đã
đánh dấu sự hình thành của một mô hình mới trong quản lý tài chính KH&CN góp phần đa dạng
hóa các kênh đầu tư. Đặc biệt, việc triển khai các chương trình tài trợ của Quỹ phát triển KH&CN
quốc gia theo cơ chế mới như tài trợ nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên đã được cộng
đồng khoa học đánh giá như một “bước tiến thành công có tính cách mạng” trong quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ
lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KH&CN đã đạt 2%, đánh
dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KH&CN của
Đảng và Nhà nước.

2.1.5. Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được
nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức
KH&CN và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của KH&CN đến sản xuất và đời
sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KH&CN của người dân trong thời gian
qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KH&CN ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước. Mật
độ điện thoại đạt gần 50% (vượt chỉ tiêu 35% do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra), 100% số
xã có điện thoại, số người sử dụng Internet đạt trên 20%, bán kính phục vụ trung bình của một
điểm bưu chính giảm xuống dưới 2,3 km. Hầu hết các cơ quan nhà nước và trên 50% doanh


nghiệp đã ứng dụng CNTT. Tỷ lệ cán bộ công chức biết sử dụng thành thạo CNTT và khai thác
Internet ở các cơ quan TW là 70%.
KH&CN phát triển với tốc độ chóng mặt trên thế giới, tín hiệu đáng mừng là ở Việt Nam, người
dân cập nhật công nghệ khá nhanh chóng, thức thời nhờ sự phát triển Internet và sự quan tâm
đối với công nghệ cũng ngày một tăng. Những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất hiện nay, người
dân có thể biết và còn có khả năng mua, sử dụng thành thạo, phục vụ cho lợi ích cá nhân hoặc tập
thể.
Chợ công nghệ và thiết bị Techmart tổ chức mỗi năm một lần góp phần thúc đẩy thị thường
KH&CN ở Việt Nam. Techmart là cầu nối thường xuyên cho các doanh nghiệp và các nhà khoa
học trao đổi, giao lưu, tìm hiểu nhu cầu thực tế và tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh; hội chợ
còn tôn vinh những thành quả KH&CN có khả năng ứng dụng thực tế, gắn kết và thúc đẩy chuyển
giao công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; Techmart giúp tìm
ra con đường ngắn nhất hiệu quả nhất để đưa khoa học vào cuộc sống và đến gần hơn với người
dân. Lợi ích của tiến bộ KH&CN dần được nhận thức một cách đầy đủ trong đời sống xã hội.
2.2 Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu
Mặc dù đạt được những thành tựu nhất định tuy nhiên, cơ sở hạ tầng công nghệ của nước ta hiện
nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, chưa đáp ứng được yêu
cầu là nền tảng và động lực giúp thực hiện thành công chiến lược CNH, HDH nền kinh tế mà đại
hội Đảng XI đã đề ra.

2.2.1. Những mặt hạn chế:
– “Sản lượng” và “chất lượng” của các công trình nghiên cứu KH&CN ở nước ta còn thấp so với
khu vực và thế giới
(Số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế trong năm 2011 của một số quốc gia)
Nước
Số ấn
phẩm KH

Việt Nam

Thái Lan

Singapore

Trung
Quốc

Nhật

Mỹ

Hàn Quốc

1028

4244

7296

112829


54537

265159

32446

Con số sản lượng khoa học từ Việt Nam, khi so sánh với các nước trong vùng: chỉ bằng khoảng 1/4
số bài báo từ Thái Lan), 1/7 Singapore, chưa nói đến thấp hơn rất nhiều so với thế giới. Có đến
75% các công trình khoa học từ Việt Nam do đứng tên chung hoặc hợp tác với nước ngoài, các
công trình nội lực có chất lượng thấp hơn các công trình hợp tác. So với các nước trong vùng, chất


