Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

hệ thống thuế quốc tế đối với vị trí của các công ty con nước ngoài của các công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.87 KB, 32 trang )

hệ thống thuế quốc tế đối với vị trị của các công ty con nước ngoài của
các công ty đa quốc gia
Mục lục
Tóm tắt............................................................................................................... 1
1.
2.
3.
4.
5.

Giới thiệu......................................................................................................1
Hệ thống thuế quốc tế..................................................................................6
Dữ liệu công ty đa quốc gia.........................................................................14
Kết quả thực nghiệm về thuế và vị trí công ty con....................................20
Kết luận........................................................................................................31

Tóm tắt


Sử dụng một bộ dữ liệu lớn ở cấp độ công ty quốc tế, chúng tôi xem xét các tác
động riêng biệt của thuế nước chủ nhà và thuế tính thêm của nước công ty mẹ lên quyết
định vị trí của công ty đa quốc gia. Các loại thuế được ước tính có tác động tiêu cực về vị
trí của các công ty con mới thành lập ở nước ngoài. Tác động của hệ thống đánh thuế ở
nước công ty mẹ được ước tính khá lớn phù hợp với tính chất phân biệt quốc tế. Kết quả
cho thấy rằng hệ thống thuế kép của nước công ty mẹ là nguyên nhân trong việc hình
thành cấu trúc của công ty đa quốc gia, mặc dù có khả năng của việc hoãn thuế cho đến
khi thu nhập được chuyển về nước.
Từ khóa:
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế chuyển lợi nhuận
Cổ tức


Quyết định vị trí
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Công ty đa quốc gia
1. Giới thiệu.
Với sự toàn cầu hóa và việc loại bỏ dần các rào cản thương mại, số lượng các công
ty phát triển các hoạt động quốc tế ngày càng gia tăng. Để xâm nhập vào thị trường nước
ngoài, các công ty đối mặt với lựa chọn giữa sản xuất hàng hóa để xuất khẩu và sản xuất
ở nước ngoài. Một loạt các nhân tố thuế và phi thuế tác động đến những quyết định xem
xét có nên di chuyển sản xuất ra nước ngoài không. Trong số các nhân tố phi thuế có quy
mô của thị trường nước ngoài, triển vọng tăng trưởng của thị trường nước ngoài, mức
lương và năng suất nước ngoài, môi trường quản lý và pháp luật nước ngoài, khoảng cách
đối với nước công ty mẹ (xem Görg và Greenaway (2004), Barrios và cộng sự (2005) và
Mayer và Ottaviano (2007) cho ý kiến gần đây). Tác động của thuế đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) là chủ đề của nhiều bài nghiên cứu lớn (xem lại De Mooij and
Ederveen (2006) và Devereux và Maffini (2007)).
2


Các nghiên cứu về tác động của hệ thống thuế lên quyết định vị trí FDI kiểm tra một
cách tổng quát thuế của nước chủ nhà để loại trừ khả năng đánh thuế tính thêm từ nước
công ty mẹ. Đóng góp của bài nghiên cứu này là xem xét tác động của thuế ở nước chủ
nhà và nước công ty mẹ lên quyết định vị trí công ty đa quốc gia. Như cấp độ đầu tiên
của thuế, nước chủ nhà có thể áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập của
công ty con nước ngoài tại địa phương. Ngoài ra, nước chủ nhà có thể đánh thuế chuyển
lợi nhuận không cư trú đối với thu nhập của công ty con tại thời điểm chuyển thu nhập về
công ty mẹ. Nhưng thuế không nhất thiết phải dừng lại ở mức độ nước chủ nhà. Nước
công ty mẹ có thể tiếp tục chọn để đánh thuế thu nhập doanh nghiệp lên nguồn thu nhập
nước ngoài thuộc công ty đa quốc gia cư trú dẫn đến đánh thuế quốc tế hai lần. Chúng tôi
xem xét tác động độc lập ở ba cấp độ của thuế đối với các quyết định vị trí của các công
ty đa quốc gia châu Âu trong giai đoạn 1999-2003. Đặc biệt, chúng tôi xem xét ba cấp độ

của hệ thống thuế tác động như thế nào lên việc chọn vị trí của công ty con mới thành
lập ở nước ngoài.
Chúng tôi đã thu thập thông tin chi tiết về thuế của nước công ty mẹ tương tác song
phương như thế nào với thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi nhuận không cư
trú tại nước chủ nhà. Đặc biệt, chúng tôi sử dụng thông tin về việc có hay không các quốc
gia đánh thuế thu nhập lên các công ty đa quốc gia của họ trên cơ sở phạm vi toàn cầu và
liệu các khoản tín dụng thuế nước ngoài chỉ áp dụng cho thuế chuyển lợi nhuận không cư
trú hay còn chịu thuế doanh nghiệp tiềm ẩn ở nước chủ nhà (Ví dụ, tại Mỹ). Để thay thế
cho các loại thuế trên phạm vi toàn cầu, các nước công ty mẹ có thể miễn một phần hoặc
toàn bộ nguồn thu nhập nước ngoài từ việc đánh thuế. Ví dụ, Đức miễn trừ 95% nguồn
thu nhập nước ngoài cho các công ty đa quốc gia của Đức.
Dữ liệu về cấu trúc của các công ty đa quốc gia châu Âu và đặc biệt về vị trí công ty
con mới thành lập ở nước ngoài, được lấy từ cơ sở dữ liệu Amadeus. Bộ dữ liệu này cho
phép chúng ta xem xét các công ty đa quốc gia cư trú tại một tập hợp các quốc gia, mỗi
quốc gia có khả năng có các công ty con nước ngoài từ nhiều quốc gia khác. Vì vậy,
không giống như các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này xem xét việc lựa chọn vị trí
3


các công ty đa quốc gia trên một bộ đa phương N bởi N quốc gia. Ngoài việc là phương
pháp tiếp cận sáng tạo, khuôn khổ công ty đa quốc gia này là cần thiết để đạt được đủ
biến trong thuế tính thêm ở nước công ty mẹ (tương quan không cao với hệ thống thuế
thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà) để có thể ước lượng riêng biệt tác động của nó
đối với những quyết định vị trí quốc tế.
Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng hệ thống đánh thuế thu nhập doanh nghiệp ở
nước chủ nhà và thuế tính thêm ở nước công ty mẹ đều ngăn cản vị trí của công ty con
nước ngoài trong một quốc gia cụ thể. Trong ước lượng chuẩn của chúng tôi, đã ước tính
tác động tiêu cực của hai loại thuế - bắt nguồn từ thông tin theo luật thuế - về quy mô
bằng nhau. Phát hiện của chúng tôi có vai trò trọng yếu đối với thuế tính thêm ở nước
công ty mẹ trong việc đánh thuế công ty con ở nước ngoài là hoàn toàn mới và đáng ngạc

