Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tiểu luận môn xã hội học chuyên biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.1 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng tiện nghi, hiện đại.
Điện thoại, máy tính, mạng internet, các trang mạng xã hội như face book,
block, forum… ngày càng phổ biến đến từng nhà, từng người, mối quan hệ
xã hội ngày càng được kết nối và mở rộng nhưng tại sao song song với sự
phát triển đó thì hiện tượng tự tử < tự sát > ngày càng tăng và đạt đến mức
độ đáng báo động. Điều này càng trở nên nóng hổi hơn bao giờ hết khi hiện
tượng tụ tử lại xảy ra nhiều ở độ tuổ học sinh, sinh viên – thế hệ chủ nhân
của đất nước. Vận dụng những kiến thức đã học được từ môn “ Xã hội học
chuyên biệt” và một số môn học liên quan, dưới sự định hướng của cô giáo
bộ môn: Chu Huyền Yến em đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Bài làm
của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót , rất mong cô giáo có thể đưa ra nhiều
ý kiến góp ý, bổ sung, sửa đổi để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.
2.

3.

Tính cấp thiết của vấn đề
Các thuyết XHH sử dụng trong đề tài
2.1. Thuyết nhu cầu


2.2. Thuyết nhận thức – hành vi
Các khái niệm được sử dụng trong đề tài

II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH
1.

2.

Thực trạng
a. Thực trạng chung
b. Thực trạng tự tử ở học sinh hiện nay
Nội dung chính
2.1. Phân loại
2.2. Những biểu hiện của người sắp tự tử
2.3. Phương thức tự tử
2.4. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân chung
b. Nguyên nhân đặc thù của lứa tuổi học sinh
2.5. Hậu quả
2.6. Áp dụng các thuyết XXH để giải thích vấn đề tự tử và đưa ra định
hướng trong giải quyết vấn đề
a. Thuyết nhu cầu
b. Thuyết nhận thức – hành vi

III: KẾT LUẬN – GIẢI PHÁP
1.
2.

Kết luận
Giải pháp

a. Giải pháp chung
b. Đối với học sinh
2


LỜI KẾT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.

Tính cấp thiết của vấn đề
Mỗi ngày trôi qua, ốm đau, bệnh tật, rủi ro đã cướp đi sinh mạng của
hàng triệu người trên thế giới để lại nỗi đau mất mát không thể gắn liền đối
với gia đình, người thân, bạn bè của những người đã khuất và toàn xã hội.
3


Sinh mạng con người là quý giá và công ơn dưỡng dục của những bậc sinh
thành thì không thể dùng một, hai lời để nói hết. Thế mà hiện tại, mỗi ngày
thế giới lại mất đi hơn 3.000 con người vì lí do tự tử, trong đó có hơn 50% là
học sinh.
Tại Việt Nam, hiện tượng này đang có xu hướng tăng nhanh đặc biệt
trong những năm gần đây. Hàng ngày đài báo, phương tiện truyền thông liên
tục đăng tải các vụ việc, các trường hợp tự tử khác nhau theo nhiều hình
thức khác nhau. Hiện tượng này đã rung lên hồi chuông cảnh báo, thức tỉnh
cho toàn xã hội về trách nhiệm và sự quan tâm lẫn nhau giữa người với
người
Xã hội ngày càng phát triển, tỉ lệ người chết do bệnh tật, nghèo đói đã
giảm đi đáng kể, cuộc sống con người ngày càng hiện đại, tiện nghi. Vậy, tại

sao hiện tượng tự tử lại ngày càng gia tăng ? Và xã hội cần có những giải
pháp như thế nào để giảm thiểu hiện tượng này ? Thật không dễ tìm lời giải
đáp cho vấn đề này.
2.

Các thuyết xã hội học sử dụng trong đề tài
Thuyết nhu cầu của Maslow

2.1.
a)

Tác giả: Đại diện là Maslow
Abraham Maslow sinh ngày 1-4-1908, mất năm 8-5-1970.Ông
là một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người đáng chú ý nhất với
sự đề xuất về Tháp nhu cầu và ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân

b)

văn trong Tâm lý học.
Nội dung:
Theo thuyết nhu cầu của Maslow, con người là một thực thể sinh
– tâm lý xã hội. Do đó, con người có nhu cầu cá nhân cần cho sự sống ( nhu
4


cầu sinh học ) và nhu cầu xã hội. Theo đó ông chia nhu cầu con người thành
5 thang bậc từ thấp đến cao bao gồm: nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu
cầu xã hội, nhu cầu tự trọng và nhu cầu tự khẳng đinh.



Nhu cầu sinh học: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người
như nhu cầu được sống, hít thở, ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn



về tình dục.
Nhu cầu an toàn: An toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có
lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. Là con người, ai
cũng có mong muốn được sống trong thế giới hòa bình, không có chiến
tranh, không có bạo lực, kể cả trong những trường hợp mất kế sinh nhai thì



vẫn được Nhà nước và xã hội bảo vệ và giúp đỡ.
Nhu cầu xã hội ( thuộc vào một nhóm nào đó ): Là con người trong xã hội,
con người có các nhu cầu giao tiếp, nhu cầu yêu thương, chia sẻ. Họ không
muốn sự cô đơn, bị bỏ ra ngoài lề xã hội, họ mong muốn có hạnh phúc gia
đình, sự tham gia và thuộc về một nhóm nào đó ( gia đình, bạn bè, cộng



đồng ).
Nhu cầu được tôn trọng: Nội dung nhu cầu này gồm hai loại là lòng tự trọng
và được người khác tôn trọng.
+ Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có
năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành và
tự hoàn thiện.
+ Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy
tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là
được người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá

nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được



tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con người.
Nhu cầu tự khẳng định, hoàn thiện: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất
trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới,
5


làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành
được mục tiêu nào đó. Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức
( học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu … ), nhu cầu thẩm mỹ ( cái đẹp, cái bi, cái
hài…), nhu cầu thực hiện được mục đích của mình bằng khả năng của cá


nhân.
Tiếp cận theo thuyết nhu cầu luôn đặt con người và những đặc điểm riêng
của họ vào vị trí trung tâm, luôn tin tưởng vào khả năng của con người.