lượng nghiên cứu khoa học từ nước ta không thấp (chỉ số đánh giá chất lượng và ảnh hưởng của
nghiên cứu khoa học RCI cao) tuy nhiên lại quá thấp so với trung bình thế giới ( thấp hơn khoảng
40%).
-Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ,
lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành. Lực lượng khoa học khá phân tán, thiếu
sự kết hợp gắn bó giữa viện nghiên cứu, trường đại học và các trung tâm nghiên cứu của doanh
nghiệp. Tổ chức KH&CN còn mang tính chất hành chính, cát cứ, kém hiệu quả.
-Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít ( 20%), lao động qua đào tạo mất cân đối giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng miền. Chất lượng đào tạo còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu nhân
lực đặc biệt đối với lĩnh vực KH&CN tiên tiến, tình trạng thừa thầy thiếu thợ đang là vấn đề lớn
đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao.
-Chính sách đổi mới quản lý KH&CN đã được đổi mới nhưng còn chậm so với tốc độ phát triển
của kinh tế thị trường, còn mang nặng tính hành chính: Các tổ chức KH&CN chưa có được đầy đủ
quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng
tạo.Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động KH&CN,
làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ KH&CN
được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp

luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách thu
hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ
KH&CN toàn tâm với sự nghiệp KH&CN.
-Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả
nghiên cứu KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý
cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.2 Những nguyên nhân chủ yếu:
– Chủ trương, chính sách phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước chưa được các cấp, các
ngành, địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn
Nhiều đường lối, chính sách về phát triển KH&CN chậm được thể chế hóa bằng các văn bản pháp
luật; việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết.


– Năng lực của các cơ quan quản lý KH&CN còn yếu kém: quản lý nguồn lực KH&CN còn hạn chế
dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám hay Việt Nam trở thành “ bãi rác công nghệ” của thế giới;
quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống KH&CN chưa
được tách biệt rõ; chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến.
– Đầu tư cho phát triển KH&CN còn hạn hẹp: đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN còn chưa được
chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ
cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc biệt là cán bộ KH&CN đầu
ngành.
– Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KH&CN: độc quyền của
doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp nhà nước có
tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN và đổi mới công
nghệ. Thiếu chính sách hữu hiệu để gắn kết giữa KH&CN với sản xuất – kinh doanh và khuyến
khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát
triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho
KH&CN.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ SỞ HẠ TẦNG QUỐC GIA
3.1 Hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp:

Rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi
trường thuận lợi hỗ trợ ứng dụng và phát triển KH&CN đáp ứng các yêu cầu về hội nhập toàn diện
kinh tế quốc tế, đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia; tăng cường và phát huy nội lực, thúc đẩy
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp; tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế
có cơ hội bình đẳng tham gia thị trường; hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN và bắt kịp cu hướng hội tụ công nghệ
3.2 Tăng cường tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
– Tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về KH&CN theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
phù hợp với xu thế hội tụ công nghệ đặc biệt là CNTT-TT
– Tổ chức hợp lý bộ máy quản lý Nhà nước trên cơ sở phân biệt rõ các tổ chức có chức năng xây
dựng chính sách, luật pháp với các tổ chức có chức năng thực thi pháp luật; đảm bảo hình thành
hệ thống quản lý Nhà nước mạnh theo nguyên tắc “Năng lực quản lý đón đầu yêu cầu phát triển”;


– Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN phải theo hướng
phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, phân định rõ việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước với việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; phân công, phân cấp rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm giữa các sở, ngành, UBND các quận, huyện để tránh sự chồng chéo, tăng cường
vai trò của các ngành trong quản lý hoạt động KH&CN của ngành mình.
3.3 Thu hút đầu tư và huy động nguồn vốn:
– Hình thành môi trường nuôi dưỡng, phát triển và đón đầu cuộc cách mạng KH&CN, sẵn sàng
về cơ sở hạ tầng, vật chất, hậu cần, nguồn nhân lực để thu hút các tập đoàn Công nghệ lớn trên thế
giới đầu tư.
– Huy động vốn đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và quốc tế, ưu tiên nguồn vốn tín dụng ngân
hàng, cổ phần hóa, thị trường chứng khoán, tích lũy, ODA,…cho xây dựng cơ sở hạ tầng công
nghệ một cách hoàn thiện.
3.4 Phát triển mạnh nguồn nhân lực:
– Hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo, dạy nghề thống nhất và chuyên nghiệp về KH&CN ở
tất cả các bậc học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và hợp tác quốc tế trong
đào tạo đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao.

– Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, người lao động ở các
doanh nghiệp, đặc biệt là nâng cao trình độ ứng dụng CNTT-TT vào hoạt động quản lý Nhà nước
và sản xuất kinh doanh.
– Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình xã hội hóa, mô hình đào tạo theo nhu cầu
của thị trường, mô hình đào tạo lien kết Doanh nghiệp- Viện- Trường, mô hình liên doanh, liên
kết quốc tế..cung cấp cho thị trường nguồn nhân lực KH&CN đủ về số lượng, cao về trình độ và
chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
– Có chính sách và chế độ đãi ngộ đặc biệt để thu hút nhân tài, khuyến khích chuyên gia trong và
ngoài nước, đặc biệt đối với người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, vị
trí và điều kiện thuận lợi trong lĩnh vực KH&CN tích cực, nhiệt tình tham gia đóng góp cho phát
triển KH&CN đất nước.
3.5 Mở rộng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ:
– Phát huy thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, nhanh chóng làm chủ thị trường trong nước,
từng bước mở rộng ra thị trường khu vực và thế giới.


– Tập trung đầu tư phát triển các sản phẩm và dịch vụ với hàm lượng tri thức công nghệ ngày
càng cao.
– Các doanh nghiệp, tập đoàn chủ lực về KH&CN của quốc gia đảm bảo có kế hoạch, lộ trình tăng
cường năng lực cạnh tranh
3.6 Nâng cao nhận thức về vai trò của KH&CN
Nâng cao nhận thức về kinh tế tri thức và vai trò của Công nghệ đặc biệt là CNTT-TT trong toàn
xã hội thông qua mọi hình thức tuyên truyền phổ biến, đặc biệt chú ý tận dụng các phương tiện
thông tin đại chúng. Lãnh đạo các cấp cần thực sự nhận thức được KH&CN là lĩnh vực quan trọng
và ưu tiên của quốc gia; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ mạnh mẽ cho các dự án
KH&CN có tính ứng dụng cao; gương mẫu đi đầu trong việc ứng dụng KH&CN vào đời sống.
KẾT LUẬN
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của vệc xây dựng cơ sở hạ
tầng công nghệ đối với chiến lược CNH, HDH đất nước. Xem xét các yếu tố của cơ sở hạ tầng công
nghệ ở các nước phát triển, người ta thấy rõ các nước này họ đã xây dựng được một nền tảng hết

sức vững chắc. Các nước đang phát triển như Việt Nam đã nhận thức được đầy đủ những mặt yếu
kém liên quan đến môi trường công nghệ ở quốc gia mình. Không một quốc gia nào muốn phát
triển công nghệ lại không xây dựng cho mình một cơ sở hạ tầng công nghệ vững chắc. Đến nay đã
là gần 26 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng gây dựng được một nền
tảng cơ sở hạ tầng công nghệ tương đối toàn diện tuy nhiên vẫn yếu về chiều sâu. Nguy cơ tụt hậu
là rất cao nếu như chúng ta không tiến hành những biện pháp thiết thực, những giải pháp đồng
bộ triệt để ngay từ bây giờ để hoàn thiện hơn cả về lượng và chất cho các yếu tố của cơ sở hạ tầng
công nghệ. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước, các ngành các cấp, cùng nhân dân và toàn xã hội phải
chung tay chung sức quyết tâm đưa Việt Nam phát triển tiến tới tự chủ về công nghệ.



×