nhiên. Nhiều quốc gia cho phép những khoản thuế đánh vào nguồn thu nhập nước ngoài
của công ty mẹ được hoãn đến khi cổ tức được chuyển về nước, làm giảm phạm vi ảnh
hưởng cho những khoản thuế này đến quyết định vị trí. Tương tự, chúng tôi phát hiện vị
trí các công ty con nước ngoài và kết quả của mẫu hình sở hữu quốc tế của các công ty
con thì nhạy cảm với thuế tính thêm ở nước công ty mẹ. Các công ty đa quốc gia hoạt
động trên một động lực rõ ràng để mang lại một mô hình sở hữu quốc tế của các công ty
con, đó là hiệu quả của thuế quốc tế.
Chúng tôi thực hiện một số kiểm định tính vững để hiểu rõ hơn về vai trò của thuế
của nước chủ nhà và nước công ty mẹ trong việc xác định vị trí công ty con nước ngoài.
Chúng tôi thấy rằng quyết định vị trí của các công ty con nước ngoài có lợi nhuận cao thì
ít phản ứng với hệ thống thuế của nước chủ nhà và nước công ty mẹ hơn so với quyết
định vị trí của các công ty con nước ngoài có lợi nhuận thấp, có lẽ vì lợi nhuận cao phản
ánh vị trí hoặc chủ sở hữu đặc biệt bị triệt tiêu bởi một vị trí thay thế hoặc chủ sở hữu
quốc gia. Hơn nữa, lựa chọn vị trí của các công ty con nước ngoài với tài sản cố định thấp
thì đáp ứng tốt hơn cho hệ thống thuế của cả nước chủ nhà và nước công ty mẹ. Điều này
có thể phản ánh rằng tài sản cố định cao là một rào cản đối với việc lựa chọn một vị trí
địa lý thay thế. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện thấy việc quyết định ví trí tương đối nhạy
4


cảm với hệ thống thuế kép quốc tế, bao gồm thuế tính thêm ở nước công ty mẹ, nếu nước
có công ty mẹ không cho phép hoãn nguồn thu nhập nước ngoài cho tới khi khoản cổ tức
được chuyển về nước.
Những nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp lên vị
trí các công ty đa quốc gia nhìn chung ít chú ý tới vai trò của thuế ở nước công ty mẹ. Ví
dụ: Devereux and Griffith (1998) nghiên cứu làm thế nào thuế của nước chủ nhà ảnh
hưởng tới việc quyết định vị trí công ty con của các công ty đa quốc gia Mỹ ở một số
nước châu Âu lớn (Pháp, Đức, Anh) trong giai đoạn 1980-1994. Họ phát hiện ra rằngđiều kiện lựa chọn ví trí sản xuất ở nước ngoài - thuế suất có hiệu lực trung bình của
nước chủ nhà (không phải là thuế suất hiệu lực biên) thì quan trọng trong quyết định lựa
chọn vị trí ở nước ngoài, ngay cả khi hệ thống thuế không xuất hiện để tác động đến sự

lựa chọn trước đó đối với vị trí ở nước ngoài hay xuất khẩu. Buettner và Ruf (2007) lần
lượt tìm ra việc lựa chọn vị trí của công ty đa quốc gia Đức trên 18 quốc gia chủ nhà tiềm
năng 1996 - 2003 thì bị ảnh hưởng nhiều bởi thuế suất theo luật định ở nước chủ nhà hơn
là thuế suất hiệu lực trung bình, trong khi họ thấy không có tác động của thuế suất hiệu
lực biên.
Một số tác giả, tuy trước đây đã tìm thấy vai trò của thuế tính thêm ở nước có công
ty mẹ tác động đến vị trí của FDI. Đối với công ty đa quốc gia Mỹ, Kemsley (1998) tìm
thấy rằng thuế nước chủ nhà chỉ tác động đến tỷ số xuất khẩu của Mỹ để sản xuất ra nước
ngoài trong giai đoạn 1984-1992 nếu các công ty đa quốc gia thấy bản thân họ trong tình
trạng dư thừa tín dụng1. Tương tự, vai trò của hệ thống thuế ở nước công ty mẹ ảnh
hưởng đến FDI đi vào Mỹ được tìm thấy bởi Hines (1996), đã cho thấy nước ngoài với hệ
1 Công ty đa quốc gia của Mỹ là đối tượng chịu thuế trên toàn thế giới tại Mỹ. Do đó, họ phải nộp thuế ở

Mỹ đối với thu nhập nước ngoài của họ, tùy thuộc vào việc cung cấp một khoản tín dụng thuế nước ngoài
cho khoản thuế đã nộp ở nước sở tại. Khoản tín dụng thuế nước ngoài, trong thực tế, đã giới hạn số tiền
thuế của Mỹ đánh trên thu nhập từ nước ngoài. Điều này ngụ ý rằng toàn bộ thuế thu nhập nước ngoài là
khoản thuế nước sở tại nếu thuế suất này vượt quá thuế của Hoa Kỳ, trong khi nó là thuế của Hoa Kỳ nếu
thuế này là cao hơn. Thuế của Mỹ trong nguồn thu nhập nước ngoài có thể được hoãn lại cho đến khi thu
nhập được được chuyển về nước.

5


thống thuế toàn cầu đầu tư tương đối nhiều trong các bang ở Mỹ với thuế suất bang cao.
Điều này phản ánh rằng các công ty đa quốc gia nằm ở các quốc gia với hệ thống thuế
toàn cầu có thể thu được tín dụng thuế nước ngoài cho thuế thu nhập doanh nghiệp Mỹ.
Altshuler and Grubert (2001) đánh giá những tác động của một chuyển đổi mang tính giả
thuyết đến việc miễn thuế cổ tức bởi Mỹ để giải quyết, ngược lại, không có bằng chứng
cho thấy sự thay đổi sẽ ảnh hưởng thiết yếu việc quyết định vị trí quốc tế của các công ty
đa quốc gia Mỹ. Egger và cộng sự (2009) xây dựng thuế suất hiệu lực trên cơ sở song

phương để phản ánh tổng thể hệ thống thuế của nước chủ nhà và nước chủ đầu tưvà thấy
rằng thuế suất hiệu lực song phương có tác động tiêu cực đối với chứng khoán FDI song
phương sau khi kiểm soát mức thuế suất hiệu lực đơn phương cho nước chủ nhà và nước
công ty mẹ2. Tuy nhiên, không bài nghiên cứu nào nghiên cứu về quyết định vị trí của
công ty trong bộ đa phương N bởi N quốc gia cũng như chúng tôi đã làm.
Sử dụng thông tin M&A quốc tế, Huizinga và Voget (2009) thấy rằng mẫu hình sở
hữu quốc tế xuất hiện đã phản ánh nỗ lực tránh hệ thống thuế kép quốc tế đánh lên nguồn
thu nhập từ nước ngoài. Desai và Hines (2002) cho rằng hệ thống thuế kép được áp dụng
ở Mỹ có thể giải thích hiện tượng đảo ngược hiện nay của các công ty đa quốc gia Mỹ,
trong đó công ty mẹ ban đầu ở Mỹ trở thành công ty con và công ty con nước ngoài trước
đây lại trở thành công ty mẹ mới. Voget (2011) thấy rằng một công ty đa quốc gia có khả
năng sẽ chuyển trụ sở chính của nó ra nước ngoài, nếu ở quốc gia công ty mẹ - nơi công
ty tọa lạc - thuế đánh lên nguồn thu nhập từ nước ngoài cao. Bằng chứng khác về tác
động của hệ thống thuế kép quốc tế lên cấu trúc của công ty đa quốc gia, thì phù hợp với
mẫu hình vị trí của công ty con ở nước ngoài, là mẫu hình tránh hệ thống thuế tính thêm
của nước công ty mẹ, như được thấy trong bài viết này. Huizingaa và cộng sự (2012) đã
chứng minh rằng hệ thống thuế kép quốc tế được kích hoạt bởi M&A quốc tế, tận dụng
quy mô vốn hóa lớn để mua lại với giá thấp hơn. Điều này cũng cho thấy hệ thống thuế
2 Thuế hồi hương lớn có thể ảnh hưởng đến hành vi của các công ty đa quốc gia. Desai và cộng sự (2001)

phân tích tác động của thuế hồi hương đến việc chi trả cổ tức bởi các công ty con nước ngoài của các
công ty đa quốc gia Mỹ thì thấy rằng tỷ lệ hồi thuế thấp hơn 1% thì có liên quan đến chia cổ tức cao hơn
1%.

