Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích những nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam và nêu ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.24 KB, 11 trang )

Câu 1: Phân tích những nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng
CNXH ở Việt Nam và nêu ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta hiện nay?
Bài làm
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề
cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn
liên với CNXH, ....
Nếu nói rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư
tưởng HCM, thì tư tưởng về XHCN là một bộ phận cốt yếu của nội dung ấy. Đây là
vấn đề được Chủ tịch HCM xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng ta.Tư tưởng đó trở thành vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên
trì, giữ vững định hướng XHCN ở nước ta.
Về phương thức tiếp cận HCM về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở VN.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế. Hồ Chí Minh
đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo
và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam. Người khẳng định vai trò
quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự
chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa
xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào
các quan hệ xã hội. Người cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình thức
quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh, "không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều
trải qua các bước phát triển tuần tự như vậy". Người sớm đến với tư tưởng quá độ
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện văn hóa, đưa văn hóa
thâm nhập vào chính trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa, kinh
tế và chính trị. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một hình thái xã hội phát triển
cao của văn hóa, đỉnh cao của nền văn minh nhân loại.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ nghĩa xã
hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội


1


không phủ nhận lợi ích cá nhân, và còn đề cao, tôn trọng các giá trị cá nhân, phát
triển toàn diện năng lực của cá nhân. Nhưng cá nhân cũng biết hy sinh vì lợi ích xã
hội.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc và phương Đông. Nét sáng tạo của HCM là ở chỗ,
Người lý giải chủ nghĩa xã hội từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu giải
phóng dân tộc một cách triệt để. Đó là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố:
truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa. Hồ
Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, cống hiến xuất sắc
vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cách
mạng Việt Nam đòi hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất
mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên
làm cách mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang
rơi vào khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng dân
tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho
phong trào giải phóng các dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng chủ nghĩa xã hội
trong dân.
Thứ hai, quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH
Hồ Chí Minh có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CNXH: phản ánh đầy đủ
những đặc trưng cốt lõi của CNXH. Khái quát những đặc trưng này, chúng ta thấy

nội dung của nó bao hàm hết thảy mọi mặt đời sống xã hội, làm hiện diện ra một chế
độ xã hội ưu việt; đó là:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn
liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, văn hóa, dân giàu, nước mạnh; Nền
2


tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân
chủ, nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân,
do dân, vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Hay, Chủ nghĩa xã hội có quan
hệ hoà bình, hợp tác, đoàn kết, hữu nghị với nhân dân lao dộng các nước;…
Những đặc trưng này bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, thiên nhiên và con
người. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội chứa đựng trong đó một hệ thống các giá
trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các nhu cầu lợi ích của nó. Vì lấy
con người làm mục tiêu phát triển, chủ nghĩa xã hội theo quan niệm Hồ Chí Minh là
chủ nghĩa xã hội của con người, vì con người. Chế độ xã hội đó mang bản chất dân
chủ và nhân đạo nhất trong tiến trình vận động của xã hội loài người. Có thể coi đây
là mô hình cấu trúc chủ nghĩa xã hội theo quan niệm Hồ Chí Minh.
Ba là, quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH:
Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
CNXH là sự thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của con người, lợi ích thiết yếu
của người lao động, từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn năng động của chế độ xã
hội.
Mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu của
CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một: độc lập cho dân tộc, tự do hạnh
phúc cho nhân dân.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm:

