Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đề tài: Quản lý Nhà nước về thương mại với thị trường vàng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.4 KB, 34 trang )

Đề tài: Quản lý Nhà nước về thương mại với thị trường vàng Việt Nam
Lời mở đầu
Trong lịch sử xã hội loài người, vàng gắn với quá trình hình thành các hình thái
tiền tệ và trở thành vật ngang giá- thước đo giá trị, thay thế tiền mặt trong nhiều giao dịch
thanh toán và là tiền dự trữ quốc tế. Mặt khác, nhờ đặc tính lý hóa của nó, vàng được sử
dụng trong một số ngành công nghiệp và trở thành đồ trang sức và trang trí sang trọng.
Mặc dù, giá trị của vàng tăng dần theo thời gian và nguồn cung vàng ngày càng cạn dần,
nhưng giá vàng tăng chậm và có thể cọi là ổn định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
xu thế toàn cầu hóa đã gây ra nhiều xung đột tôn giáo phức tạp và không có hồi kết, vàng
được coi là nơi ẩn náu an toàn của nhiều Ngân hàng Trung ương và nhà đầu tư, nên giá
vàng biến động theo chiều hướng tăng mạnh.
Tại Việt Nam, trong thời gian dài, hoạt động kinh doanh vàng như mua bán vàng
trang sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như
các loại hàng hóa khác, phần lớn doanh nghiệp kinh doanh vàng là mua bán vàng trang
sức, mỹ nghệ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh
vàng diễn ra khá ổn định và hầu như không ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tuy nhiên, từ năm 2006 đến nay, giá vàng thế giới
biến động, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế và hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ.
Cùng với sự phát triển và biến đổi không ngừng của thị trường vàng, thực tiễn quá trình
hoạt động kinh doanh của thị trường vàng hiện nay tại Việt Nam đòi hỏi phải có một cơ
chế quản lý đồng bộ, nhất quán, đầy đủ từ phía nhà nước. Đây là một vấn đề khá mới mẻ
và chưa được nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi đã chọn đề
tài nghiên cứu “Quản lý Nhà nước về thương mại đối với thị trường vàng ở Việt Nam”.
Chương 1 Khái quát về thị trường vàng và QLNN về TM đối với thị trường vàng Việt
Nam
1.1.
Khái quát về thị trường vàng Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm


Vàng là kim loại mềm, dễ uống, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản


ứng với hầu hết các hóa chất, có dang quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích.
Là một kim loại quý, dùng để đúc tiền. Vàng được dùng làm 1 tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều
nước, được sử dụng trong các ngành nha khoa, điện tử, và trang sức.
Đến nay, dường như chưa có một định nghĩa cụ thể về thị trường vàng, song hầu hết mọi
người đều hiểu rằng, thị trường vàng là nơi mà các nhà đầu tư mua bán vàng, thường là
mua trong thời điểm giá thấp sau đó bán đi với giá cao hơn để kiếm lời. Thị trường vàng
cũng như hầu hết các thị trường khác, cơ bản là sự trao đổi mua bán để kiếm lời. Song thị
trường vàng là một thị trường đầy rủi ro, thách thức với mỗi nhà đầu tư, bên cạnh đó thị
trường vàng cũng nằm trong sự kiểm soát của chính phủ,chịu tác động từ phía chính phủ.
Bản thân thị trường vàng cũng tạo nên những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế cũng
như đời sống xã hội.
Những đặc điểm của thị trường vàng Việt Nam
Việt Nam là một thị trường có nhu cầu cao về vàng. Với hơn 90 triệu dân, Việt Nam là
một quốc gia có sức mua lớn. Người Việt Nam có thói quen tích trữ vàng cùng với việc
vàng được sử dụng nhiều trong đời sống hàng như làm đồ trang sức, làm của hồi môn…
Bên cạnh đó, ngày nay nhu cầu đầu tư vàng ngày càng cao nên nhu cầu về vàng trong
nhân dân là rất lớn.
Thị trường vàng ở Việt Nam phụ thuộc vào thị trường vàng trên thế giới, bởi chủ yếu là
nhập khẩu từ nước ngoài, phần sản xuất trong nước không đáng kể. Do vậy, mỗi khi giá
vàng trên thế giới tăng, giảm sẽ tác động lập tức đến giá vàng ở trong nước.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam
Chính sách nhà nước: Các chính sách của nhà nước liên quan đến kinh doanh

vàng ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường vàng Việt Nam, trong đó gồm các pháp
lệnh, thông tư, nghị định của Ngân Hàng nhà nước, của Thủ tướng chính phủ. Các
chính sách quản lý nhà nước sẽ điều tiết các chủ thể tham gia thị trường vàng và
các hoạt động của họ trong thị trường.


-


Biến động thị trường vàng thế giới: Tác động đến thị trường vàng có rất nhiều yếu
tố nhưng không thể thiếu tác động từ thị trường vàng thế giới. Thị trường vàng
trong nước hiện nay đã và đang gắn chặt với thị trường thế giới do nguồn cung
vàng của chúng ta chủ yếu đến từ nhập khẩu. Vì vậy khi thị trường thế giới biến

-

đổi sẽ lập tức ảnh hưởng đến thị trường trong nước.
Các nhân tố khác: Ngoài chính sách nhà nước hay biến động thị trường thế giới có
những tác động đến thị trường vàng Việt nam, thì các yếu tố khác như môi trường
kinh tế, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cũng ít
nhiều tác động đến hành vi đầu cơ, đầu vào của doanh nghiệp kinh doanh vàng,

điều đó sẽ phần nào là nguyên nhân dẫn đến mỗi biến động của thị trường.
1.1.3. Các chủ thể của thị trường vàng Việt Nam
Có thể chia thị trƣờng vàng Việt Nam theo ba đối tƣợng sau:
-

Người tích trữ: Đây là những chủ thể có nguồn vốn nhàn rỗi, giữ vàng với mục
đích phòng thân. Phần tài sản bằng vàng này là một hợp đồng bảo vệ chắc chắn
cho họ trƣớc các biến động về kinh tế xã hội với đặc tính dễ dàng chuyển đổi
thành tiền mặt. Những ngƣời tích trữ có thể là công nhân, viên chức, nông dân hay
bất kỳ ai khác trong xã hội. Những chủ thể này thƣờng có đặc điểm: giữ vàng như
một tài sản chìm tại nơi chắc chắn, giữ trong thời gian dài không cân nhắc tới yếu
tố lợi nhuận khi quyết định mua hay bán vàng và không quan tâm tới tác động lên

-

xuống của giá cả.