6


kép quốc tế là gánh nặng kinh tế của các công ty đa quốc gia, từ đó tạo động lực thúc đẩy
việc hình thành các công ty con ở nước ngoài để chịu thuế ở quốc gia mẹ thấp hơn.
Ở cấp độ lý thuyết, Hartman (1985) tiến hành phân biệt giữa các chi nhánh nước

ngoài “trưởng thành” được tài trợ từ khoản dự trữ của lợi nhuận giữ lại và các chi nhánh
nước ngoài “chưa trưởng thành” dựa vào nguồn tài trợ từ công ty mẹ. TSSL đòi hỏi của
chi nhánh được thể hiện để phản ánh hệ thống thuế của quốc gia công ty mẹ chỉ khi nó
chưa trưởng thành. Vì vậy, hệ thống thuế của quốc gia công ty mẹ thì đặc biệt quan trọng
đối với các công ty con mới thành lập ở nước ngoài, điều này được xem xét trong bài viết
này.
Trong phần còn lại của bài viết này, chúng tôi nêu Phần 2: mô tả cách tính thuế thu
nhập từ nguồn thu nhập ở nước ngoài của các công ty đa quốc gia. Phần 3: thảo luận về
dữ liệu ở cấp độ công ty. Phần 4: trình bày ước lượng về tác động của hệ thống thuế quốc
tế lên vị trí của các công ty con ở nước ngoài. Cuối cùng, Phần 5: kết luận
2.

Hệ thống thuế quốc tế

Phần này mô tả hệ thống thuế doanh nghiệp áp dụng đối với các công ty đa quốc gia
có công ty con ở nước ngoài. 3 Xem xét một công ty đa quốc gia với công ty mẹ tọa lạc ở
nước chủ đầu tư p và một công ty con tọa lạc ở quốc gia chủ nhà s. Cả nước chủ đầu tư
và quốc gia chủ nhà đều đánh thuế lên thu nhập của công ty con. Thứ nhất, quốc gia chủ
nhà đánh thuế thu nhập doanh nghiệp lên khoản thu nhập này với mức thuế suất Bảng 1
thể hiện mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định của 33 quốc gia Châu
Âu trong mẫu của chúng tôi vào năm 2003.4 Mức thuế suất luật định này dựa trên lợi
nhuận được phân phối gồm thuế địa phương và phụ phí được áp dụng. Trong mẫu của
3 Xem Huizinga và cộng sự (2008) mô tả chi tiết hơn về hệ thống thuế doanh nghiệp được áp dụng cho

các công ty đa quốc gia. Nghiên cứu này giới hạn tác động của thuế cổ tức quốc tế lên quyết định ví trị
đầu tư, mặc dù các hình thức thu nhập bị đánh thuế là khác nhau, chẳng hạn như thu nhập từ bản quyền
hay tiền lãi, nhưng chúng cũng có ảnh hưởng quan trọng trong việc chọn vị trí tọa lạc của công ty
4 Với mục đích minh họa, các bảng chỉ trình bày dữ liệu về thuế năm 2003, mặc dù chúng tôi đã thu thập

được toàn bộ dữ liệu này cho giai đoạn 1999 -2003


7


chúng tôi, mức thuế suất công ty năm 2003 dao động từ 12.5% ở Ireland đến 39.6% ở
Đức.
Bảng 1
Hệ thống thuế công ty và các biện pháp giảm thuế kép đánh lên cổ tức nhận được ở các
quốc gia Châu Âu năm 2003

Ghi chú: Thuế suất thuế doanh nghiệp biểu thị thuế suất thuế doanh nghiệp theo luật định
bao gồm thuế và phụ phí địa phương. Thuế suất thuế doanh nghiệp đánh lên thu nhập giữ lại
theo luật định ở Estonia là 0%, nhưng thuế phân phối là 26% được áp dụng trên lợi nhuận phân
phối. Thuế suất thuế doanh nghiệp của Pháp bao gồm phụ phí xã hội 3% và phụ phí đặc biệt
3,3% cho các công ty lớn. Mức thuế suất thuế doanh nghiệp của Đức bao gồm một khoản phụ
phí phụ thuộc là 5,5%, thuế thương mại trung bình khấu trừ 16,14% và một phụ phí đặc biệt là
1,5%. Mức thuế suất thuế doanh nghiệp của Hungary bao gồm thuế doanh nghiệp địa phương
được khấu trừ. Mức thuế suất thuế doanh nghiệp của Ireland áp dụng đối với hoạt động kinh
doanh. Đối với các hoạt động phi thương mại, tỷ lệ này là 25%. Mức thuế suất thuế doanh
nghiệp của Luxembourg bao gồm phụ phí lao động và thuế địa phương. Thuế suất thuế doanh
nghiệp của Thụy Sĩ áp dụng cho các bang Zurich và bao gồm thuế bang và địa phương ở Zurich.

8


Cách áp dụng đối với cổ tức nước ngoài dựa trên quy ước giảm thuế kép được quy định bởi
nước công ty mẹ. Công ty con nước ngoài được giả định là thuộc sở hữu hoàn toàn. Hệ thống tín
dụng gián tiếp áp dụng đối với cổ tức nước ngoài từ các nước trong hiệp ước Ba Lan miễn là số
cổ phần đang nắm giữ ít nhất 75% trong 2 năm qua và có tồn tại một hiệp ước song phương
hoặc quy định EU về công ty mẹ-công ty con được áp dụng. Tại Bồ Đào Nha, cổ tức nước ngoài

chuyển từ các nước hiệp ước được miễn thuế doanh nghiệp nếu công ty mẹ - công ty con các
quốc gia châu Âu được áp dụng, nhưng thuế chuyển lợi nhuận nước ngoài thì không được khấu
trừ, ở một số nước, thu nhập cổ tức được miễn thuế lên đến một tỷ lệ nhất định, trong ngoặc đơn.
Nguồn: International Bureau of Fiscal Documentation.