Thuyết nhận thức – hành vi

2.2.
a.

Tác giả :
Có thể nói thuyết nhận thức – hành vi có nguồn gốc từ thuyết hành vi
và được phát triển dựa trên nền tảng của thuyết hành vi với một số tác giả
nổi tiếng như : J. Watson (1878 – 1958); E. Tolmen (1886 – 1959); E. L.


b.

Tocdike (1874 – 1949)…
Nội dung:
Thuyết nhận thức – hành vi lập luận rẳng: chính tư duy quyết
định phản ứng chứ không phải tác nhân kích thích ( ngoại cảnh ) quyết định
phản ứng. Sở dĩ chúng ta có những hành vi hay tình cảm lệch chuẩn là vì
chúng ta có những suy nghĩ không phù hợp. Vì vậy, để làm thay đổi những
hành vi lệch chuẩn, chúng ta cần thay đổi chính những suy nghĩ không thích
nghi. Theo đó, thuyết nhận thức – hành vi đã thêm yếu tố nhận thức trong
quá trình tạo ra hành vi. Mô hình này được tổng quát như sau:
S  C  R B
Trong đó: S (subject): Tác nhân kích thích
C (cognitive): Nhận thức
6


R (reflexion): Phản ứng con người
B (behavior): Kết quả hành vi
Theo sơ đồ trên, ta thấy trong nhiều trường hợp tác nhân kích
thích (S) không phải là nguyên nhân trực tiếp của hành vi. Thay vào đó,
chính nhận thức (C) về tác nhân kích thích và nhận thức về kết quả hành vi
mới dẫn đến phản ứng (R) của con người và từ đó tạo nên kết quả của hành
vi .
Scott và Drylen (1996) : đã phân chia ra 4 hình thức làm việc với thân
chủ theo thuyết nhận thức – hành vi :


Hình thức giáo dục những kĩ năng đối phó với tình huống: Nhân viên xã hội
trang bị cho thân chủ các khả năng đối mặt với khó khăn, đồng thời cũng

cải tạo môi trường sống của thân chủ nhằm tạo điều kiện cho thân chủ thực



hiện được các hành vi mong đợi.
Hình thức giải quyết theo tiến trình: Thân chủ được khuyến khích chỉ ra
được vấn đề, tạo ra được giải pháp cho vấn đề đó, lựa chọn giải pháp tốt
nhất, lập kế hoạch thực hiện giải pháp đã chọn, theo dõi và lượng giá việc



thực hiện.
Tái tạo lại nhận thức: Là hình thức phổ biến và nổi tiếng nhất của trường
phái nhận thức – hành vi; bao gồm cả trị liệu nhận thức của Beck và trị liệu
hành vi – xúc cảm hợp lý của Ellis. Bằng các kĩ năng như lắng nghe tích
cực, đặt câu hỏi xoay vòng, kỹ năng đối chất, nhân viên xã hội cần khai thác
nhận thức của thân chủ về tình huống họ gặp phải, tấn công vào niềm tin phi
lý ẩn dưới những tương tác của thân chủ, giúp thân chủ tự mình đưa ra
những nhận thức hợp lý trong tình huống của họ, từ đó chủ động thay đổi



hành vi trên cơ sở thay đổi nhận thức.
Hình thức trị liệu nhận thức cấu trúc: Liên quan tới 3 cấu trúc về niềm tin

-

của thân chủ :
Niềm tin bên trong: những giả định về chính bản thân họ.
7



-

Niềm tin trung gian: những suy nghĩ của thân chủ về cuộc sống và thế giới

-

xung quanh.
Niềm tin bên ngoài: những chiến lược giải quyết vấn đề được sử dụng hàng
ngày.
Nhân viên CTXH cần tìm hiểu một cách sâu sắc những
niềm tin bên trong của thân chủ để có thể nắm được gốc rễ vấn đề của thân
chủ.

3.
a.

Các khái niệm sử dụng trong đề tài
Tự tử < tự sát >
Theo nhà tâm lý học người Mỹ, Edwin Shneidman, tự tử là hành động
tự làm tổn thương, cố ý chấm dứt sinh mạng của bản thân.
Theo Charles Bagg, một chuyên gia tâm lý người Anh, cho rằng, tự tử
là hành động cướp đi sinh mạng của bản thân một cách có chủ tâm, và hành
động này có thể là hậu quả của những chứng bệnh tâm thần và cũng có thể là
hậu quả của những động cơ khác nhau; những động cơ này không nhất thiết
phải liên quan đến các chứng bệnh tâm thần, nhưng chúng mạnh hơn cả bản
năng sinh tồn của con người.
Trong cuốn sách Definition of Suicide (định nghĩa về tự tử) xuất bản
năm 1985, Edwin Shneidman đã định nghĩa tự tử như sau: Tự tử là một hành

động tự kết liễu sự sống của bản thân một cách có ý thức. Ở đấy, người ta
phải đối mặt với một tình cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp và họ nhận thấy
rằng tự tử là giải pháp tốt nhất để giải quyết khó khăn đó.
Theo Durkhiem: Tự tử là cái chết do kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp
từ hành động tích cực hay tiêu cực từ cá nhân, nhằm chống lại chính bản
thân mình.

8




Như vậy qua các quan điểm trên tựu chung lại chúng ta có thể hiểu: Tự tử là
hành vi tự kết liễu cuộc đời của chính bản thân mình. Hành động này có thể
được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau và vì nhiều lí do khác nhau.
II: NHỮNG NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH

1.
a.