Người đầu tư: Những người mua vàng với mục đích đầu tư trên thực tế cũng là
những ngƣời tích trữ nhưng tích cực hơn những người tích trữ thể hiện ở các đặc
điểm: vàng của họ có thể ở dạng “vàng tín dụng” gửi tại một tài khoản ngân hàng,
xem vàng như một nguồn vốn đầu tư sinh lợi và chỉ giữ nguồn vốn dưới dạng
bằng vàng khi cần thiết. Những ngƣời đầu tư thường thực hiện nhiều hành vi mua
bán, hoặc vay và cho vay, qua đó nguồn vốn của họ tăng lên. Họ quan tâm đến sự
biến động giá vàng trong cả ngắn hạn và dài hạn và luôn đặt nó lên bàn cân lãi
suất.


-

Người đầu cơ: Những chủ thể này có hoạt động tương tự như những ngƣời đầu
tư, nhưng họ có thể dự đoán và khai thác giá vàng trong thời gian ngắn và họ sẵn
sàng chấp nhận rủi ro cao để có thể thu đƣợc lợi nhuận nhiều hơn bằng cảm nhận
nhanh chóng và phản ứng linh hoạt, nhạy bén trước những nhân tố tác động trực
tiếp và mạnh mẽ đến giá vàng.

Hiện nay ở nước ta, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường vàng, thì số
lượng các nhà đầu tư và đầu cơ cũng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Điều này thể
hiện thị trường vàng Việt Nam ngày càng phát triển theo hướng ngày càng chuyên
nghiệp hoá, và vàng đang dần trở thành một kênh đầu tư hữu hiệu với nhiều người.

QLNN về TM đối với thị trường vàng

1.2.

1.2.1. Khái niệm về quản lý Nhà nước về thương mại đối với thị trường vàng
Thị trường vàng là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế của một quốc gia, do đó
quản lý Nhà nước đối với thị trường vàng là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt

động xây dựng, vận hành và phát triển của thị trường vàng. Quản lý Nhà nước về thương
mại đối với thị trường vàng là một bộ phận hợp thành của quản lý nhà nước về đối với thị
trường, đó là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại đến các chủ thể của thị trường vàng và các hoạt động của họ thông qua việc
sử dụng các công cụ, chính sách quản lý thích hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ổn định
thị trường vàng.
1.2.2. Chức năng của quản lý Nhà nước về thương mại đối với thị trường vàng
Quản lý Nhà nước về thương mại đối với thị trường vàng mang đầy đủ những chức năng
của quản lý Nhà nước về thương mại nói chung, được cụ thể hóa ở một số lĩnh vực sau:
-

Xây dựng kế hoạch hoạt động và phát triển thị trường vàng với từng bước đi cụ
thể và thích hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội.


-

Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của thị trường vàng như: cơ quan quản lý,
công ty kinh doanh vàng bạc đá quý… đồng thời phối kết hợp các cơ quan này với

-

nhau trong hoạt động quản lý.
Xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách quy định chặt chẽ các hoạt động kinh

-

doanh vàng bạc để tạo ra sự thống nhất trong mọi giao dịch.
Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên thị trường vàng như mua bán gian lận,


-

đầu cơ, …
Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các hành vi vi
phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt động của thị
trường.

Các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ nhằm duy trì sự hoạt động ổn
định của thị trường, tạo điều kiện để phát triển thị trường và có thể thích ứng với mọi
thay đổi trong xã hội.
1.2.3. Phân cấp quản lý Nhà nước về thương mại đối với thị trường vàng
Tại Việt Nam, vàng luôn là một tài sản tích trữ được ưa chuộng, thậm chí có
những giai đoạn, vàng không chỉ còn là phương tiện tích trữ giá trị mà còn đóng vai trò là
tiền tệ; giá vàng có lúc đã là một chỉ số ảnh hưởng đến giá cả các loại hàng hóa trong nền
kinh tế. Chính vì vậy, các hoạt động của thị trường vàng tại Việt Nam đã sớm được đưa
vào quản lý.
Cùng với các chính sách đổi mới nền kinh tế, ngay từ những năm 90 của thế kỉ
XX, các văn bản pháp lý quy định cụ thể về vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN) đối với thị trường vàng đã lần lượt ra đời. Mới đây nhất là Luật Ngân hàng
Nhà nước năm 2010, Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối. Theo đó thì , Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh
doanh vàng, cụ thể: Quản lý hoạt động kinh doanh vàng, xuất nhập khẩu vàng, ngoại hối,
phương án sản xuất vàng miếng của NHNN trong từng thời kỳ và các hoạt động khác liên


quan đến vàng khi được Chính phủ giao; phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện
mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước, tổ chức huy động vàng của các tổ chức
và cá nhân theo quy định của pháp luật.

Ngoài NHNN là cơ quan quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm trước chính phủ về
việc thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với thị trường vàng còn có các bộ, cơ quan
ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quản lý trong
phạm vụ và quyền hạn của mình.
Cụ thể trách nhiệm của mỗi cơ quan quản lý như sau:
a
-

Đối với NHNN
Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban
hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm
quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo

-

quy định tại Nghị định này.
Ngân hàng Nhà nước được bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các
biện pháp sau đây:

+ Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị
định này.
+ Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời
điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời
kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước.
+ Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động
vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
-


Ngân hàng Nhà nước cấp, thu hồi: Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng
trang sức, mỹ nghệ; giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng; giấy phép xuất
khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu, giấy phép mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập


cảnh của cá nhân vượt mức quy định; giấy phép đối với các hoạt động kinh doanh
-

vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động sản xuất vàng
trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, vàng trang sức,
mỹ nghệ; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu và hoạt động kinh

-

doanh vàng khác.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến

quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
b Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
-

Trung ương
Bộ Công Thương có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện
chức năng quản lý, kiểm tra, thanh tra hoạt động sản xuất, gia công vàng trang
sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ và việc

-

doanh nghiệp kinh doanh vàng chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm quy định và hướng dẫn thực hiện cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng và sao
gửi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho Ngân hàng Nhà nước chi

-

nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn để phối hợp thực hiện.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trình cơ quan có thẩm
quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền chính sách thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu vàng, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập đối

-

với hoạt động kinh doanh vàng phù hợp trong từng thời kỳ.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan có trách nhiệm thực
hiện ban hành tiêu chuẩn chất lượng đối với vàng trang sức, mỹ nghệ; kiểm tra,
thanh tra và quản lý chất lượng đối với vàng trang sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị

-

trường và kiểm định phương tiện đo lường của các doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc đấu
tranh, điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật về kinh doanh vàng trong phạm vi

-

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng tại



địa phương theo quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác
có liên quan.
Căn cứ vào yêu cầu thực tế, các Bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp, chia sẻ
thông tin để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động thị trường; phối hợp thực hiện kiểm
tra, thanh tra hoạt động trên thị trường vàng theo quy định của pháp luật.
1.2.4. Nội dung QLNN về TM với thị trường vàng Việt Nam

Chương 2 Thực trạng quản lý Nhà nước về thương mại với thị trường vàng ở Việt
Nam
Thị trường vàng VN trong những năm gần đây

2.1.