Tiếp theo, quốc gia chủ nhà đánh thuế chuyển lợi nhuận không cư trú với mức thuế
suất lên thu nhập chịu thuế ròng của công ty con dựa vào khoản thu nhập chuyển về
nước cho công ty mẹ. Bảng 2 cung cấp thông tin về mức thuế suất của thuế chuyển lợi
nhuận áp dụng đối với cổ tức được các công ty con thuộc sở hữu hoàn toàn chuyển cho
công ty mẹ không ở cùng một quốc gia năm 2003. Ví dụ, cổ tức của công ty con Belgian
chuyển cho công ty mẹ của nó tọa lạc ở Estonia sẽ chịu khoản thuế chuyển lợi nhuận với
mức thuế suất 25%, trong khi với khoản cổ tức này nếu nó được chuyển từ công ty con
Estonian qua công ty mẹ Belgian thì chịu mức thuế suất 0%. Thuế suất thuế chuyển lợi
nhuận đối với các giao dịch liên quan đến hai nước thành viên liên minh EU hiện nay là
0% theo mô hình công ty mẹ - công ty con của EU.5
Bảng 2:
Thuế suất thuế chuyển cổ tức song phương ở châu Âu vào 2003.

5 Lưu ý rằng năm 2003, trước khi gia nhập, nhiều thành viên mới của EU vẫn duy trì thuế suất khác 0%

đối với các nước EU và ngược lại

9


10


Bảng 2 (tiếp theo)


11


Ghi chú: Tỷ lệ thuế chuyển lợi nhuận áp dụng đối với việc trả cổ tức bởi công ty con
thuộc sở hữu hoàn toàn hiệp ước thuế song phương được đưa vào tài khoản.quy định về công ty
mẹ - con được ràng buộc giữa các nước thành viên EU và áp dụng miễn thuế từ thuế chuyển lợi
nhuận nếu cổ phần nắm giữ ít nhất là 25%. Những con số báo cáo giả định cổ phần nắm giữ ở
công ty con ít nhất là 25%. Tại Ireland, các công ty con thuộc sở hữu của công ty mẹ thường trú
tại các nước EU hoặc điều ước quốc tế được miễn thuế từ thuế chuyển lợi nhuận được áp dụng
khi họ không thuộc thẩm quyền của người không cư trú tại các quốc gia như vậy. Ở Ý, các cơ
quan có thể cung cấp một khoản hoàn lại số thuế yêu cầu giới hạn 4/9 số thuế chuyển lợi nhuận
Ý nếu người nhận có thể chứng minh đã nộp khoản thuế đánh lên cổ tức tại quốc gia của mình.
Ở Luxembourg có sự miễn thuế từ thuế chuyển lợi nhuận cho EU và các đối tác hiệp ước nếu
nắm giữ ít nhất 10% trong công ty thường trú tại Luxembourg. Nguồn: International Bureau of
Fiscal Documentation.

Thuế chuyển lợi nhuận đánh lên cổ tức ròng chuyển về nước cho công ty mẹ tuân
theo nguyên tắc đánh thuế của nước công ty mẹ - tùy vào những hình thức giảm thuế kép
được đề xuất bởi mô hình Hiệp định thuế OECD hay được quy định bởi mô hình công ty
mẹ - công ty con của EU. Một số quốc gia thực hiện hệ thống miễn thuế. Trong trường
hợp này, cổ tức không bị đánh thuế ở quốc gia công ty mẹ nếu đáp ứng đủ điều kiện được
miễn thuế. Mức thuế suất quốc tế tổng thể mà công ty con phải chịu được tính theo công
thức:

Trong các trường hợp khác, nước chủ đầu tư có thể đánh thuế lên thu nhập khắp thế
giới của công ty đa quốc gia của mình và chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trên khoản cổ
tức mà công ty này nhận được với thuế suất . Nhìn chung, tín dụng thuế nước ngoài được
áp dụng cho các khoản thuế nộp tại nước chủ nhà, thường giới hạn số thuế đánh lên
nguồn thu nhập nước ngoài nộp tại nước chủ đầu tư. Một số quốc gia áp dụng hệ thống
tín dụng thuế gián tiếp, theo đó cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi nhuận

nộp tại nước chủ nhà đều được khấu trừ vào thuế thu nhập doanh nghiệp nộp tại nước
công ty mẹ. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của nước công ty mẹ
là , cao hơn thuế suất tổng thể của nước chủ nhà là , công ty nộp thuế thu nhập ở nước
12


chủ đầu tư với mức thuế suất là để cộng lại được thuế suất hiệu lực là . Nếu ngược lại
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của nước chủ đầu tư thấp hơn thuế suất tổng thể
của quốc gia chủ nhà thì công ty có khoản tín dụng thuế nước ngoài vượt quá mức và
không phải nộp thêm thuế ở nước chủ đầu tư(được giảm nghĩa vụ thuế ở nước chủ đầu
tưbằng 0 do áp dụng tín dụng thuế nước ngoài). Trong trường hợp này, cộng lại, thuế suất
hiệu lực là . Tóm lại, đối với hệ thống tín dụng thuế gián tiếp của quốc gia sở tại, khi
cộng lại, mức thuế suất hiệu lực sẽ bằng max [].
Nước chủ đầu tưcó thể giới hạn tín dụng thuế nước ngoài chỉ còn thuế chuyển lợi
nhuận không cư trú của quốc gia chủ nhà bằng cách tăng cường hệ thống tín dụng thuế
trực tiếp. Trong trường hợp này, công ty đa quốc gia phải nộp thuế ở nước chủ đầu tư với
mức thuế suất là chênh lệch giữa và và cộng lại, thuế suất hiệu lực được tính bằng công
thức:

Ngoài ra, một số nước chủ đầu tư không thực hiện miễn thuế và tín dụng thuế nước
ngoài đối với khoản thuế nộp ở nước ngoài, thay vào đó, cho phép thuế nước ngoài được
khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty trong nước. Đối với việc áp dụng với hệ
thống khấu trừ này khi cộng lại, thuế suất hiệu lực là .
Cuối cùng, chúng tôi trình bày tất cả các trường hợp đặc biệt còn lại không áp dụng
giảm thuế kép. Với hệ thống thuế kép hoàn toàn, khi cộng lại, thuế suất hiệu lực sẽ trở
thành .
Cột 3 và 4 trong Bảng 1 cho thấy những hệ thống giảm thuế kép của các quốc gia
EU trong mẫu. Như nhìn thấy trong bảng, các quốc gia áp dụng hệ thống giảm thuế kép
khác nhau cho các đối tác ký hiệp định và chưa ký hiệp định. Vì vậy, chúng ta cần biết có
tồn tại các hiệp định thuế kép giữa các quốc gia trong mẫu hay không. Trên cơ sở song

phương, thông tin này được trình bày trong Bảng 3 với giá trị bằng 1 nếu hiệp định tồn
tại và bằng 0 nếu không tồn tại. Bảng chỉ ra rằng đối với nhiều quốc gia, mạng lưới hiệp
định chưa hoàn chỉnh. Ví dụ, năm 2003, Cộng hòa Séc có một hiệp định với tất cả các
13