Thực trạng
Thực trạng chung:
Theo Tổ chức Y tế thế giới, hằng năm trên thế giới có khoảng 1 triệu
người chết vì tự tử, tức khoảng 3.000 người chết mỗi ngày. Đáng lo ngại là
độ tuổi có hành vi tự tử đang trẻ hóa, tập trung chủ yếu ở lứa tuổi 15 - 25.
Hiện số vụ tự tử đã tăng 60% so với 50 năm trước. Dự báo đến năm 2020,
con số này có thể sẽ tăng lên thành 1,5 triệu, và tự tử sẽ là nguyên nhân tử
vong hàng đầu ở các nước phát triển và hàng thứ 2 ở các nước đang phát
triển. Các nước Đông Âu có tỷ lệ tự tử cao nhất toàn cầu (45 - 75 người/
100.000 người). Ở Mỹ, tự tử là nguyên nhân thứ 3 gây tử vong cho thanh

thiếu niên độ tuổi từ 15 - 24. Tỷ lệ tự sát ở nam cao hơn nhiều so với ở nữ
giới. Có khoảng 10-20 triệu vụ tự sát không thành xảy ra mỗi năm trên toàn
thế giới.
Cũng theo các nghiên cứu thì tỉ lệ nữ giới có ý định tự tử nhiều hơn
nam giới nhưng tỉ lệ chết thì nam giới cao hơn phụ nữ. Tỉ lệ tự tử cũng có sự
khác nhau giữa các nước và các khu vực. LB Nga, Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Cannada, Trung Quốc… là những quốc gia có tỉ lệ người tự tử cao


b.

nhất thế giới.
Tỉ lệ người chết vì tử tử ngày càng gia tăng đến mức đáng báo động.
Tình hình chung của tự tử ở học sinh Việt Nam hiện nay
Tại Việt Nam, tỷ lệ thanh thiếu niên từng nghĩ đến chuyện tự tử và
từng tìm cách kết thúc cuộc sống của mình đã tăng cao hơn gấp đôi so với
năm 2005 (Theo cuộc điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên lần
9


thứ 2, năm 2010). Số lượng người dân có ý nghĩ tự tử chiếm khoảng 8,9%
dân số (Theo nghiên cứu của bác sĩ Trần Thị Thanh Hương và các đồng sự,
năm 2006).
Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam
năm 2008 cũng cho thấy, trong hơn 10.000 thanh thiếu niên thì trên 73%
người từng có cảm giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến chuyện tử tự. So
với số liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003, các chuyên gia nhận thấy tỷ
lệ thanh thiếu niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đáng chú ý, tỷ
lệ nghĩ đến chuyện tự tử tăng lên khoảng 30%.
Theo số liệu của Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, TP HCM, trong

vòng một năm (từ tháng 5/2007 - 5/2008), bệnh viện này tiếp nhận 310 ca tự
tử dưới 16 tuổi, trong đó 4 ca tử vong. Tại Bệnh viện Nhi đồng 2, TP HCM
cũng có đến 47 trường hợp trẻ tìm đến cái chết trong năm 2008. Theo thống
kê của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý (PCP), ở Việt Nam
thanh niên từ 15 - 24 tuổi là nhóm lứa tuổi có ý định tự tử cao nhất, trong đó
tỷ lệ nữ cao gấp hai lần so với nam. Điều tra quốc gia về vị thành niên và
thanh niên Việt Nam (năm 2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi
này cho thấy, 4,1% người nghĩ đến chuyện tự tử, 25% đã tìm cách kết thúc
cuộc sống.
Những khó khăn về ứng xử của học sinh trong nghiên cứu của Bệnh
viện Mai Hương chiếm 9,23%. Lứa tuổi từ 10 - 11 có tỷ lệ 42 - 46% gặp khó
khăn về ứng xử. Đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về khó khăn trong ứng xử
giữa học sinh nam (84.60%) và học sinh nữ (15,40%).
Nghiên cứu 21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện 3,7% em có rối
loạn hành vi. Khảo sát sức khỏe tinh thần học sinh trường học thành phố Hà
Nội bằng công cụ SDQ của Tổ chức Y tế Thế giới chuẩn hóa Việt Nam cho
10


thấy trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở
trong độ tuổi 10 - 16 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh thần
chung là 19,46 %. Tỷ lệ này đối với nam, nữ, tiểu học, trung học cơ sở, nội
thành, ngoại thành không có gì khác biệt.
Theo bác sĩ Phạm Anh Tuấn, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương,
nguyên nhân dẫn đến hành vi tự tử thường là do bệnh nhân gặp phải những
biến cố về tình cảm (61,6%). Ngoài ra còn vì lý do tiền bạc (14,8%); bệnh
tật (7,4%) và áp lực học hành thi cử (chiếm 3,5%). Phương thức tự tử phổ
biến của các bệnh nhân là uống thuốc độc hay uống các loại hoá chất (chiếm
tới 97,7%), thông dụng nhất là các loại phục vụ cho nông nghiệp như thuốc
diệt sâu rầy có hay không có phốt pho hữu cơ, thuốc diệt cỏ.