Qua một quá trình phát triển lâu dài, thị trường Việt Nam hiện nay đã có những bước tiến
vượt bậc so với cách đây vài chục năm. Xu hướng mở thể hiện rõ nét qua tính đa dạng về
chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường. Ngoài các công ty chiếm tỷ trọng lớn, có khả
năng chi phối giá như công ty Vàng bạc đá quý SJC, PNJ, SACOM, ACB, SCB…còn có
sự góp mặt cảu nhiều Ngân hàng thương mại, các tiệm vàng lớn nhỏ trên cả nước cùng
mạng lưới nhà đầu tư cá nhân khắp mọi miền. Các chủ thể tiếp cận thị trường với nhiều
mục đích khác nhau có thể là kinh doanh, tích trữ, để sản xuất, để thanh toán, hay chỉ đơn
giản là nhu cầu trang sức làm đẹp…Và có thể nhận thấy, nhu cầu về giao dịch vàng tại
Việt Nam đang có xu hường ngày một cao, sự phát triển của thị trường vàng Việt Nam
cũng vì thế mà ngày càng đi lên.
-

Cung vàng trên thị trường trong nước

Nguồn cung vàng chủ yếu trong nước là do nhập khẩu, Việt Nam là quốc
gia nhập khẩu tới 95% nhu cầu vàng của mình. Việt Nam trở thành một trong những

nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu vàng. Điều này góp phần không nhỏ vào thâm hụt
cán cân thương mại của đất nước, đối phó loại với tình hình, giữa tháng 5 năm 2008,
Ngân hàng Nhà nước đã ngừng cấp giấy phép nhập khẩu vàng nhằm kiềm chế lạm phát,
điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Cho đến thời điểm ngừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập


khẩu vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD tương đương 45 tấn vàng và bằng
57% sản lượng vàng tiêu thụ năm 2007.Việc ngừng nhập khẩu vàng là việc
phải làm nhưng “liều thuốc” này cũng đã để lại một số tác dụng phụ, trong đó
đáng chú ý là góp phần “đẩy” giá vàng trong nước càng xa với thế giới.
Ngưng nhập khẩu vàng đồng nghĩa với nguồn cung vàng bị bó hẹp lại, vì vậy
làm cung nhỏ hơn cầu tất yếu dẫn đến việc đẩy giá vàng tăng lên và tạo ra những diễn
biến phức tạp trong năm 2008. Song đến cuối năm 2009, do có những biến động bất lợi
tạo ra sự biến động lớn trên thị trường vàng, đẩy giá vàng lên trên 29triệu đồng/ lượng,
nguồn cung vàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự biến động này.
Để bình ổn giá vàng Chính phủ đã có những biện pháp ổn định thị trường
vàng trong nước, trong đó đáng chủ ý, là việc Thống đôc Ngân hàng Nhà
nước Nguyễn Văn Giàu đã cho phép nhập khẩu vàng sau 1,5 năm ngừng nhập 32
khẩu. Nhờ đó thị trường vàng phần nào ổn định do cung vàng có thể đáp ứng
đủ nhu cầu vàng trong nhân dân.
-

Cầu vàng trên thị trường trong nước

Nhu cầu cất trữ vàng trong nước đã xuất hiện từ xa xưa. Người dân Việt Nam dùng vàng
trong nhiều hoạt dộng của đời sống như tích trữ, đồ trang sức, dùng làm của hồi môn…
Trong những năm gần đây cầu vàng càng ngày càng lớn do nhu cầu vàng đầu tư trong
nước ngày càng tăng. Sau sự biến động lớn của giá vàng năm 2009 và 2010, người dân
đổ xô đi mua vàng. Vàng trở thành một xu hướng của giới đầu tư, khoảng thời gian này
là khoảng thời gian đầy biến động của thị trường vàng trong nước, nhu cầu về vàng tăng

mạnh và đột ngột, trong những ngày cao điểm thị trường vàng đã tiêu thụ được 2 tấn
vàng 1 ngày. Trong những năm gần đây, thị trường vàng đã có phần ổn định hơn nên cầu
vàng trên thị trường cũng không có nhiều sự biến động mạnh như khoảng thời gian trước
đó.
-

Giá vàng trong nước


Từ giữa năm 2006 thị trường vàng Việt Nam đã có những biến động lớn do giá vàng đột
ngột tăng mạnh vào giữa tháng 6, lần đầu tiên giá vàng vượt ngưỡng 1,4 triệu đồng/chỉ.
Từ đó vàng trở thành một xu hướng mới của giới đầu tư, năm 2007 chứng kiến nhiều
biến động của giá vàng, song mức giá đầu năm 2007 lại diễn ra khá khiêm tốn, mức giá
trên dưới 1,3 triệu đồng/chỉ. Tháng 11 năm 2007 giá vàng bất ngờ tăng cao do nhu cầu
mua vàng đầu cơ tích trữ ở các thành phố lớn tăng cao do lo ngại khủng hoảng kinh tế,
giá vàng thị trường trong nước thời điểm này bán ra là 1.650.000 đồng/chỉ, mua vào
1.640.000 đồng/chỉ. Giá vàng tính đến hết năm 2007 đã tăng 30% so với thời điểm cuối
năm 2006. Sang năm 2008, giá vàng trong nước biến động theo sự thăng trầm của nền
kinh tế thế giới, diễn biến giá vàng trong nước đã trải qua hai đợt sóng lớn vào tháng 3 và
tháng 7 khi vượt mức 19 triệu đồng/lượng, sau đó giảm mạnh vào cuối năm. Theo dữ liệu
từ Ngân hàng ACB, giá vàng SJC trong nước đạt mức cao kỷ lục là 19.35 triệu
đồng/lượng và thấp nhất 16.10 triệu đồng/lượng. Tính bình quân giá vàng năm 2008 xoay
quanh mức 17.64 triệu đồng/ lượng.
Năm 2010 là năm tăng kỷ lục của vàng khi mỗi lượng vàng trong nước tăng 9,5 triệu
đồng do giá vàng thế giới tăng hơn 300 USD/ounce. Sự tăng vọt của giá vàng thời điểm
đó đã gây ra những cơn sốt chưa từng có trên thị trường: người dân đổ xô đi mua vàng,
một số giao dịch lớn trên thị trường được định giá bằng vàng như giao dịch nhà đất…
Năm 2013, giá vàng trong nước giảm mạnh (giảm 29%), chấm dứt 12 năm tăng liên tiếp
(giá vàng SJC giảm gần 12 triệu đồng/lượng). Trong 2 năm trở lại đây, thị trường vàng
trong nước khá trầm lắng trước những biến động của thị trường thế giới và có phần ổn

định hơn.
2.2.