quốc gia trong mẫu ngoại trừ Malta và Thổ Nhĩ Kỳ. Từ bảng 1, chúng tôi thấy rằng điều
này có nghĩa là cổ tức từ tất cả các công ty con nước ngoài chuyển về công ty mẹ ở Cộng
hòa Séc đều có lợi từ hệ thống tín dụng thuế gián tiếp, trừ cổ tức chuyển từ công ty con ở
Malta hay Thổ Nhĩ Kỳ là nơi áp dụng hệ thống khấu trừ
Thông tin từ Bảng 1 – 3 cho phép chúng ta tính toán thuế suất hiệu lực kết hợp đánh
lên cổ tức nước ngoài đối với cặp nước chủ đầu tư – nhận đầu tư. Để củng cố ý tưởng,
hãy xem xét trường hợp cổ tức được chuyển từ công ty con ở Malta cho công ty mẹ của
nó ở Cộng hòa Séc vào năm 2003. Bảng 1 cho thấy thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
theo luật định ở Malta là 35%. Chúng tôi suy ra từ Bảng 2 rằng lợi nhuận ròng dưới dạng
cổ tức của công ty nước ngoài không bao giờ chịu thuế chuyển cổ tức không cư trú ở
Malta. Như vừa mới đề cập, Bảng 3 chỉ ra rằng hiệp định thuế không có hiệu lực đối với
thu nhập được chuyển từ Malta về Cộng hòa Séc vào năm 2003 vì vậy, từ Bảng 1, chúng
tôi thấy rằng thu nhập từ cổ tức ở nước ngoài được lợi từ hệ thống khấu trừ thuế ở Cộng
hòa Séc. Cuối cùng, bảng tương tự chỉ ra rằng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được
áp dụng ở quốc gia này là 31%. Từ công thức trên, cộng lại, thuế suất hiệu lực bằng 1 –
(1 – 0.35) x (1 – 0) x (1 – 0.31) = 55.2%. Mức thuế suất này cao hơn đáng kể so với thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở Malta là 35%. Điều này cho thấy rằng việc đánh thuế
tính thêm lên các công ty đa quốc gia, với hình thức thuế chuyển lợi nhuận và thuế thu
nhập doanh nghiệp ở nước chủ đầu tư, có khả năng tác động độc lập và đáng kể lên các
quyết định về vị trí đầu tư quốc tế.
Dưới đây, chúng tôi sẽ điều tra tác động độc lập của thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế chuyển cổ tức từ quốc gia chủ nhà về nước và thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước
chủ đầu tư lên các quyết định về vị trí công ty. Để tìm các tham số ước lượng so sánh
giữa các phương pháp đánh thuế, cần thiết xây dựng tất cả ba phương pháp thu thuế dựa

trên một khoản thu nhập trước thuế của công ty con ở nước ngoài. Thuế suất thuế ở nước
chủ nhà được định nghĩa là phần thu nhập trước thuế của công ty con. Phương trình tính
thuế chuyển lợi nhuận về nước của chúng tôi là , phản ánh rằng thuế chuyển lợi nhuận áp
dụng theo thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà cho khoản thu nhập ròng của công
14


ty con. Cuối cùng, thuế thu nhập doanh nghiệp tính thêm ở nước công ty mẹ – như phần
thu nhập trước thuế của công ty con – được tính bằng chênh lệch giữa thuế suất hiệu lực
kết hợp và . Chúng tôi sẽ định nghĩa thuế quốc tế là tổng của thuế chuyển lợi nhuận và
thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước công ty mẹ tính thêm lên, cả hai thể hiện như phần
thu nhập trước thuế của công ty. Từ đó suy ra, thuế quốc tế là chênh lệch giữa thuế hiệu
lực kết hợp và thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà.
Không giống với thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà, thuế chuyển lợi
nhuận và thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ đầu tư được hoãn lại cho đến khi nguồn
thu nhập từ nước ngoài được chuyển về cho công ty mẹ dưới hình thức cổ tức. Hoãn thuế
làm giảm giá trị hiện tại của thuế. Vì vậy, thuế chuyển lợi nhuận và thuế thu nhập doanh
nghiệp ở nước chủ đầu tư dự kiến sẽ “chịu” ít hơn thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước
chủ nhà. Liệu rằng việc hoãn thuế chuyển lợi nhuận và thuế thu nhập doanh nghiệp ở
nước chủ đầu tư có giúp cho việc ra quyết định đầu tư dựa vào các lợi ích thuế vô hình
này hay không sẽ là một vấn đề thực nghiệm. Đây là những điều chúng tôi hướng đến
trong phần thực nghiệm dưới đây.
3.

Dữ liệu công ty đa quốc gia

Dữ liệu về cấu trúc của các công ty đa quốc gia ở châu Âu được lấy từ ngân hàng
dữ liệu Amadeus. Cơ sở dữ liệu này cung cấp dữ liệu kế toán chuẩn và dữ liệu về các mối
quan hệ sở hữu trong các nhóm công ty. 6 Chúng tôi có dữ liệu về công ty đa quốc gia
hoạt động tại 33 quốc gia châu Âu trong những năm 1999-2003. Dữ liệu về quyền sở hữu

cho phép chúng tôi liên kết các công ty ở châu Âu với các công ty con trong nước và các
công ty con ở nước ngoài đặt tại các nước châu Âu khác. 7 Chúng tôi có thông tin quyền
6 Cơ sở dữ liệu được tạo ra bằng cách thu thập dữ liệu được chuẩn hóa từ 50 nhà cung cấp trên toàn châu

Âu. Các nguồn tin địa phương cho những dữ liệu này thường là văn phòng đăng ký của các công ty.
7 Cơ sở dữ liệu Amadeus chỉ chứa thông tin về các công ty ở châu Âu và do đó trong mẫu của chúng tôi

chỉ bao gồm các hoạt động ở châu Âu của các công ty đa quốc gia. Năm 2001, dòng tiền FDI trong khối
EU25 lên tới 54% của tổng các dòng tiền đầu tư ra nước ngoài từ các nước EU25, trong khi dự trữ FDI
trong khối EU25 là 57 % của dự trữ FDI bên ngoài các nước EU25 (theo Eurostat). Vì vậy, các công ty đa

15


sở hữu cho các năm 1999, 2001, và 2003. Một công ty được gọi là một công ty con nếu ít
nhất 50 % cổ phần thuộc sở hữu của một công ty khác. Một công ty con được xem là mới
trong năm thành lập công ty
Bảng 3
Sự tồn tại hiệp ước thuế song phương cho các quốc gia châu Âu vào năm 2003.

quốc gia ở châu Âu hầu hết có dòng FDI nổi bật trong các nước châu Âu khác. Dù sao đi nữa, điều kiện
của chúng tôi ở một địa điểm ở châu Âu của các công ty con nước ngoài mới thành lập có khả năng ảnh
hưởng đến sự nhạy cảm được ước tính của vị trí đến thuế. Cụ thể, bởi điều kiện trên địa bàn châu Âu chứ
không phải là các địa điểm trên toàn thế giới, chúng tôi tăng khả năng được kỳ vọng của các vị trí trong
bất kỳ một quốc gia nào và cũng có tiềm năng nhạy cảm của vị trí đến thuế. Các công ty con mới ở nước
ngoài có xu hướng liên kết lớn đến tài sản chung và vốn của công ty đa quốc gia. Trong ví dụ của chúng
tôi, một công ty con nước ngoài mới thành lập trung bình đại diện cho 23% tài sản và 24 % vốn của các
công ty đa quốc gia được mở rộng bao gồm các công ty con nước ngoài mới thành lập.