Những khủng hoảng, biến đổi tâm lý của học sinh theo hướng bất thường và
hiện tượng tự tử ngày càng gia tăng rung lên hồi chuông báo động cho

2.
2.1.

những bậc cha mẹ nói riêng, nhà trường và toàn xã hội nói chung.
Nội dung chính
Phân loại :
Esmile Durkhiem – một nhà xã hội hội học người Pháp nổi tiếng đã
phân tự tử thành 4 loại: tự tử ích kỷ, tự tử vị tha, tự tử phi chuẩn mực, và tự



tử cuồng tín.
Tự tử ích kỷ: Hành vi tự tử này xảy ra khi cá nhân bị bỏ rơi, không được
quan tâm đến và cá nhân sống chỉ vì bản thân mình. Đây là kiểu chủ nghĩa
tự do cá nhân quá lớn. Trong hiện tượng tự tử này, Durkhiem cho rằng, đây
là những người có ít ràng buộc xã hội, có nghĩa là các cá nhân trở nên tách
rời khỏi các giá trị và các mong đợi được chia sẻ bởi những người xung
quanh như: gia đình, họ hàng. VD: người độc thân, góa bụa, li hôn dễ tự tử
hơn những người có chồng và ngược lại những gia đình có con cái càng
miễn dịch với hiện tượng tự tử và điều này được tăng cường khi con cái gia
tăng.
11





Tự tử vị tha: Hành vi này xảy ra khi cá nhân xả thân vì mục tiêu của nhóm.
Tự tử vị tha có thể diễn ra dưới hình thức bắt buộc không thể làm khác trong
tình huống nhất định. Kiểu tự tử này chủ yếu do sự gắn kết quá mạnh của cá
nhân với nhóm, với cộng đồng xã hội. Những vụ tự tử này xảy ra khi các cá
nhân hoàn toàn bị ngập vào trong nhóm xã hội của họ, bị liên kết cao độ



khiến cho cá nhân có ít hay không có giá trị.
Tự tử phi chuẩn mực: Đó là sự tự sát trong tình huống nhiễu loạn, hỗn độn,
khủng hoảng. Trong tình huống xã hội như vậy, các chuẩn mực cũ không
còn tác dụng kiểm soát, điều tiết hành vi cá nhân, nhưng chuẩn mực mới
chưa xuất hiện. Cá nhân rơi vào trạng thái chơi vơi, mất phương hướng. Khi
trật tự xã hội bị xáo trộn thì xảy ra sự gia tăng về tự tử phi chuẩn mực. VD:



sự đổ vỡ về kinh tế, tai họa tài chính…
Tự tử cuồng tín: Đó là sự tự sát do niềm tin mù quáng chi phối, do bị kiếm
soát, điều phối quá gắt gao, do sự trừng phạt quá nặng nề về mặt giá trị và



chuẩn mực.
Các kiểu tự tử trên đều liên quan đến một nhân tố xã hội duy nhất đó là sự
cố kết và thống nhất nội tại của nhóm xã hội. Tỉ lệ tự tử trong một xã hội tùy
thuộc vào mức độ mà các thiết chế của nó sản sinh ra những trạng thái tự
kỷ, vị tha, phi chuẩn mực và cuồng tín.
Theo mục đích và cách thức tự tử thì có thể phân loại tự tử thành các

như: tự hại, an tử và hỗ trợ tự tử, tự sát giết người, tấn công tự sát, tự sát tập
thể, hiệp ước tự sát và tự sát phản đối. Tuy nhiên bài tiểu luận này chủ yếu
đề cập tới hiện tượng tự tử xét trên khía cạnh tâm lí và hành vi con người
nên em sẽ không làm rõ cách phân loại này.

2.2.


Biểu hiện của người sắp tự tử
Nói về tự tử, về cái chết

12


Người có ý định tự tử thường nói về tự tử, về cái chết hoặc sự trừng
phạt bản thân, ví dụ: “thà chết đi cho khuất mắt, chết khỏi khổ; chẳng còn gì


quan trọng nữa…”
Chuẩn bị các phương tiện để tự tử
Họ tìm kiếm, chuẩn bị dao, kiếm, thuốc ngủ, dây hoặc thường lui tới
những nơi có thể tử tử như hành lang nhà cao tầng, cầu, sông, hồ..).



Quan tâm tơi cái chết
Thể hiện sự quan tâm bất thường về cái chết, như làm thơ, viết nhật
ký, tự truyện có đề cập đến cái chết và sự ra đi của mình. Tìm đọc các sách,
báo, phim ảnh về cái chết.




Không còn hi vọng về tương lai
Bày tỏ sự cô vọng, bế tắc, mất niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào
tương lai. Trong lời nói, thư từ, email, facebooks của những người có ý định
tự tử thường thể hiện sự vô vọng, không thiết sống.



Căm ghét, đày đọa bản thân
Có cảm giác tội lỗi, xấu hỗ, vô giá trị hoặc chán ghét bản thân. Họ
thường nói về tội lỗi hoặc gánh nặng của bản thân mình đối với những người



xung quanh. Ví dụ: “không có tôi thì anh sẽ sướng hơn…”.
Sắp xếp tư trang, và các việc riêng
Sắp xếp lại tư trang, cho đi các đồ vật có giá trị hoặc liên lạc với các
thành viên gia đình và bạn bè, như nhờ ai đó giúp gửi lời nhắn tới gia đình,



tới người thân…
Nói những lời tạm biệt
Có thể bất ngờ tới thăm hoặc gọi điện cho người thân và bạn bè và nói
những lời vĩnh biệt hoặc nhắn gửi, ám chỉ sự chia tay, như “nếu không còn



gặp lại thì ….”