Thực trạng QLNN về TM với thị trường vàng Việt Nam trong những năm
gần đây

Trước đây, vàng vừa được dùng như một loại tiền, vừa như một phương tiện cất giữ,
trong một số trường hợp, vàng thậm chí còn được coi trọng hơn cả tiền giấy. Vàng được
coi là “vịnh tránh bão” trong bối cảnh lạm phát cao, đồng tiền bị mất giá, các kênh đầu tư


khác bấp bênh, giá vàng lại liên tục tăng. Với thói quen đã được hình thành từ lâu, nhiều
người coi vàng là một phương tiện tích lũy đáng tin cậy. Chính những lí do này khiến cho
nhu cầu về vàng tăng cao, nó luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt với người dân Việt Nam
(là quốc gia tiêu thụ vàng lớn thứ 4 tại châu Á sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan).
2.2.1. Thực trạng quản lí Nhà nước về thương mại đối với hoạt động kinh doanh mua
bán vàng miếng
“Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng
và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (sau đây được gọi là Ngân hàng Nhà nước) cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do
Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ.” (theo điều 4 Nghị định số
24/2012/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ). Cũng giống như vàng nói chung, vàng
miếng từ lâu đã được coi là thứ hàng hóa đặc biệt, có đầy đủ các thuộc tính tiền tệ, được
sử dụng làm phương tiện tích trữ, liên quan đến dự trữ ngoại hối của Nhà nước, có tác
động lớn đến việc quản lý, điều hành chính sách tiền tệ, do đó, cần phải được quản lý một
cách chặt chẽ.
Từ năm 1999, hoạt động kinh doanh vàng nói chung và kinh doanh vàng miếng
nói riêng được thực hiện theo quy định tại Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999
của Chính phủ (Nghị định 174). Tuy nhiên từ năm 2008 trở lại đây, do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh

hưởng, các bất ổn kinh tế vĩ mô làm suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, gia tăng lạm
phát và làm tăng nhu cầu nắm giữ vàng trong nền kinh tế. Đồng thời, trong giai đoạn từ
năm 2008 đến năm 2012, giá vàng thế giới đã biến động mạnh, có thời điểm lên tới 300%
so với năm 2008. Trong bối cảnh đó, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng miếng
theo Nghị định 174 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như sau: không có các quy
định quản lý, kiểm soát hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng, vàng miếng được coi
là hàng hóa thông thường. Do đó, thị trường vàng miếng Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 1999 đến tháng 6/2012 có sự tham gia của nhiều nhà sản xuất với 7 thương hiệu
vàng miếng được lưu hành (vàng SJC, AJC, vàng Rồng Thăng Long, vàng Phượng


Hoàng PNJ, vàng Thần Tài SBJ…), trong đó thương hiệu SJC chiếm gần 90% thị phần
vàng miếng trong nước. Cùng với sự đa dạng của thương hiệu vàng miếng là sự đa dạng
của người tham gia mua, bán vàng miếng, từ cá nhân tới tổ chức, từ hộ kinh doanh tới các
doanh nghiệp. Hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện tự do tại khoảng 12.000
doanh nghiệp kinh doanh vàng, dẫn đến vàng miếng dần dần trở thành phương tiện thanh
toán, khó quản lý. Mỗi khi giá vàng biến động mạnh thì thị trường lại trở nên “hỗn loạn”,
người dân đổ xô đi mua vàng bất kể khi giá đang tăng mạnh hay xuống thấp nhằm lướt
sóng kiếm lời, đẩy một lượng tiền lớn đi vào thị trường vàng mà không tạo ra giá trị gia
tăng cho nền kinh tế. Ngoài ra còn xảy ra tình trạng, khi giá vàng thế giới biến động
mạnh, nhiều đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ gây khan hiếm cung giả tạo, đồng thời
tung tin đồn gây nên các “cơn sốt vàng” làm cho người dân đổ xô đi mua vàng. Khi
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới ở mức trên 400 nghìn
đồng/lượng, trên thị trường thường xuất hiện tình trạng nhập khẩu vàng lậu. Để ổn định
thị trường trong giai đoạn này, hàng năm Ngân hàng nhà nước phải cho phép nhập khẩu
bình quân khoảng 50-60 tấn vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng (nhập lậu cũng
khoảng 50-70 tấn). Toàn bộ lượng ngoại tệ để nhập khẩu vàng được lấy từ nền kinh tế.
Do vậy, nhập khẩu vàng trên quy mô lớn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ giá, CPI, sự
ổn định kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô Dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Chính vì không còn phù hợp với tình hình hiện tại, để quản lí hoạt động kinh

doanh vàng miếng trên thị trường một cách hiệu quả, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của
Thủ tướng Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã được ban hành.
 Về quản lí sản xuất, gia công vàng miếng:

Nhà nước giữ độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu
vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; kể từ ngày 25/05/2012 không tổ chức, cá nhân
nào được quyền sản xuất vàng miếng. Đây là biện pháp quan trọng để kiểm soát chặt chẽ
hoạt động sản xuất vàng miếng, lượng cung vàng miếng trên thị trường đảm bảo chất


lượng vàng miếng cho người dân và ngăn chặn tình trạng sản xuất vàng miếng từ vàng
nguyên liệu nhập lậu cũng như tạo điều kiện để kiểm soát vàng nhập lậu.
Căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và cung cầu vàng miếng trên thị trường,
Ngân hàng Nhà nước sẽ tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết
định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp
trong từng thời kỳ. Ngày 23/8/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết
định số 1623/QĐ-NHNN về việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng. Theo Quyết
định này, NHNN giao Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vàng bạc đá quý Sài
Gòn – SJC (Công ty SJC) gia công vàng miếng cho NHNN. Tuy nhiên, Công ty SJC
không được tiếp tục sản xuất vàng miếng mà chỉ được gia công vàng miếng SJC 99.99%
cho NHNN theo chỉ đạo của NHNN về hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng
nguyên liệu để tổ chức sản xuất vàng miếng và dưới sự quản lý, giám sát chặt chẽ của
NHNN. Ngân hàng nhà nước cũng sẽ quản lý về khuôn và máy dập vàng miếng, giám sát
đối với hoạt động gia công vàng miếng và phân công trách nhiệm cụ thể giữa các đơn vị
thuộc NHNN trong việc quản lý hoạt động gia công vàng miếng của Công ty SJC.
Như vậy, thị trường vàng miếng Việt Nam từ nửa cuối năm 2012 đến nay chỉ còn một
nhà sản xuất vàng miếng duy nhất là NHNN và chỉ còn 1 thương hiệu vàng miếng quốc
gia do NHNN lựa chọn là vàng miếng SJC, 6 thương hiệu vàng miếng khác đã không còn
tồn tại. Với tư cách là đơn vị đại diện cho Nhà nước độc quyền nhập khẩu vàng nguyên
liệu và sản xuất vàng miếng, về mặt pháp lý, NHNN trở thành đơn vị cung cấp vàng

miếng duy nhất cho thị trường vàng trong nước.
 Về quản lí hoạt động mua bán vàng miếng:

Hoạt động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện tại các tổ
chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh
mua, bán vàng miếng.


Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán
vàng miếng khi đáp ứng đủ 5 điều kiện:
1

Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;

2

Có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên;

3

Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 2 năm trở
lên;

4

Có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên
trong 2 năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan thuế);

5


Có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trở lên.

Tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép kinh doanh mua,
bán vàng miếng khi đáp ứng đủ 3 điều kiện sau:
1

Có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng trở lên;

2

Có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng;

3

Có mạng lưới chi nhánh tại Việt Nam từ 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trở lên.

Các địa điểm kinh doanh mua, bán vàng miếng được cấp phép phải niêm yết công khai
giá mua, giá bán vàng miếng; chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán,
lập và sử dụng hóa đơn, chứng từ, chất lượng, mẫu mã và thường xuyên được thanh tra,
kiểm tra.
Các kết quả đạt được:


Hiện nay, đã thiết lập được một mạng lưới mua bán vàng miếng mới, có tổ chức, có quản
lý, gồm 38 tổ chức tín dụng và doanh nghiệp có đủ điều kiện được Ngân hàng Nhà nước
cấp phép kinh doanh vàng miếng, với gần 2.500 điểm giao dịch ở tất cả 63 tỉnh, thành
phố trong cả nước. Mạng lưới các địa điểm kinh doanh mua, bán vàng miếng được công
bố công khai, rộng rãi trên trang tin điện tử chính thức của NHNN cũng như các phương

tiện thông tin đại chúng. Những đơn vị chưa được cấp phép kinh doanh, mua bán vàng
miếng sẽ chỉ được mua bán vàng trang sức hoặc chuyển đổi sang loại hình kinh doanh
khác. Cửa hàng nào không có giấy phép kinh doanh vàng miếng mà vẫn mua bán vàng
miếng sẽ bị phạt tiền từ 50 đến 100 triệu đồng theo Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ban
hành năm 2011... Đến nay, quyền sở hữu, tích trữ, mua, bán vàng miếng hợp pháp của
người dân được bảo vệ, hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng trên thị trường diễn
ra thông suốt, ổn định, quyền lợi hợp pháp của người dân được đảm bảo và bảo vệ.
Cùng với việc quản lí cấp phép hoạt động kinh doanh vàng miếng cho các đơn vị
kinh doanh vàng miếng, để đảm bảo cân đối cung – cầu vàng miếng trên thị trường,
NHNN đã triển khai giải pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua hình thức đấu
thầu bán vàng miếng nhằm tăng cung ra thị trường (về việc mua, bán vàng miếng trực
tiếp và mua, bán vàng miếng qua hình thức đấu thầu giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) và tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Quyết định số
563/QĐ-NHNN).
Hoạt động đấu thầu vàng miếng đã được NHNN tiến hành phiên đầu tiên vào ngày
28/3/2013 và phiên cuối cùng vào ngày 31/12/2013. Có thể nói với việc liên tục tổ chức
các phiên đấu thầu vàng trong năm 2013 (76 phiên đấu thầu với 69,9 tấn vàng được bán
thành công), NHNN đã cân đối được cung - cầu trên thị trường, giúp các NHTM tất toán
trạng thái vàng, loại bỏ nguy cơ rủi ro cho hệ thống, đồng thời khiến giới đầu cơ không
còn nhiều cơ hội cũng như mong muốn hoạt động. Sau thời hạn tất toán vàng vào ngày
30/6/2013, quy mô của các đợt đấu thầu vàng miếng giảm dần, đồng thời giá vàng trong
nước cũng hạ nhiệt và đến cuối năm 2013 đã giảm xuống dưới mức 35 triệu đồng/lượng.
Bước sang năm 2014, giá vàng dao động xung quanh mức này và NHNN cũng chưa thực


hiện thêm một phiên đấu thầu vàng miếng nào căn cứ vào sự ổn định của giá vàng trong
nước.
Cùng với những thay đổi về mặt tổ chức hoạt động, diễn biến giá vàng miếng
trong nước cũng có nhiều điểm khác biệt giữa hai thời kỳ trước và sau khi Nghị định 24
ra đời. Giai đoạn trước khi Nghị định 24 ra đời, giá vàng tăng nhanh liên tục với mức độ

biến động khá mạnh từ khoảng 20 triệu đồng/lượng năm 2008 lên gần 29 triệu
đồng/lượng (2009), xấp xỉ 37 triệu đồng/lượng (2010) và đặc biệt lên tới 49 triệu
đồng/lượng (2011). Tuy nhiên, sau một thời gian Nghị định 24 đi vào cuộc sống, đặc biệt
là từ sau thời điểm 30/6/2013, giá vàng trong nước đã diễn biến theo xu thế giảm dần và
sau đó duy trì quanh mốc 35 - 36 triệu đồng/lượng trong 2 năm 2013 - 2014, mức độ biến
động giá vàng đã giảm hẳn.
2.2.2. Thực trạng QLNN về TM với hoạt động kinh doanh vàng trang sức mỹ nghệ
Vàng trang sức, mỹ nghệ là hàng hoá đặc biệt, có giá trị, là một kênh đầu tư cho người
dân và được coi là tài sản quý trong mỗi gia đình Việt Nam. Vàng trang sức là những
món đồ không thể thiếu trong các dịp lễ lớn của người Việt như cưới hỏi, các dịp lễ tết....
Do đó, nhu cầu tiêu thụ vàng trang sức ở Việt Nam luôn ở mức cao (đứng thứ 15 trên thế
giới chiếm gần 2% trong tổng cầu) và luôn có xu hướng gia tăng trong tương lai cùng với
sự phát triển của thị trường vàng Việt Nam.
Trước năm 2012, mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chung về hoạt động
kinh doanh vàng, song chưa có quy định cụ thể về quản lý chất lượng, đo lường đối với
vàng trang sức, mỹ nghệ. Do đó, thị trường kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ còn bị
buông lỏng quản lý. Đây cũng chính là kẽ hở trong hoạt động kinh doanh vàng.
Để nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh vàng, ngày 03
tháng 4 năm 2012 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về Quản lý hoạt
động kinh doanh vàng. Đồng thời giao Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chủ
trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện ban hành tiêu chuẩn chất lượng đối với
vàng trang sức, mỹ nghệ; kiểm tra, thanh tra và quản lý chất lượng đối với vàng trang


sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị trường và kiểm định phương tiện đo lường của các doanh
nghiệp kinh doanh vàng. Ngày 26 tháng 9 năm 2013, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban
hành Thông tư số 22/2013/TT-BKHCN, Quy định về quản lý đo lường trong kinh doanh
vàng và quản lý chất lượng vàng trang sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị trường, có hiệu
lực từ ngày 01/6/2014 (gọi tắt Thông tư 22).
Theo Nghị định 24, hoạt động kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức và kinh doanh

vàng trên tài khoản đều được ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý. Để kinh doanh vàng
trang sức, mỹ nghệ, ngoài các điều kiện cần thiết lâu nay, như đóng mã ký hiệu, hàm
lượng vàng trên sản phẩm, công bố tiêu chuẩn, giá mua, giá bán và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường..., tại Điều 5 của Nghị định 24
còn nêu rõ, hoạt động kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ phải thành lập DN, thay vì các
cá nhân, hộ kinh doanh như trước. DN này phải được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy
chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; có địa điểm, cơ sở vật chất và
các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
Thông tư 22 đưa ra các quy định, yêu cầu đối với việc quản lý đo lường và chất lượng
vàng trang sức, mỹ nghệ như tiêu chuẩn công bố áp dụng, ghi nhãn đối với vàng trang
sức, mỹ nghệ; về nguyên tắc lấy mẫu và phương pháp thử nghiệm xác định hàm lượng
vàng; về chỉ định tổ chức thử nghiệm xác định hàm lượng vàng; về chế độ thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm trong kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ... Vàng trang sức,
mỹ nghệ (gọi tắt vàng) chỉ được phép lưu thông trên thị trường khi đã Công bố tiêu chuẩn
áp dụng và ghi nhãn theo quy định tại Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
Chính phủ về Nhãn hàng hóa. Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý đo lường và chất lượng vàng, đồng thời quy định các điều kiện
quản lý nghiêm ngặt đối với các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh
vàng.
Ngoài ra, trong năm 2014, NHNN phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai
các biện pháp tuyên truyền, phổ biến Thông tư 22/2013/TT-BKHCN quy định về quản lý


đo lường trong kinh doanh vàng và chất lượng vàng trang sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị
trường, giải đáp vướng mắc và tạo dư luận đồng thuận với mục tiêu Nhà nước. Với quy
định của Thông tư 22, vàng trang sức phải đúng tiêu chuẩn, hàm lượng vàng mới được
lưu thông trên thị trường, thị trường sẽ không còn tình trạng gian lận tuổi vàng và người
có vàng trang sức không còn chịu cảnh “mua đâu bán đó”. Tuy nhiên, từ khi Thông tư 22
ra đời thì chưa có tổ chức nào công nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của vàng, do
vậy tình trạng gian lận tuổi vàng diễn ra phổ biến. Nhiều phản ảnh cho biết, khi người

dân mua vàng được tính theo tuổi vàng cao, nhưng khi có nhu cầu cần bán thì chỉ bán cho
chính cơ sở mình đã mua, nếu bán cho cơ sở khác sẽ bị định giá tuổi vàng thấp hơn so
với thực tế tuổi vàng ghi trên sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ khi mua vào. Nhiều loại
nhẫn, dây chuyền vàng được nhà sản xuất công bố hàm lượng vàng 75% nhưng thực tế
chỉ 70%-73%. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làm ăn gian lận thì hưởng lợi, còn người
tiêu dùng bị thiệt hại, đồng thời gây ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp kinh doanh vàng
làm ăn chân chính. Điều này cũng làm cho doanh nghiệp sản xuất vàng nữ trang không
tin tưởng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp khác, khiến người mua vàng của tiệm
nào phải bán lại cho tiệm đó. Trước thực trạng đó, mới đây văn phòng Công nhận Chất
lượng (BOA) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã công nhận phòng thí nghiệm chất
lượng sản phẩm vàng của Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đạt chứng chỉ công nhận
quốc tế ISO/IEC 17025, trong đó công nhận phương pháp đo tuổi vàng tại ACB phù hợp
với các tiêu chuẩn Việt Nam. Đầu năm 2015, Công ty PNJ là đơn vị thứ ba được Nhà
nước cho phép mở dịch vụ kiểm định vàng trang sức trên thị trường, phân định tranh
chấp về tuổi vàng giữa khách hàng và các tiệm vàng. Từ giữa tháng 5-2015, cơ quan
quản lý Nhà nước đã bắt đầu tiến hành kiểm tra chất lượng vàng trang sức trên diện rộng,
đưa thị trường vàng trang sức hoạt động theo đúng quy định của Nghị định 24 và Thông
tư 22.
Nghị định 24, đặc biệt là Thông tư 22 với mục tiêu chấn chỉnh lại thị trường bán lẻ trang
sức vàng đã hỗ trợ đắc lực cho những DN làm ăn bài bản như PNJ, SJC… và góp phần
giúp người tiêu dùng thêm cơ hội lựa chọn được những sản phẩm uy tín, chất lượng cao.


Người tiêu dùng được đảm bảo quyền lợi và đỡ lo ngại tình trạng “nhập nhèm” độ tuổi và
giá vàng. Các cửa hàng mỹ nghệ bán vàng nữ trang thiếu tuổi, không công bố hàm lượng
vàng từng sản phẩm, trọng lượng vàng sẽ bị phạt nặng. Do vậy từ ngày 1 tháng 6 năm
2014, khi Thông tư số 22 có hiệu lực thi hành, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh
vàng đều lo lắng. Vì trước đó, chất lượng vàng chưa được thống nhất quản lý, khi thực
hiện Thông tư số 22 số lượng vàng còn tồn kho của các tiệm vàng buộc phải niêm yết
công khai tiêu chuẩn công bố áp dụng và kết quả kiểm tra, thử nghiệm hàm lượng vàng