16



Trong phân tích tiêu chuẩn của chúng tôi dưới đây, chúng tôi xem xét 909 công ty
con nước ngoài mới thành lập. Thông tin về số lượng công ty mẹ và các công ty con tham
gia vào các vị trí mới được cung cấp trong hình A của Bảng 4. Mẫu tiêu chuẩn của chúng
tôi không bao gồm vị trí mới mà công ty mẹ trở thành một công ty trung gian vì nó là một
công ty con của một công ty mẹ khác. Vương quốc Anh với 115 công ty mẹ mới có hầu
hết là các công ty mẹ mới thành lập, theo sau là Pháp với 84 công ty mẹ mới thành lập.
Mỗi công ty con có một nước chủ đầu tư (nơi công ty mẹ tọa lạc) và nước chủ nhà (nơi
mà công ty con tọa lạc). Đối với mỗi quốc gia, bảng 4 liệt kê số lượng các công ty con
theo nước chủ đầu tư và của nước chủ nhà. Ví dụ, bảng này chỉ ra rằng Pháp, Hà Lan và
Anh là những nước chủ đầu tư tương đối nhiều công ty con. Do đó, có tương đối nhiều
công ty con với một công ty mẹ tại một trong những quốc gia này. Mặt khác, Đan Mạch,
Đức và Vương quốc Anh là nước chủ nhà tương đối nhiều công ty con.
Bảng 4
Hình A: Số lượng công ty mẹ và công ty con được dử dụng trong hồi quy cơ bản

17


Hình B: Bảng tóm tắt các chỉ số thống kê của các biến trong hồi quy cơ bản

Hình C: Ma giữa trận tương quan các biến trong hồi quy cơ bản

Ghi chú: Vị trí công ty con là một biến giả bằng 1 nếu công ty con đươc đặt ở một đất
nước và bằng 0 trong trường hợp ngược lại. Thuế có hiệu lực là tỷ lệ thuế trên thu nhập cổ tức
được tạo ra trong nước chủ nhà có tiềm năng do thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà và
nước chủ đầu tưvà thuế chuyển lợi nhuận của những công ty không có trụ sở ở nước chủ nhà.

18



Thuế quốc tế là khác biệt giữa thuế có hiệu lực và thuế doanh nghiệp của nước chủ nhà. Thuế
nước chủ nhà là thuế thu nhập doanh nghiệp trong quốc gia có công ty con, bao gồm thuế địa
phương và phí có thể. GDP song phương là một tỷ số của GDP trong nước chủ nhà tiềm năng
trên tổng GDP của tất cả các nước chủ nhà tiềm năng. Nước láng giềng là một biến nhị phân
bằng 1 nếu nước chủ nhà và nước chủ đầu tưcó chung đường biên giới. Khác biệt trong chi phí
lao động là logarit của tỷ số chi phí lao động trong nước chủ đầu tưvà chi phí lao động trong
nước chủ nhà. Tự do kinh tế là một chỉ số theo quy mô giữa 0 và 10 phản ánh theo chỉ báo
Fraser của nước chủ nhà tiềm năng, hợp lý của hệ thống pháp luật, không có hàng rào thương
mại và không có kiểm soát giá. Thành viên EU là một biến nhị phân bằng 1 nếu nước nhận đầu
tư là thành viên của liên minh châu âu. Hồi quy cơ bản liên quan đến hồi quy 2 trong bảng 5.
Mức ý nghĩa 5% kí hiệu là *, mức ý nghĩa 1% ký hiệu là **.

Nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo của chúng tôi về địa điểm công ty con ở nước
ngoài nhằm mục đích để dự đoán vị trí của một công ty con mới thành lập ở nước ngoài ở
1 trong 32 nước châu Âu. Biến phụ thuộc, được gọi là vị trí công ty con, mang giá trị 1
nếu một quốc gia cụ thể được chọn như vị trí của một công ty con và ngược lại nó bằng
0.
Thống kê tóm tắt về biến vị trí công ty con, các biến thuế, và một số biến kiểm soát
được cung cấp trong hình B của Bảng 4 (xem bảng A1 trong phần phụ lục cho các định
nghĩa biến và các nguồn dữ liệu). 26.648 quan sát được báo cáo trong bảng là tương tự
nhau về số lượng các quan sát trong hồi quy cơ bản 1 của Bảng 5. 8 Giá trị trung bình của
thuế có hiệu lực tổng thể là 0,35. Thuế có hiệu lực trung bình này là tổng của thuế của
nước chủ nhà trung bình là 0,30 và thuế quốc tế trung bình là 0,05.
Trong số các biến kiểm soát, GDP song phương là tỷ số GDP của một nước chủ nhà
tiềm năng trên tổng GDP của tất cả các vị trí nước ngoài tiềm năng khác (nhưng không
phải trong nước). Biến này nắm bắt quy mô thị trường, và nó được kỳ vọng sẽ có tác
động dương về khả năng vị trí công ty con tại một nước chủ nhà.
8 Lưu ý rằng giá trị trung bình của biến vị trí không chính xác 1/32 là do không có dữ liệu cho một số kết

hợp cụ thể của các quốc gia và năm.

19


Nước láng giềng là một biến giả cho biết có hay không biên giới chung giữa nước
chủ nhà và nước chủ đầu tư. Một biên giới chung thì được kỳ vọng sẽ làm cho vị trí nước
chủ nhà nhiều khả năng hơn.
Sự khác biệt trong chi phí lao động là log của tỷ số chi phí lao động trong nước chủ
đầu tư trên chi phí lao động ở nước chủ nhà, được thể hiện bằng một đồng tiền chung.
Tác động của chi phí lao động cao hơn ở nước chủ nhà về khả năng của vị trí thì không rõ
ràng (xem Kimino và các cộng sự (2007) để xem xét các bằng chứng thực nghiệm). Chi
phí lao động cao hơn ở nước chủ nhà (hoặc một sự chênh lệch thấp hơn trong biến chi phí
lao động) được kỳ vọng sẽ ngăn cản vị trí cho cùng một mức năng suất lao động ở nước
chủ nhà. Ngược lại, chúng có tiềm năng khuyến khích các vị trí trong tầm ảnh hưởng mà
chúng cho thấy kỹ năng và năng suất lao động đáng chú ý mà được tìm kiếm bởi các
công ty đa quốc gia.
Tự do hóa kinh tế là một chỉ số về mức độ lành mạnh của hệ thống pháp luật, không
có rào cản thương mại, không có kiểm soát giá cả và các khoản chuyển giao và trợ cấp
như một phần của GDP. Tự do hóa kinh tế có thể làm một đất nước hấp dẫn như một địa
điểm công ty con.
Cuối cùng, thành viên Liên minh châu Âu là một biến giả thể hiện thành viên EU
của một nước chủ nhà tương lai. Thành viên EU là tín hiệu cam kết theo tiêu chuẩn cấp
cao EU đối phó với các nhà đầu tư nước ngoài, có thể đem lại vị trí cho công ty con. Hơn
nữa, việc thành lập một công ty con tại một nước EU cho phép các công ty ngoài khối
EU thực hiện thương mại tự do trên tất cả các nước EU khác bằng cách tận dụng lợi thế
thị trường chung EU.
Hình C của Bảng 4 cung cấp hệ số tương quan giữa các biến vị trí, thuế và các biến
kiểm soát. Điều thú vị là vị trí có mối quan hệ đồng biến và có ý nghĩa thống kê đến thuế
của nước chủ nhà, nhưng nghịch biến và có ý nghĩa thống kê đến thuế quốc tế. Mối quan