Rút lui khỏi người thân, bạn bè
13


Trong thời thời gian trầm cảm, bế tắc, người có ý định tự tử thường


sống khép mình, tự cô lập mình với người thân, bạn bè
Có hành vi khác thường
Từ ăn, ngủ thất thường, có các xích míc, xung đột với mọi người xung
quanh; sử dụng rượu bia, thuốc lá và các chất kích thích nhiều hơn bình
thường; có lối sống buông thả và coi thường rủi ro như: phóng xe trên



đường, không sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, không sợ chết;…
Đột ngột thay đổi tâm tính
Có thể thay đổi tâm tính từ lo âu, trầm cảm sang điềm tĩnh, vui vẻ,
thoải mái. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy người này đã có giải pháp vượt
qua bế tắc, nhưng đa số là họ thay đổi tâm tình vì đã đưa ra quyết định tự tử
rồi. Họ bình thản chờ cơ hội để thực hiện. Vì vậy, cần phải theo dõi, hỗ trợ
để ngăn ngừa họ thực hiện tự tử.
Phương thức tự tự
Treo cổ, uống thuốc trừ sâu, dùng súng, nhảy lầu, cầu,ao, hồ, sông,
2.3.

suối, đứng trên đường ray xe lửa, đụng xe, mất máu, cố ý chết đuối, tự
thiêu, điện giật, cắt mạch máu, uống thuốc an thần, các chất kích thích từ ma
túy, sử sụng các dụng cụ làm tắc đường thở, đập đầu, cắn lưỡi, … Tất cả các
phương thức hủy hoại bản thân đều có thể được các đối tượng sử dụng.

a.

Nguyên nhân của hiện tượng tự tử
Nguyên nhân nhìn chung:



Tự tử để giải thoát bản thân: điều này xuất phát từ nguyên nhân tâm lý bên

2.4.

trong của mỗi con người. Sự sống mang đến sự bất mãn chán ghét đến tột độ
đem đến sự sụp đổ hoàn toàn về tinh thần, mất niềm tin nghị lực không tìm
thấy lí do gì để có thể cho họ tồn tại. Họ muốn tìm đến cái chết để giải thoát
bản thân khỏi ốm đau, bệnh tật, tình trạng túng quẫn, nợ nần, trốn tránh trách
nhiệm, …

14




Nguyên nhân xuất phát từ môi trường xã hội: tự tử xảy ra do những tác
nhân, những sự kiện bên ngoài, những ảnh hưởng từ phía xã hội, chẳng hạn
như bị người yêu chối bỏ, bị thầy cô giáo phạt, bị bạn bè trêu chọc, bị quấy
rối, bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng hiếp, bị cha mẹ trách mắng, bị mất cha
hay mẹ, cha mẹ ly hôn, bị mất việc, bị sạt nghiệp, bị vỡ nợ, bị phản bội,…
Đôi khi nhiều thanh thiếu niên tử tử vì một nguyên nhân rất lạ đời, như thần
tượng của họ (ngôi sao ca nhạc, ngôi sao điện ảnh, người mẫu thời trang,…)
bị chết hoặc tự tử, dẫn đến việc họ quyết định chết theo.




Tự tử cũng là sự thách thức và kháng nghị: Nhiều người sự dụng cách
thức tự tử để thể hiện sự phản đối 1 điều gì đó hay để đe dọa người khác.
VD: Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tẩm xăng tự thiêu tại một ngã tư ở Sài
Gòn vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 nhằm phản đối sự đàn áp Phật giáo của
chính quyền Ngô Đình Diệm, hay một số người con nhịn đói đến chết để
phản đối quyết định của bố mẹ mình…



Các chứng bệnh về tâm lý, những rối loạn tinh thần, chẳng hạn như bị
bệnh tâm thần phân liệt, bị trầm cảm nặng, bị chứng rối loạn lưỡng cực (lúc
thì vui đến phát cuồng, lúc thì buồn đến mức suy sụp tinh thần), bị sang chấn
tâm lý mạnh (có thể là do mất đi người thân yêu nhất, do bị chối bỏ, bị hắt
hủi,…).



Lạm dụng các chất kích thích: Việc lạm dụng các chất kích thích trong thời
gian ngắn cũng như trong thời gian dài đều làm nguy cơ tự tử tăng lên. Hơn
50% số người tự tử có dính líu đến việc sử dụng bia rượu và ma túy. Hơn
25% số người nghiện ma túy và nghiện rượu tự tử. Trong lứa tuổi vị thành
niên, việc lạm dụng bia rượu và ma túy chiếm tỷ lệ 70% số trẻ vị thành niên
tự tử.

15





Do các chứng bệnh về sinh lý: như bị mắc phải các chứng bệnh nan y, bị
khuyết tật hoặc bị mất khả năng vận động do tai nạn đột ngột gây ra,… Não
bộ bị thương tổn, hoạt động kém hiệu quả ở một vài chức năng nào đó cũng
dễ dẫn đến việc tự tử. Những thương tổn sinh lý này gây ra thiểu năng trong
quá trình nhận thức và ảnh hưởng đến các hoạt động sống, các quan hệ xã
hội của người bệnh, chúng tác động ngược trở lại với xúc cảm, tình cảm, tâm
trạng,… của người bệnh, khiến cho nguy cơ tự tử của người bệnh tăng cao.



Tự tử để thoát khỏi sử trừng phạt của pháp luật: đây cũng là nguyên nhân
của nhiều vụ tự tử khác nhau. Nhiều người sau khi phạm tội cảm thấy ăn năn
hối hận và sợ hãi khi nghĩ đến cảnh phải chịu tội nên trốn tránh trách nhiệm
bằng cách tự tử.