Mục tiêu chính trị: Xác lập quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ, xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
Mục tiêu kinh tế: Xây dựng nền kinh tế phát triển cao với công-nông nghiệp
hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống no đủ, đảm bảo các
nhu cầu, lợi ích.
Mục tiêu văn hóa - xã hội: Hình thành nền văn hóa có nội dung xã hội chủ
nghĩa, có tính chất dân tộc, có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tinh thần ngày càng
3


cao của nhân dân lao động; xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phát triển toàn
diện.
Về động lực của chủ nghĩa xã hội:
Theo Hồ Chí Minh: Các động lực của chủ nghĩa xã hội bao gồm động lực bên
trong và động lực bên ngoài, động lực vật chất và động lực tinh thần, các động lực
cụ thể: kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong đó, động lực quan trọng và quyết định nhất
là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức.
Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực quan
trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp từ cá nhân đến
xã hội. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng
tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ
nghĩa xã hội. (Còn thời gian liên hệ)
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn tiềm tàng của phát
triển. Hồ Chí Minh nhận thấy vai trò lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa
quyết định trong phát huy và phát triển mọi nguồn lực ấy. Đây là hạt nhân trong hệ
thống động lực của chủ nghĩa xã hội. Ngoài các động lực bên trong, những nhân tố
nội sinh, theo Hồ Chí Minh, sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp
được với các nhân tố động lực bên ngoài. Một trong những nhân tố động lực bên ngoài
là sức mạnh thời đại, đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, những thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới...

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Về hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở vận dụng
lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên CNXH của chủ nghĩa
Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến dần lên CNXH . Như vậy,
quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan
niệm về hình thái quá độ gián tiếp, cụ thể là quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ
4


thể hóa và làm phong phú thêm lý luận Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Về đặc điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau khi cơ bản hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên
nền tảng liên minh công - nông - trí thức đã được củng cố vững chắc, Việt Nam tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới không
bắt đầu bằng một cuộc đảo lộn chính trị, giành chính quyền. Đặc điểm lớn nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, không kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cho thấy Việt Nam đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một tiền đề xuất phát rất thấp, được thể hiện rất rõ trong tất cả các mặt của
đời sống xã hội và nó chi phối tất cả các đặc điểm khác; Chúng ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh; đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược, phản ánh đúng thực chất và quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Ở phương diện
quốc tế, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc

tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một loạt nước, chúng ta nhận được sự
hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, nhưng mặt khác lại luôn luôn bị chủ nghĩa đế
quốc tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng
ta phải có ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế
thuận lợi, hạn chế những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên CNXH:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật cho CNXH, xây dựng các tiền đề
về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng cho CNXH
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng
trong đó lấy xây dựng là trọng tâm, là nội dung cốt yếu, chủ chốt, lâu dài…
Về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội . Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang tính toàn diện.
Về chính trị: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Cần chỉnh
đốn nâng cao sức chiến đấu và xây dựng cơ cấu tổ chức Đảng, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới của cách mạng. Đảng phải gắn bó với dân, được nhân dân tin yêu,

5


ủng hộ; củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, lấy nòng cốt là liên minh
công nhân, nông dân và trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò
quản lý của Nhà nước, củng cố và tăng cường sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính
trị.
Về kinh tế: Xây dựng cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và vùng. Xây
dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp, củng cố hệ thống thương nghiệp. Đối với
kinh tế vùng, kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn cần được phát triển đồng đều, chú
trọng phát triển kinh tế vùng và hải đảo. Người chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, trong đó kinh tế quốc doanh cần được
ưu tiên phát triển, kinh tế hợp tác xã cần được khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ
phát triển. Đối với thợ thủ công, những người lao động khác và các nhà tư sản công

thương cần hướng dẫn họ hoạt động kinh tế. Về quản lý kinh tế, cần dựa trên cơ sở
hạch toán, hiệu quả cao. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Về văn hóa – xã hội: Coi trọng việc xây dựng con người mới có đủ đức và tài.
Người đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học-kĩ thuật, coi trọng việc nâng
cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội cần phải học cả văn hóa, chính trị, xã hội.
Về bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề
ra hai nguyên tắc có tính phương pháp luận: Thứ nhất, quán triệt những quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội có mục
tiêu, nguyên lý chung giống nhau, song mỗi nước lại có đặc điểm lịch sử khác nhau,
nên phương thức, biện pháp, bước đi, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội khác
nhau. Thứ hai, nước ta có những đặc điểm riêng, nên cần phải độc lập suy nghĩ, điều
tra nghiên cứu. Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta không thể giống Liên Xô… ta
có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
- Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định
phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: Dần dần, thận