hệ đầu tiên có thể phản ánh rằng các công ty con có xu hướng được đặt ở các quốc gia
lớn hơn, nơi mà có xu hướng thuế thu nhập doanh nghiệp tương đối cao. Trong bảng,
thuế nước chủ nhà thực sự có tương quan dương và có ý nghĩa đến biến GDP song
20


phương như một chỉ số quy mô tương đối của nước chủ nhà. Các mối tương quan nghịch
giữa vị trí và thuế quốc tế có thể phản ánh rằng vị trí công ty con được lựa chọn để giảm
việc bị đánh thuế quốc tế hai lần. Thuế nước chủ nhà và thuế quốc tế có tương quan âm,
có lẽ phản ánh sự vận hành của cơ chế tín dụng thuế nước ngoài.
4.

Kết quả thực nghiệm về thuế và vị trí công ty con

Trong phần này, chúng tôi ước tính tác động của thuế nước chủ nhà và thuế nước
công ty mẹ tính thêm về việc lựa chọn vị trí của một công ty con mới thành lập ở nước
ngoài. Theo ước tính của chúng tôi, chúng tôi giải thích sự lựa chọn vị trí công ty con chỉ
trong năm đầu thành lập để đảm bảo rằng các quan sát về các tập hợp vị trí khác nhau là
độc lập. Chúng tôi đặt điều kiện về một vị trí công ty con nước ngoài và do đó kiểm tra
tác động của thuế quốc tế về lựa chọn vị trí trong số những vị trí cạnh tranh ở nước ngoài.
Mẫu của chúng tôi bao gồm các công ty con mới ở nước ngoài có báo cáo hợp nhất
một trong các năm từ năm 1999 đến năm 2003. Bộ dữ liệu bao gồm 33 nước châu Âu,
trong đó hàm ý rằng đối với một công ty đa quốc gia có trụ sở trong một nước chủ đầu tư
có 32 sự lựa chọn vị trí ở nước ngoài. Theo đó, đối với mỗi công ty con mới thành lập ở
nước ngoài, chúng tôi xây dựng 32 biến nhị phân nhận giá trị 1 nếu vị trí thực tế là ở
quốc gia nước ngoài chính xác và bằng 0 nếu ngược lại. Đối với mỗi vị trí tiềm năng cho
từng công ty con mới thành lập ở nước ngoài, như vậy có một sự lựa chọn nhị phân. Sự
lựa chọn vị trí được giả định là được xác định bởi nhiều mức thuế ở các nước khác nhau
và một loạt các đặc điểm về vị trí hoặc nước khác. 9 Mô hình lựa chọn nhị phân cơ bản
được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận logit có điều kiện của McFadden

(1974, 1976).10 Theo như cách tiếp cận này thì biến giải thích sẽ khác nhau giữa các kết
9 Chú ý rằng chúng tôi giải thích các thay đổi trong cấu trúc công ty bằng mức thuế quốc tế. Các công ty

đang mở rộng có thể phải cần thành lập những công ty con mới thậm chí không có sự thay đổi trong mức
thuế.
10 Mô hình logit có điều kiện áp đặt tiên đề độc lập của các thay thế không liên quan (IIA), nó ngụ ý rằng

việc thêm một lựa chọn thứ ba hoặc thay đổi các đặc tính của một lựa chọn thứ ba không ảnh hưởng đến
lợi thế tương đối giữa bất kỳ hai lựa chọn được xem xét. Như một kiểm tra kỹ lưỡng, chúng tôi đã ước

21


quả khác nhau. Tất cả hồi quy bao gồm các hiệu ứng cố định năm, điều này không được
báo cáo.11 Chúng tôi cũng kiểm soát để có thể phân nhóm các lỗi ở mức độ của nước chủ
nhà tiềm năng khác để cho phép khả năng mà gây sốc đến sự thu hút của các nước chủ
nhà ảnh hưởng nhiều hơn một sự lựa chọn vị trí công ty con đơn nhất.12 Đặc biệt, chúng
tôi đưa ra các sai số chuẩn được hiệu chỉnh phương sai thay đổi để xếp nhóm lại ở cấp độ
của nước chủ nhà.
Trong hồi quy 1 của bảng 5, chúng tôi liên kết vị trí công ty con nước ngoài chỉ để
cho mức thuế hiệu lực. Số lượng quan sát là 26.648 thay vì 29.088 (hoặc 909 công ty con
mới thành lập nhân với 32 nước vị trí tiềm năng) bởi vì thiếu quan sát của biến thuế hiệu
lực đối với một số sự kết hợp của các nước và các năm. Biến thuế hiệu lực với hệ số âm
là -0.87 không có ý nghĩa thống kê. Ước tính tương ứng hiệu lực biên của thuế hiệu lực
về khả năng của vị trí là -0,22, có nghĩa là sự gia tăng một điểm phần trăm tỷ trọng ở mức
thuế hiệu lực (từ mức 0) làm giảm khả năng vị trí khoảng 0,22% .
Bảng 5
Hệ thống thuế và vị trí công ty con nước ngoài. Biến phụ thuộc là vị trí công ty con bằng 1
nếu một công ty con nằm ở một nước và ngược lại bằng 0. Thuế hiệu lực là tỷ lệ thuế thu nhập
cổ tức được tạo ra trong nước công ty con tiềm năng từ thuế thu nhập doanh nghiệp tại nước

tính một mô hình logit được lồng ghép vào điều đó cho phép chúng tôi nới lỏng giả định IIA cho ra các
kết quả phổ biến giống với những điều được báo cáo trong bảng 5 (không được báo cáo).
11 Để có thể ước tính những hiệu lực được cố định năm, chúng tôi xem xét đồng thời một công ty đa quốc

gia lựa chọn vị trí các công ty con nước ngoài của nó như thế nào trong toàn bộ thời gian 1999-2003, hơn
1 năm tại một thời điểm.
12 Khả năng các lựa chọn vị trí công ty đa quốc gia có thể được tương quan cả về địa lý và thời gian đã

được đề xuất trong một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây. Ví dụ, Crozet và các cộng sự (2004) tìm
bằng chứng tác động lan tỏa tích cực ảnh hưởng đến việc lựa chọn vị trí của các công ty Pháp đầu tư ra
nước ngoài cho thấy các công ty đa quốc gia của Pháp tập trung theo địa lý trong một quá trình dần dần
tích tụ và thâm nhập thị trường. Head và Mayer (2004) nghiên cứu các yếu tố quyết định sự lựa chọn vị trí
của các công ty đa quốc gia Nhật Bản ở châu Âu và tìm kiếm một xu hướng tương tự cho các công ty đa
quốc gia này để tập trung lại trong các nước giống nhau.