Tự sát để phục vụ mục đích quân sự: sử dụng cái chết của một hay nhiều
người để phục vụ mục đích quân sự. VD: những vụ tự tử của những người
mật thám khi bị lộ để bảo toàn bí mật…



Tự sát vì nghĩa vụ: Tự sát vì nghĩa vụ hay bổn phận là một hành động tự sát
có hoặc không gây tử vong, được thực hiện với niềm tin rằng việc này sẽ đạt
được những điều tốt đẹp hơn, chứ không phải là để thoát khỏi những điều
kiện quá đáng hoặc quá khắc nghiệt. VD: Các quý tộc La Mã bị truất phế đôi
khi được phép tự sát để cho gia đình của họ thoát khỏi những hình phạt.


b. Nguyên nhân của hiện tượng tự tử phổ biến của học sinh hiện nay:

Ngoài những nguyên nhân chung trên, do một số tính chất đặc thù
của lứa tuổi nên tỉ lệ học sinh, sinh viên tự tử nhiều hơn hẳn các lứa tuổi
khác đó là so các nguyên nhân sau:


Những căng thẳng trong gia đình, như: bất hòa giữa cha - mẹ, cha mẹ ly
hôn, sự thiếu quan tâm của cha mẹ về tâm lý, sự độc tài, sự áp đặt, sự buông
lỏng, thờ ơ của cha mẹ, kinh tế gia đình khó khăn, tình trạng trầm cảm - lo
16


âu của cha mẹ, bệnh lý của cha mẹ hoặc của trẻ… là những yếu tố rất


thường gặp trong những trường hợp tự tử tuổi vị thành niên.
Bắt chước: Việc trẻ chọn lựa hành vi tự tử có liên quan đến nhiều vấn đề.
Ngoại trừ vấn đề bệnh lý tâm thần do bất thường của hoạt động não, đa số
yếu tố ảnh hưởng đến việc tự tử ở học sinh là những vấn đề xã hội, nhà
trường và gia đình. Các nhà nghiên cứu tâm lý - tâm thần - xã hội học đã ghi
nhận tình trạng bắt chước, “lây bệnh” từ những chương trình truyền hình,
phim ảnh, các thông tin xã hội về tình trạng tự tử. Theo nhà nghiên cứu thì
hiện tượng tự tử càng lúc càng tăng thêm theo từng đợt xuất hiện các bộ
phim liên quan đến những hành vi tự tử nhất là các bộ phim có những ngôi



sao thần tượng.

Yếu tố bất an, căng thẳng trong trường học, trong giao tiếp với bạn bè. Ở
độ tuổi này, mối quan hệ với trường học và bạn bè là mối quan hệ ngoài gia
đình duy nhất của trẻ, có tính nâng đỡ và xây dựng nhân cách của trẻ. Khi có
những khó khăn trong mối quan hệ này, cộng với những khó khăn xuất phát
từ gia đình, trẻ sẽ mất nguồn lực, mất đi sự động viên và giúp đỡ trong khi
tình trạng căng thẳng nội tại cũng vừa xuất hiện và mạnh mẽ dần. Chính vì
vậy, việc trẻ thu mình, tự kỷ, trầm cảm và nặng nhất là tự tử là điều rất dễ
xẩy ra. Một số vấn đề nảy sinh tại trường học như là: Không đạt được kết
quả mong muốn trong học tập như: thi rớt, bị điểm kém…; Bị mất danh dự,
bị sỉ nhục trước trường, trước tập thể lớp; Bị người thân xúc phạm, vu oan,
hiểu lầm; Bị áp lực do gia đình, nhà trường kỳ vọng ở các em quá cao trong



học tập; Bị ngăn cấm trong tình yêu, tình bạn
Thiếu trong 3 khía cạnh: sinh lí – tâm lí – quan hệ:
Dưới góc độ sinh lý, chúng ta đều biết ở độ tuổi thanh thiếu niên,
hưng phấn trong thần kinh rất mạnh, do đó các em dễ mất kiểm soát và có
hành động bất ngờ.
17


Dưới góc độ tâm lý, tuổi mới lớn đang gặp nhiều trục trặc trong thời
điểm dậy thì, tính tự ái cực kỳ cao, dễ thổi phồng mọi việc, lại gặp những
vấp váp đầu đời trong khi chưa có kinh nghiệm sống, chưa có kỹ năng ứng
phó.
Dưới góc độ quan hệ xã hội, đây là lúc mà vị thế của người lớn giảm
một bậc trong mắt trẻ và các em tự nâng vị thế của mình lên một bậc, cho
mình nhiều quyền quyết định hơn - thậm chí quyết định cả mạng sống của
mình, giữa các em và người lớn đang có một “dấu cách” nhất định, gia đình

ít gần gũi và ít sát sao các em hơn so với lúc trước.


Thiếu kỹ năng đối phó với những chuyện xảy ra trong cuộc sống: rõ ràng
điểm kém, một lần thi trượt, vài trăm ngàn đồng, một lời trách oan của cô
giáo… đều là những sự việc các em hoàn toàn có thể vượt qua, hoàn toàn
giải quyết được. Tuy nhiên, không ai chỉ bảo cho các em kỹ năng ứng phó
với những chuyện đời thường này cả nên các em vào sự chông chênh trong



cảm xúc, sự bế tắc trong suy nghĩ và bộc phát trong hành động.
….
2.5.
Hậu quả của tự tử

a.

Đối với bản thân người tự tử: Bản thân những học sinh tự tử sẽ vĩnh viễn

b.

mất đi cơ hội được sống, được học tập và phấn đấu, được phát triển.
Đối với gia đình và những người thân: họ sẽ phải gánh chịu một vết thương
tinh thần to lớn không gì bù đắp được, thậm chí họ sẽ sống trong cảm giác

c.

tội lỗi, mặc cảm đối với người đã khuất.
Đối với xã hội: xã hội sẽ mất đi những chủ nhân tương lại của đất nước,

đồng thời hiện tượng tự tử diễn ra cũng tạo nguy cơ cho các thành viên khác
trong xã hội cũng có hoàn cảnh bế tắc sẽ học đòi, bắt chước, gây ra nhiều
vấn đề liên quan.

18


2.6.
a.