theo đúng quy định. Thực hiện tốt Thông tư 22 không chỉ người tiêu dùng mua được
vàng đúng tuổi theo chất lượng được công bố mà còn góp phần xây dựng thị trường kinh
doanh vàng lành mạnh, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp làm ăn chân
chính.
2.2.3. Đối với hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản
Tại Việt Nam, trong thời gian dài, hoạt động kinh doanh vàng như mua bán vàng trang
sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như các
loại hàng hóa khác, phần lớn doanh nghiệp kinh doanh vàng là mua bán vàng trang sức,
mỹ nghệ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh vàng
diễn ra khá ổn định và hầu như không ảnh hưởng đến việc điều hành CSTT của NHNN.
Tuy nhiên, từ năm 2006 đến nay, giá vàng thế giới biến động theo xu hướng ngày càng
tăng và vàng trở thành hàng hóa đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng và hấp
thụ một lượng tiền khổng lồ, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế và hiệu quả điều
hành CSTT. Ngoài hoạt động kinh doanh truyền thống, giá vàng tăng mạnh đã thúc đẩy
sự hình thành các loại hình kinh doanh vàng với qui mô ngày càng lớn, điển hình là các
sàn giao dịch vàng.
Về hoạt động của các sàn vàng, sàn giao dịch vàng đầu tiên tại Việt Nam là sàn giao dịch
vàng của Ngân hàng Á Châu, được hình thành vào ngày 25/5/2007 với tên gọi ban đầu là
Trung tâm giao dịch vàng Sài gòn và gồm 9 thành viên, là các NHTM và doanh nghiệp
kinh doanh vàng quy mô lớn. Từ tháng 12/2007, sàn giao dịch này mở rộng sang các
khách hàng cá nhân. Từ đó, khối lượng giao dịch trên sàn đã gia tăng đột biến. Do nhu


cầu tham gia giao dịch vàng của các cá nhân tăng mạnh và sức hấp dẫn về lợi nhuận thu
được từ việc tổ chức sàn giao dịch vàng, nhiều NHTM và một số doanh nghiệp kinh
doanh vàng đã thành lập các sàn giao dịch vàng như sàn giao dịch vàng của các NHTM
Việt Á, Phương Nam, Đông Á, Sacombank, sàn vàng Phố Wall, sàn vàng Thế giới.
Từ năm 2006, kinh doanh vàng đã không dừng lại ở trong nước, mà tiếp tục vươn ra
nước ngoài sau khi nhà nước cho phép các doanh nghiệp kinh doanh vàng được kinh
doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Chính sách quản lý của nhà nước về việc hoạt

động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài đã được quy định đầy đủ trong Quyết
định 03/2006/QĐ-NHNN ban hành ngày 18/01/2006. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh
vàng này thời gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế. NHNN đánh giá, hoạt động kinh
doanh sàn vàng hay còn gọi là kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước cũng như
hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài là loại hình kinh doanh chênh
lệch giá mà ngay cả trên thế giới cũng đánh giá là loại hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro rất
cao cho cả nhà đầu tư và cho chính các đơn vị kinh doanh sàn vàng. Hơn nữa, hoạt động
kinh doanh sàn vàng không phải là hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra giá trị gia
tăng cho nền kinh tế. Mà ngược lại, một khối lượng vốn lớn được rút ra từ hoạt động sản
xuất kinh doanh để phục vụ cho các giao dịch kinh doanh vàng trên sàn vàng. Báo cáo
của NHNN còn chỉ ra, do các sàn giao dịch vàng tự đề ra quy chế giao dịch và do các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân, chưa nhận biết rõ các rủi ro có thể gặp phải khi
kinh doanh vàng trên tài khoản, thời gian qua đã xảy ra những tranh chấp, khiếu kiện
giữa nhà đầu tư và đơn vị tổ chức sàn. Điều này tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn
kinh tế xã hội. Với những lý do trên, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu không tổ chức và
thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức.
Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày có thông báo (từ 30/12/2009 đến 30/3/2010), mọi hoạt
động liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở
trong nước phải chấm dứt hoạt động. ngày 6/1 /2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ký ban hành Thông tư số 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN
ngày 18/2/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và Quyết định số


11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/3/2007 về sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động này.
Thông tư số 01/2010/TT-NHNN quy định các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang
kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài phải chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh
vàng trên tài khoản ở nước ngoài kể từ ngày 6/1/2010, trừ các giao dịch để tất toán, đóng
tài khoản kinh doanh vàng nói trên. Các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng đang kinh
doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài có trách nhiệm tất toán, đóng các tài khoản kinh
doanh vàng ở nước ngoài trước ngày 30/3/2010. Các giấy phép kinh doanh vàng trên tài

khoản nước ngoài Ngân hàng Nhà nước đã cấp cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp
theo Quyết định số 03 và Quyết định số 11 sẽ hết hiệu lực kể từ ngày 30/3/2010.
2.2.4. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng
Theo thông lệ quốc tế hiện nay, vàng với ba chức năng là hàng hóa (sử dụng cho sản
xuất, chế tác, kinh doanh), phương tiện lưu giữ giá trị và phương tiện thanh toán, được
phân làm hai loại: vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ, hay còn gọi là vàng hàng hóa.
Vàng tiền tệ là vàng do các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ sở hữu và nắm giữ
làm tài sản dự trữ quốc gia. Nếu cơ quan này mua, bán vàng với cơ quan điều hành chính
sách tiền tệ của nước khác hoặc một tổ chức tiền tệ quốc tế thì giao dịch này không được
thống kê vào xuất nhập khẩu hàng hóa.Vàng phi tiền tệ là vàng ở các dạng đã hoặc chưa
gia công (thanh, thỏi, bột, vảy…) được xuất nhập khẩu bởi các doanh nghiệp, ngân hàng
thương mại cho mục đích sản xuất, kinh doanh, lưu giữ giá trị, được tính vào thống kê
xuất nhập khẩu hàng hóa.Việc phân chia vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ được áp dụng
trong hoạt động xuất nhập khẩu vàng ở Việt Nam.
Căn cứ vào mã HS của hàng hóa trong Biểu thuế của hàng hóa xuất nhập khẩu, có
thể nhận thấy cách phân loại này: Trong mã HS 71.08 - Vàng (gồm cả vàng mạ bạch
kim) chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm hoặc dạng bột bao gồm:
-

7108.11: Dạng bột


-

7108.12: Dạng chưa gia công khác

-

7108.13: Dạng bán thành phẩm khác


-

7108.20: Dạng tiền tệ

Số liệu thống kê xuất nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2010 – 2013:
Bảng 1: Trị giá Xuất khẩu vàng của Việt Nam năm 2010-1013 theo mã HS
Tên nước

