Tải bản đầy đủ (.ppt) (31 trang)

VI. Hình ảnh X quang tiểu tràng VI. Hình ảnh X quang tiểu tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 31 trang )


VI. Hình ảnh X quang tiểu tràng
6.1. Kỹ thuật khám X quang tiểu tràng
- Phương pháp cổ điển: bệnh nhân nhịn ăn sáng, uống
baryte từng ngụm đặc từ 15 – 25ml. Chiếu - chụp
nhiều phim, mỗi phim cách nhau 30 phút kết hợp với
ép nắn để tách các quai ruột ra, cho đến khi thuốc tới
manh tràng, thường sau 6 – 8 giờ.
- Phương pháp chụp lưu thông qua ống thông tá tràng:
sau khi đặt ống thông tá tràng, bơm thuốc baryte dưới
áp lực của máy bơm. Chiếu dưới màn tăng sáng và
chụp hàng loạt để theo dõi lưu thông của thuốc qua
toàn bộ ruột non đến hồi manh tràng.


6.2. Hình ảnh tiểu tràng bình thường
- Định khu ruột non: các quai hỗng tràng cuộn lại
dưới mạn sườn trái, dưới bờ cong lớn dạ dày;
các quai hồi tràng sắp xếp ở vùng hạ vị và hố
chậu phải.
- Hình thái: hỗng tràng có khẩu kính 2 - 3cm, các
nếp niêm mạc xếp rất sát nhau và rất mịn, tạo
nên hình “lá dương xỉ”. Hồi tràng nhỏ hơn, khẫu
kính từ 1 – 2 cm, các nếp niêm mạc ít hơn.



6.3. Dấu hiệu bất thường ở tiểu tràng
- Các dây chằng và dính phúc mạc: một hoặc
nhiều quai ruột kết dính, hội tụ về một điểm co
kéo, tạo ra một số quai giãn, một số quai xẹp lại.


- Các khối u trong lòng ruột non: tạo ra hình
khuyết và là nguyên nhân gây lồng ruột.
- Loét hoặc u thâm nhiễm: tạo nên những đoạn
hẹp ngắn lệch trục ở hỗng tràng, là biểu hiện
của u thượng bì. Ổ loét lớn tạo ra ảnh giả túi
thừa hoặc thâm nhiễm dạng pô líp, lan rộng cho
đến hồi tràng trong trường hợp lymphosarcome.


- Bệnh Crohn hay viêm đoạn cuối hồi tràng: đặc
trưng bởi hình ảnh hẹp các quai ruột, bờ có gai,
cứng mất nhu động từng đoạn. Diễn tiến thành
từng đợt liên tiếp lan rộng lên cao. Áp xe và dò
là biến chứng của bệnh này. Hiếm hơn ta có thể
gặp bệnh này ở các đoạn khác của ống tiêu hoá.


Tuỳ theo vị trí tổn thương của khối u, ta có thể khái quát như sau:
Niêm mạc
Dưới niêm
Xuyên thành
Pô líp
Carcinoid
Adenocarcinome



VII. Hình ảnh X quang đại tràng
7.1. Kỹ thuật khám đại tràng
Chụp một phim bụng không chuẩn bị tư thế nằm ngửa,

sau đó chuẩn bị một bock barit ấm đặt cao hơn 40cm
so với mặt bàn, luồn canul có nhánh vào hậu môn.
Cho barit vào dần, theo dõi dưới màn huỳnh quang
hoặc tăng sáng truyền hình, để tìm tư thế thích hợp,
giảm thiểu phim chụp, giảm liều nhiễm xạ cho cả
thầy thuốc và bệnh nhân.


7.2. Hình ảnh đại tràng bình thường
Chiều dài của toàn bộ khung đại tràng từ 1,2 – 1,5m.
Manh tràng: túi cao 6cm, di động, có lỗ của ruột thừa, trên 2cm là lỗ
hồi tràng, được khép kín bằng van Bauhin.
Đại tràng lên: cố định, dài 8 – 15cm
Đại tràng ngang: dài 40 – 70cm, gồm 2 phần, phần phải ngắn, cố
định; phần trái dài di động.
Đại tràng xuống gồm hai phần:
- Đại tràng lưng chậu dài khoảng 20cm, từ góc lách đến eo trên, có
mạc nối dính vào mặt sau.
- Đại tràng chậu hoặc sigma, di động,
Trực tràng: ở mặt trước S3 cho đến hậu môn, hai phần:
- Phần chậu: chếch xuống dưới và ra trước: bóng trực tràng.
- Phần tầng sinh môn: chếch xuống dưới và ra sau. Ống hậu môn dài
và rộng khoảng 3cm, giới hạn bởi một ngấn gọi là van Houston..


Khung đại tràng giống một giải
Ruban có bờ nhiều ngấn đối
xứng. Ở giữa 2 nếp thắt có một
ngấn Haustra cách nhau 1cm, sâu
0,5cm, nối các ngấn Haustra có 3

giải niêm mạc chạy dọc. Các ngấn
Hautra nhiều và sâu ở bên phải
và đại tràng ngang (hình đàn gió)
hơn bên trái và sigma.