22


chủ nhà và nước công ty mẹ và thuế chuyển lợi nhuận không cư trú tại nước chủ nhà. Thuế
doanh nghiệp nước chủ nhà là thuế thu nhập doanh nghiệp tại nước công ty con, bao gồm thuế
địa phương và các khoản phụ phí có thể có. Thuế quốc tế là sự khác biệt giữa thuế hiệu lực và
thuế doanh nghiệp nước chủ nhà . Thuế chuyển lợi nhuận là gánh nặng thuế chuyển lợi nhuận
không cư trú được áp đặt bởi nước chủ nhà. Thuế doanh nghiệp tính thêm của nước công ty mẹ
là gánh nặng thuế doanh nghiệp tính thêm được áp đặt bởi nước công ty mẹ sau khi giảm thuế
kép. GDP song phương là tỷ lệ của GDP tại một nước chủ nhà tiềm năng với tổng GDP của tất
cả các nước chủ nhà tiềm năng. Nước láng giềng là một biến nhị phân bằng 1 nếu nước công ty
mẹ và nước chủ nhà tiềm năng có chung biên giới. Sự khác biệt trong chi phí lao động là logarit
của tỷ lệ chi phí lao động trong nước và chi phí lao động ở nước chủ nhà tiềm năng. Tự do kinh
tế là một chỉ số nằm giữa 0 và 10 phản ánh các chỉ số Fraser sau đây của nước chủ nhà tiềm
năng: tính đúng đắn của hệ thống pháp luật, không có rào cản thương mại, không có kiểm soát

giá cả, và chuyển nhượng và các khoản trợ cấp là một phần của GDP. Thành viên EU là một
biến nhị phân bằng 1 nếu nước chủ nhà tiềm năng là một thành viên của Liên minh Châu Âu.
Tất cả các hồi quy bao gồm những hiệu ứng cố định năm mà không được trình bày. Mẫu phản
ánh các quyết định vị trí của các công ty con nước ngoài mới. ước lượng bởi mô hình logit có
điều kiện. Sai số chuẩn được hiệu chỉnh phương sai thay đổi gộp lại ở cấp độ của nước chủ nhà
được ghi trong ngoặc đơn. Hiệu suất biên là độ dốc của đường cong xác suất liên quan đến một
biến bao gồm thuế bằng 0 trong khi các biến giải thích khác được tính trung bình. * biểu thị mức
ý nghĩa 10%, ** là 5%, *** là 1%.

23


Tiếp theo, hồi quy 2 bao gồm một loạt các biến kiểm soát phi thuế và nó cho ra một
hệ số được ước tính cho biến mức thuế hiệu lực -4.29 có ý nghĩa ở mức 1%. Ước tính
tương ứng hiệu lực biên của mức thuế hiệu lực về khả năng của vị trí là -0.78. Trong số
các biến kiểm soát, GDP tương đối của một nước được ước tính để tăng khả năng vị trí
công ty con có ý nghĩa ở mức 1%. Các nước láng giềng cũng có nhiều khả năng có được
các công ty con nước ngoài có ý nghĩa ở mức 1%. Sự khác biệt trong biến chi phí lao
động với một hệ số âm có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, có thể thấy rằng yếu tố mức lương
cao ở các nước chủ nhà tiềm năng được tìm kiếm sau các kỹ năng lao động. Biến quyền
tự do kinh tế và biến thành viên EU có hệ số dương có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức
10% và 1%.13
13 Sự hiện diện của tài sản vô hình hoặc sức mạnh R&D có thể ảnh hưởng như nhau đến sự nhạy cảm của

các quyết định vị trí quốc tế để tính thuế. Bằng chứng mới đây được cung cấp bởi Dischinger và Riedel
(2011) cho thấy thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng đáng kể đến vị trí quốc tế của các tài sản vô hình
đưa ra một sự tái cấu trúc công ty đa quốc gia. Để kiểm tra điều này, chúng tôi phân biệt giữa các công ty
phụ thuộc vào các ngành sức mạnh R&D thấp và trung bình hoặc cao sử dụng thông tin từ bảng niêm yết
OECD khoa học, công nghệ và công nghiệp (xem OECD, 2003). Theo như nguyên tắc phân loại OECD,
các ngành sức mạnh R&D trung bình hoặc cao có chi tiêu R&D vượt quá 2% tổng giá trị gia tăng. Chúng


24


Hồi quy 3 thay thế mức thuế thu nhập doanh nghiệp của nước chủ nhà cho mức thuế
hiệu lực. Các tham số ước tính về biến thuế nước chủ nhà có giá trị -3.42 và có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%. Cùng với điều này, một sự tăng lên một điểm phần trăm trong mức
thuế nước chủ nhà được ước tính để giảm khả năng vị trí khoảng 0.63%. Các biến kiểm
soát trong hồi quy 3 có ý nghĩa giống như trước.
Hồi quy 4 lần lượt bao gồm biến thuế quốc tế phản ánh cả thuế chuyển lợi nhuận
không cư trú và thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước công ty mẹ có hệ số được ước lượng
là -1.87, có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Hiệu lực biên tương ứng của mức thuế quốc tế
về khả năng của vị trí được ước tính tương đối nhỏ với giá trị tuyệt đối 0.19.
Tiếp theo, hồi quy 5 bao gồm chung cả mức thuế nước chủ nhà và mức thuế quốc
tế, các hệ số được ước tính là -4.38 và -3.93, đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, với các
hiệu lực biên được ước tính tương ứng là -0.82 và -0.73.
Cuối cùng, hồi quy 6 chia tách mức thuế hiệu lực thành ba thành phần: mức thuế
thu nhập doanh nghiệp ở nước chủ nhà, mức thuế chuyển lợi nhuận không cư trú và mức
thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước công ty mẹ. Ước tính tham số cho mức thuế nước chủ
nhà và mức thuế thu nhập doanh nghiệp nước công ty mẹ là âm và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%, trong khi đó mức thuế chuyển cổ tức không cư trú có hệ số âm không có ý
nghĩa thống kê. Một sự tăng lên một điểm phần trăm trong các mức thuế nước chủ nhà và
nước công ty mẹ được ước tính để giảm khả năng của vị trí lần lượt là 0.9% và 1.07%,
trong khi đó hiệu lực được ước tính tương tự của thuế chuyển lợi nhuận không cư trú là
0.06%.
Các kết quả của chúng tôi cho thấy rằng thuế nước chủ nhà và thuế nước công ty mẹ
đều đóng vai trò quan trọng trong các lựa chọn vị trí công ty đa quốc gia. Để đánh giá tác
động của những thay đổi mức thuế trong nước chủ nhà và nước công ty mẹ cho các quyết
định vị trí, thì cần nhiều thay đổi thay thế tổng quát cả những biến thuế nước chủ nhà và
tôi ước tính các hồi quy riêng biệt tương tự hồi quy 2 của bảng 5 cho các mẫu của các công ty phụ thuộc

vào hai nhóm ngành, cho thấy các ước tính tham số rất tương tự cho biến mức thuế hiệu lực (không được
báo cáo).

25


×