Áp dụng các thuyết XXH để giải thích vấn đề tự tử và đưa ra

định hướng trong giải quyết vấn đề
Thuyết nhu cầu
Thuyết nhu cầu đưa ra 5 bậc thang nhu cầu cần thiết của con người là:
nhu cầu sinh học < ăn, mặc, ở, …>, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu
được tôn trọng, nhu cầu được khẳng định, phát triển. Mỗi con người trong xã
hội có ứng với mỗi hoàn cảnh sống khác nhau thì lại có những nhu cầu khao
khát được đáp ứng khác nhau. VD: người nghèo đói thì mong muốn được
đáp ứng nhưng nhu cầu cơ bản ở bậc thang thứ nhất là ăn, mặc, ở…. Những
người khác đã có được cuộc sống no đủ về mặt vật chất thì lại khát khao
được yêu thương, được quan tâm, được có cơ hội khẳng định mình, họ lại
nhìn những người nghèo nhưng có tình thương, sự đùm bọc, họ lại mong
ước được như thế. Trong xã hội, không có cuộc sống của ai là toàn vẹn tất
cả, ai ai cũng có những nhu cầu cho dù nhu cầu đó thuộc bậc 1, hay 2,3,4,5.
Việc không được đáp ứng các nhu cầu ở các cấp độ khiến con người rơi vào
sự bế tắc và dẫn tới nguy cơ tự tử cao. Xã hội ngày càng phát triển thì sự
thiếu hụt nhu cầu ở những bậc cao hơn là những nguyên nhân phổ biến cho
nguyên nhân tự tử: VD: không được đáp ứng nhu cầu về mặt tình cảm, sự
thất bại trong sự nghiệp,…. Thuyết nhu cầu cho ta một cái nhìn tổng quát về

hiện tượng tự tử - sự thiếu hụt sâu sắc các nhu cầu.
Thuyết nhu cầu cho thấy tất cả các đối tượng trong xã hội dù giàu hay
nghèo, trẻ hay già, nam hay nữ… đều có thể có nguy cơ tự tử. Vì thế cần xác
định rõ ràng nhu cầu cần được đáp ứng của các đối tượng có dấu hiệu tự tử
để có biện pháp đáp ứng và ngăn chặn nguy cơ tốt nhất.

b.

Thuyết nhận - thức hành vi
Mô hình tổng quát:
19


S  C  R B
Trong đó: S (subject): Tác nhân kích thích
C (cognitive): Nhận thức
R (reflexion): Phản ứng con người
B (behavior): Kết quả hành vi

Dựa vào mô hình của thuyết nhận thức – hành vi thì ta có thể thấy
hiện tượng tự tử xuất phát điểm từ những suy nghĩ không tích cực < ở đây
em không phân tích về những trường hợp tự tử đặc biệt như tự tử vì mục
đích quân sự và tự tử vì nghĩa vụ >. Từ những tác nhân không tích cực bên
ngoài mỗi người sẽ có cách nhận thức khác nhau : có người sẽ coi đó là
thách thức tất yếu trong cuộc sống, là những bước cản sẽ phải vượt vượt qua
và sẽ chấp nhận đối mặt với nó -> phản ứng tích cực -> hành vi tích cực;
Còn đối với những người nhận thức quá nặng nề về tác nhân không tích cực
này, phủ nhận, chối bỏ nó -> tâm trạng nặng nề -> phản ứng không tích cực
-> kết quả không tích cực < mà ở đây là tự sát >
Thuyết nhận thức – hành vi khái quát cho ta một cách can thiệp hiệu

quả đối với những người có ý định tự tử hay những người tự tử không thành
và cả những đối tượng có hành vi tiêu cực khác là can thiệp vào suy nghĩ
nhận thức của họ, làm cho họ có cách nhìn nhận khác đối với các tác nhân
kích thích hay chính là những biến cố trong cuộc sống để họ phản ứng tích
cực hơn và từ đó tạo những thay đổi tốt đẹp trong cuộc sống.
III: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP
1.

Kết luận

2.

Giải pháp:
20


a.

Giải pháp chung
Tự tử đã không còn là vấn đề nhỏ lẻ có thể giải quyết dễ dàng trong
phạm vi gia đình mà nó cần sự chung tay hành động của cả xã hội vì chính
bản thân mỗi người, những người thân và toàn xã hội.

-

Tăng cường sự quan tâm giữa các thành viên trong các nhóm, lớp nhất là
trong gia đình để bản thân mỗi người luôn có một chỗ dựa vững chắc và can
thiệp kịp thời khi thành viên có dấu hiệu tiêu cực.

-


Tuyển chọn và đào tạo các nhóm tình nguyện viên để phục vụ việc tư vấn
các vấn đề liên quan đến tính riêng tư của cá nhân.

-

Nâng cao khả năng phục hồi tinh thần thông qua cách tư duy tích cực và các
mối quan hệ xã hội.

-

Giáo dục về sự tự tử, bao gồm cả những tác nhân có nguy cơ, những dấu
hiệu cảnh báo, và khả năng sẵn sàng hỗ trợ.

-

Nâng cao hiệu quả của các dịch vụ y tế và phúc lợi xã hội. Nâng cao chất
lượng đào tạo các chuyên viên y tế và thành lập các trung tâm tư vấn cho
những người bị khủng hoảng. Các chính sách xã hội cần bao phủ rộng hơn
và toàn diện hơn để trợ giúp những đối tượng khó khăn yếu thế.

-

Hạn chế vấn đề bạo lực trong gia đình, nhà trường và xã hội. Hạn chế việc
lạm dụng các chất kích thích để giảm bớt những vấn đề rắc rối về sức khỏe
tinh thần.

-

Hạn chế khả năng tiếp cận dễ dàng đối với những phương tiện dùng để tự tử.