Mã HS

Đơn
tính

Nhật Bản

710811

Hà Lan

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Triệu USD -

-

0.4


0.8

710812

Triệu USD 0.4

-

-

-

Hàn Quốc

710812

Triệu USD 0.2

0.1

-

-

Hồng Kông

710812

Triệu USD 0.2


-

-

-

Mỹ

710812

Triệu USD 0.6

0.8

0.1

-

Nhật Bản

710812

Triệu USD -

-

-

0.1


Ô-xtray-li-a

710812

Triệu USD 0.2

0.8

-

-

Slo-va-ki-a

710812

Triệu USD 0.8

0.4

-

-

Thụy Sĩ

710812

Triệu USD 31.0


58.8

84.5

74.1

Xoa-di- len

710812

Triệu USD 0.5

-

-

-

Đài Loan

710813

Triệu USD 0.4

0.1

0.3

-


Nhật Bản

710813

Triệu USD 2.4

1.7

1.3

1.8

62.7

86.6

76.8

Tổng

vị Năm 2010

36.7

Nguồn: Tổng cục thống kê


Qua số liệu thống kê dễ dàng thấy được giá trị của lượng vàng xuất khẩu của Việt
Nam ra nước ngoài trong giai đoan 2010-2013 tăng qua các năm: từ mức 36,7 triệu USD

năm 2010 lên mức 76,8 triệu USD năm 2013. Vàng xuất khẩu chủ yếu là vàng chưa gia
công, lượng vàng thành phẩm xuất khẩu chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng giá trị
vàng xuất khẩu. Thụy Sỹ là thị trường tiêu thụ phần lớn vàng xuất khẩu của Việt Nam.
Theo lý thuyết, xuất khẩu vàng mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Tuy nhiên, khi
xem xét tổng thể thì cần phải xét đến cán cân xuất nhập khẩu loại hàng hóa đặc biệt này,
bởi vì Việt Nam cũng thực hiện nhập khẩu vàng từ nước ngoài.

Bảng 2: Trị giá Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2010- 2013 theo mã HS
Tên nước

Mã HS

Đơn vị tính

Năm 2010 Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Nhật Bản

710811

Triệu USD

-

-


-

1.5

710812

Triệu USD

10.7

17.0

13.2

12.0

710813

Triệu USD

0.2

0.6

1.5

2.4

Áo


710812

Triệu USD

-

8.9

-

-

Ma lai xi a

710812

Triệu USD

-

-

0.2

1.2

Nam Phi

710812


Triệu USD

-

73.3

-

-

Đài Loan

71081

Triệu USD

0.1

-

-

-

Ôstraylia

710813

Triệu USD


3.6

-

-

710812

Triệu USD

52.5

378.6

14.2

14.6

710813

Triệu USD

-

0.1

0.1

2.2


710812

Triệu USD

0.1

0.2

0.5

0.7

710812

Triệu USD

12.0

14.6

6.3

6.3

Sin ga po

Pháp


710813


Triệu USD

0.3

0.2

2.9

4.1

710812

Triệu USD

51.2

17.3

13.4

14

710813

Triệu USD

-

-


1.0

0.3

Italia

710812

Triệu USD

-

-

0.6

-

Hồng Kông

710813

Triệu USD

0.3

-

-


-

710813

Triệu USD

-

-

-

-

710812

Triệu USD

7.6

1.2

2.5

2.6

710813

Triệu USD


0.2

-

-

-

710812

Triệu USD

-

0.1

-

-

Các tiểu VQ 710812
ả-rập

Triệu USD

8.1

12.8


20.5

32.4

Canada

710812

Triệu USD

0.6

0.6

0.8

0.9

Trung Quốc

710812

Triệu USD

0.8

1.5

0.2


Thụy Sỹ

710812

Triệu USD

637.3

1472.7

0.1

0.3

710813

Triệu USD

121.2

-

-

-

710813

Triệu USD


9.1

-

-

-

915.9

1999.7

78

95.5

Hàn Quốc

Mỹ

Ấn Độ

Sát
Tổng

Nguồn: Tổng cục thống kê
Không giống như xu hướng xuất khẩu vàng, thị trường vàng nhập khẩu có nhiều biến
động lớn. Từ năm 2011 sang năm 2012, lượng vàng nhập khẩu sụt giảm rất mạnh từ tống
giá trị 1999,7 triệu USD xuống chỉ còn 78 triệu USD. Việt Nam cũng nhập khẩu vàng
chủ yếu từ Thụy Sỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Ả Rập, Ô-stray-li-a ở dạng chưa gia công

và dạng thành phẩm. Nếu trước đây Việt Nam có giá trị nhập khẩu vàng lơn hơn xuất


khẩu vàng rất nhiều thì tình trạng này đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần
đây, do đó đã giảm được sức ép nhập siêu lên cán cân thanh toán của quốc gia.
Cùng với sự phát triển trong kỹ thuật khai thác và chế biến, gia công vàng từ quặng,
việc khai thác và chế biến vàng trong nước ngày càng mang lại hiệu quả cao, giảm áp lực
phải nhập khẩu vàng từ nước ngoài. Các chính sách về suất nhập khẩu vàng cũng được
các cơ quan Nhà nước sử dụng hiệu quả trong việc điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu
vàng, góp phần bình ổn thị trường trong nước. Cụ thể nhất là chính sách thuế nhập khẩu
-

và thuế xuất khẩu loại hàng hóa đặc biệt này:
Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu đối với vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước (Bộ tài
chính ban hành ngày 6/5/2013);
Theo đó, đối tượng được miễn thuế là vàng nguyên liệu xuất nhập khẩu của Ngân
hàng Nhà nước trực tiếp hoặc uỷ thác xuất nhập khẩu. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước
uỷ thác cho doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng thực hiện việc xuất nhập khẩu vàng
nguyên liệu, việc miễn thuế xuất nhập khẩu áp dụng theo số lượng cụ thể vàng nguyên
liệu dự kiến xuất nhập khẩu.
Thời gian tiến hành xuất khẩu, nhập khẩu và danh sách các đơn vị được Ngân hàng
Nhà nước ủy thác việc xuất khẩu, nhập khẩu trong từng thời kỳ do Ngân hàng Nhà nước
công bố bằng văn bản. Căn cứ quy định nêu trên và pháp luật về quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, Ngân hàng Nhà nước quy định điều kiện và quy trình, thủ tục chọn lựa
doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được uỷ thác xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Đối với chính sách thuế xuất khẩu, Nghị định 87/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, vàng nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài khi xuất trả
sản phẩm cho phía nước ngoài được miễn thuế xuất khẩu. Vàng nhập khẩu để sản xuất
xuất khẩu không phải nộp thuế xuất khẩu đối với vàng xuất khẩu có đủ điều kiện xác

định là được chế biến từ toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu.
Về chính sách thuế nhập khẩu, vàng nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài được
miễn thuế nhập khẩu. Vàng nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu, nếu đã nộp thuế nhập khẩu
thì được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu.


×