6


trọng, bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng; sự tuần tự của các
bước đi do điều kiện khách quan quy định; Phải tiến nhanh, tiến mạnh nhưng không
làm bừa, làm ẩu mà phải hợp lòng dân. Hồ Chí Minh cho rằng, phù hợp với lòng
dân cũng là phù hợp quy luật; Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là
"con đường phải đi của chúng ta", nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhưng công nghiệp hóa phải trên cơ sở hình thành cho được một nền
nông nghiệp toàn diện để giải quyết vấn đề lương thực cho nhân dân và xây dựng

một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ để thỏa mãn các nhu cầu tiêu
dùng thiết yếu của nhân dân.
- Cùng với bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm
cụ thể sau đây:
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
+ Kết hợp xây dựng với bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai miền khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp; kế hoạch một thì
biện pháp phải mười, hai mươi để thực hiện thắng lợi kế hoạch.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản quyết định lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân
để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng
cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và khai
thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích của quần chúng lao động.
Ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Từ những nội dung trên ta có
thể thấy, Hồ Chí Minh đã tìm tòi, sáng tạo con đường đi lên CNHX ở Việt Nam, chỉ
ra các bước đi, phương thức, hình thức và biện pháp cụ thể để xây dựng CNXH phù
7


hợp với tình hình thực tiễn đất nước và những biến đổi của thế giới. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam bao quát những vấn đề
cốt lõi, cơ bản nhất trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lê
nin. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên

trì, giữ vững định hướng XHCN, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề xác định hình thức,
biện pháp và bước đi lên CNXH, xây dựng và từng bước hoàn thiện mô hình XHCN
hiện đại, phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại.
Trong điều kiện hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta cần tập trung vào các hướng sau: Sự nghiệp đổi mới mà
toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện trong giai đoạn hiện nay để thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc dân tộc và CNXH diễn ra trong bối cảnh, điều kiện trong nước
và quốc tế đã có nhiều biến động so với sinh thời của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên
những luận điểm của Người về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam,
cùng với toàn bộ di sản tư tưởng của Người vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp
luận chỉ đạo chúng ta tiếp tục suy nghĩ, sáng tạo để tìm ra những hình thức, bước đi,
cách làm trong tình hình mới, làm sống động tư tưởng Hồ Chí Minh trước một thực
tiễn mới, từ đó góp phần làm phong phú thêm lý luận về CNXH ở thời đại ngày nay.
Tại ĐH XI, Đảng ta đánh giá: trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước
có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt
được những thành tựu quan trọng. Ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp
của kinh tế thế giới và trong nước. Cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Duy trì
được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền
kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị
thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị đạt một số kết quả tích cực.
Tuy nhiên, Đại hội XI đã nhận định một số nhiệm vụ, mục tiêu đề ra chưa đạt.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
8



tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm;
chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên. Những hạn chế,
yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội,
bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội
phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những
điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu
tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những
yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch; nhưng trực
tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều
vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo
trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của
NN trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm;
kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực,
phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập
Tiếp thu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng CNXH trong thời
kỳ đổi mới, Tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định:
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng

Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước
9


pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí
tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí.
Tóm lại: Kế thừa và vận dụng sáng tạo của Đảng ta những tư tưởng của CT
HCM về CNXH vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
10


XHCN hiện nay. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CM của Đảng và
nhân dân ta hiện nay và trong tương lai. Nhìn lại chặng đường hơn 85 năm qua,
Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH, con đường đi lên CNXH mà CT
HCM đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành được thắng lợi hết sức to lớn. Tư
tưởng HCM về CNXH & con đuờng đi lên CNXH đi lên CNXH đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của CMVN.

11



×