21


-

Can thiệp trực tiếp đến những nhóm đối tượng có nguy cơ tự tử cao có thể là
thông qua Liệu pháp tâm lý nhóm, giúp cho những người có ý muốn tự tử có
được những kỹ năng sống cơ bản trong đời sống hàng ngày, giúp họ nhận
thức được những quyền cá nhân cơ bản của họ, hình thành cho họ những kỹ
năng xoa dịu các xúc cảm, thiết lập những ranh giới trong các mối quan hệ
xã hội, tham gia các hoạt động giải trí lành mạnh, và hình thành những kỹ

b.

năng giải quyết các vấn đề khó khăn của cuộc sống.
Đối với học sinh:
Trong việc phát hiện, ngăn chặn và phòng ngừa hiện tượng học sinh tự
tử thì giáo dục nhà trường đóng vai trò chủ đạo, giáo dục gia đình đóng vai
trò then chốt và sự cộng hưởng của xã hội giữ vai trò quan trọng. Phải tăng
cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài những giải
pháp chung trên thì đối với học sinh gia đình và nhà trường cần:

-

Rễ chắc thì cây sẽ vững. Gia đình hòa thuận ấm êm thì con trẻ sẽ khó gục đổ
một cách dễ dàng. Sự ấm áp trong tình cảm gia đình đối với các bé là sự đảm
bảo lớn nhất. Bố mẹ, những người thân của trẻ hãy cố gắng dành nhiều thời
gian nghe trẻ tâm sự, chia sẻ về chuyện học tập, bạn bè và đưa ra những lời


-

khuyên khi cần thiết.
Nhà trường không chỉ dạy chữ, dạy khoa học mà còn phải chú trọng dạy kỹ
năng để sống cho học sinh. 100 tiết khoa học chưa chắc giúp cho trẻ thành
công nhưng 100 tiết kỹ năng sống có thể làm cho trẻ vững vàng hơn hẳn.
Phải hướng dẫn các em cách giải quyết những vấn đề thường gặp, phải đem
những câu chuyện tự tử và hậu quả của nó làm bài học kinh nghiệm cho các
học sinh khác, không thể bỏ phí những bài học mà chúng ta đã trả giá quá

-

đắt bằng chính mạng sống của các em được.
Các tổ chức xã hội mà nòng cốt là các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường
và các cơ quan truyền thông cũng phải tạo thành một sức mạnh thông tin
22


tổng hợp, một “tiếng chuông” chung để cảnh tỉnh các em, tạo ra những sân
chơi lành mạnh, tổ chức những chuyên đề giúp các em biết cách tự tháo gỡ
-

những khúc mắc của mình.
Giáo dục để các em biết được sự sống là quan trọng thế nào. Vai trò của bản
thân mỗi trẻ nhỏ trong việc ý thức mạng sống bản thân vẫn là quan trọng
nhất.
Tuy nhiên, Tự sát không phải là một biến cố bất ngờ khó hiểu ở học
sinh. Các học sinh có ý tưởng tự sát sẽ bộc lộ cho những người xung quanh
thấy đủ các dấu hiệu báo trước và đó cũng chính là cơ hội để người lớn can
thiệp, giúp đỡ các em. Trong công tác dự phòng tự tử, cha mẹ học sinh, giáo

viên và nhân viên của nhà trường phải kịp thời phối hợp và thực hiện các
biện pháp nhằm phát hiện sớm, can thiệp và hỗ trợ cho những học sinh có
nguy cơ tự sát. Trong đó cần đặc biết chú ý một số điều cốt lõi sau:



Ở trường học:
- Phát hiện học sinh có rối loạn về cảm xúc và trợ giúp tâm lý cho các
em;
- Tăng cường mối quan hệ gắn bó hơn với trẻ bằng cách nói chuyện
với các em, cố gắng hiểu và giúp đỡ các em;
- Giảm bớt những âu lo thường ngày cho trẻ thông qua việc giảm bớt
những áp lực trong học tập và yêu cầu của gia đình, thầy cô;
- Theo dõi và nhận biết sớm các thông điệp về tự sát qua cách nói
chuyện hay sự thay đổi trong hành vi của trẻ;
- Giúp đỡ những học sinh có biểu hiện trốn học, bạo lực, cảm xúc thất
thường;

23


- Xoá bỏ các mặc cảm và khinh miệt của dư luận đối với những học
sinh có đặc điểm tính cách khác biệt, những học sinh có bệnh và tránh việc
các em lạm dụng rượu và ma túy hay các chất kích thích;
- Gửi học sinh đi điều trị rối loạn tâm thần và lạm dụng rượu, ma túy
(nếu có);
- Hạn chế học sinh tiếp xúc với các phương tiện có thể dùng để tự sát
như thuốc độc, thuốc gây chết người, thuốc trừ sâu, súng và các vũ khi
khác...;
- Cung cấp cho phụ huynh, giáo viên và các nhân viên trường học

cách tiếp xúc và cách hỗ trợ cho những học sinh gặp khó khăn về tâm lý.


Ở nhà:
Việc đầu tiên khi biết trẻ có ý định tự tử, đó là phải đưa trẻ vào môi
trường an toàn: tránh xa các vật dụng có thể tự sát (dao, kéo, vật nhọn, dây,
vải, súng, vật cứng…), có thể quan sát trẻ 24/24 (tốt nhất là nhập viện). Tuy
vậy, điều quan trọng là giúp trẻ có thể nói về vấn đề tự tử: ý định tự tử, cách
thức thực hiện mong muốn, nguyên nhân dẫn đến ý định tự tử. Đó là sự quan
tâm cần thiết mà trẻ đang thực sự thiếu thốn trong giai đoạn này. Việc nói lên
ý định tự tử giúp trẻ dễ dàng bộc lộ những cảm xúc bị kềm nén, những lo âu
do stress, những căng thẳng khi quyết định tự tử… cũng như giúp phụ huynh
có thể cho trẻ thấy sự quan tâm, yêu thương của người thân dành cho trẻ.

LỜI KẾT

24



×