7.3. Hình ảnh bất thường ở đại tràng
7.3.1. Các dấu hiệu cơ năng
- Các ngấn Hautra (ngấn ngang) của đại tràng có
thể:
+ Giảm về số lượng hay độ sâu dẫn đến hình ống
thẳng trên một hay nhiều đoạn. Nếu hình ảnh
này tồn tại thường xuyên phản ánh tình trạng
viêm nhiễm của đại tràng,


+ Tăng số lượng ngấn và chiều sâu đó là hình
chồng đĩa tức là hình ảnh rối loạn co thắt.
- Trương lực đại tràng: tăng trương lực làm cho
khung đại tràng hẹp và ngắn lại;
đại tràng rộng và dài khi giảm trương lực.
- Vận động của đại tràng: thể tích bình thường của
đại tràng khoảng 1 - 1,5 lít, đó là dung tích mà
khi thụt vào đại tràng không phản ứng lại. Trong
trường hợp đại tràng dễ bị kích thích hoặc tăng
vận động thường có xu hướng chống lại sự thụt
nước vào bằng cách co thắt từng đoạn và bài
xuất sớm.



7.3.2. Các tổn thương thực thể
- Những bất thường về kích thước: dài đại tràng có
thể là do thể tạng, bấm sinh. Ngược lại ngắn đại
tràng thường do mắc phải như viêm mạn.
- Những bất thường ở bờ và bề mặt:
+ Bờ mờ: không sắc nét là biểu hiện của viêm
niêm mạc đại tràng, bề mặt bị phủ một lớp nhầy
hoặc mủ máu.
+ Bờ nham nhở hình gai hoặc hình “cúc áo” là biểu
hiện của những ổ loét nhỏ nông hoặc s 턐 ᢢ.


+ Hình khuyết của các khối u lành tính có bờ tròn đều,
khá thường xuyên trên nhiều phim, có hình dạng thay
đổi, chỗ bám, có cuống hoặc không: u tuyến, u mỡ,
políp, myome, schwanome, hoặc có bờ không đều.u
nhung mao, u sùi.
+ Hình khuyết hẹp của các khối u ác tính có bờ nham
nhở, nhiễm cứng, không thay đổi qua các tư thế chụp,
hình hẹp lệch trục hoặc hẹp đột ngột có góc giới hạn,
hoặc đáy của hình khuyết có thể có hình ổ loét dạng
thấu kính.
+ Hình khuyết giả: là những hình khuyết không tồn tại
thường xuyên, mất đi khi thay đổi tư thế hoặc ép nắn:
đó là những hình chèn ép từ bên ngoài vào hạơc ổ
đọng thức ăn, những cục máu đông.


7.4. Các bệnh lý đại tràng thường gặp

7.4.1. Dị dạng do xoay dở khung đại tràng
Về phôi thai học, vào tuần thứ 5 quai ruột nguyên thuỷ
hình chữ U nằm ngoài ổ bụng theo mặt phẳng trước
sau trong cuống rốn, đến tuần thứ 9 thì quay ngược
chiều kim đồng hồ 900, đưa mầm manh tràng và đại
tràng lên về phía trái, mầm tiểu tràng qua phải.
Trước tuần thứ 12 thì quai ruột quay thêm 1800 nữa,
đưa mầm manh tràng và đại tràng lên qua phải và
mầm tiểu tràng qua phía trái.


Nếu trong quá trình xoay này, các quai ruột chỉ dùng
lại ở giai đoạn 1 thì trên phim ta sẽ thấy toàn bộ
các quai tiểu tràng ở bên phải ổ bụng, đai tràng lên
và đai tràng ngang xếp thành quai đôi ở bên hạ
sườn trái. Đây là bệnh lý mạc treo chung.
Nếu quai ruột quay dở trong giai đoạn 2 thì manh
tràng nằm dưới gan và dính với thành bên ổ bụng
bởi dây chằng Ladd. Dây chằng này sẽ đè lên tá
tràng gây hẹp tắc tá tràng dưới bóng Vater ở trẻ sơ
sinh. Lúc này chụp bụng không chuẩn bị sẽ thấy 2
mức hơi nước lệch nhau: một ở trên của dạ dày,
một ở dưới của tá tràng. Nếu chụp khung đại tràng
có cản quang sẽ thấy manh tràng ở dưới gan.


7.4.2. Phình to đại tràng
- Phình to đại tràng bẩm sinh: còn gọi là bệnh
Hirschprung. Chẩn đoán bằng chụp đại tràng có
ba rít, xác định được đoạn hẹp có hay không,

dài hay ngắn.
- Phình to đại tràng thứ phát: gặp ở người lớn
hoặc thiếu niên, nguyên nhân chưa rõ. Trên
hình ảnh ta thấy đại tràng sigma giãn rất to,
thụt tháo sạch đại tràng trở lại bình thường, vài
ngày sau sẽ giãn to trở lại.


7.4.3. Các khối u lành tính của đại tràng
Gồm u tuyến, u mỡ, cơ, xơ, thần kinh
(schwannome)… Trên hình ảnh là các hình
khuyết sáng tròn hoặc bầu dục, bờ đều, rõ nét.
Pô líp thường khu trú ở vùng trực tràng sigma có
thể đơn độc hoặc thành từng đám. Chụp đại
tràng đối quang kép, đó là những hình khuyết
sáng rải rác hoặc tập trung như hình chùm nho,
có viền ba rít bao quanh.



7.4.4. Ung thư đại tràng
Thường là k biểu mô tuyến hay gặp ở trực tràng,
đại tràng sigma (70-75%), trên hình ảnh ta có
thể thấy như sau:
- Thể sùi vào lòng: biểu hiện là các hình khuyết bờ
không đều, rõ nét, đáy rộng và cứng.
- Thể thâm nhiễm: tổ chức K nhiễm cứng nham
nhở, hẹp, lệch trục đột ngột.
- Thể loét: là hình ảnh sớm của K tuyến
(adenocarcinoma) biểu hiện là hình loét thấu

kính trên thành đại tràng.





×